1975. Tháng 4. Đại thắng mùa xuân. Như tên hồi
ký Văn Tiến Dũng viết. Và cho tướng Giáp ra rìa đại tiệc. Báo Nhân Dân dành hai
trang đăng bài Bùi Tín tường thuật “giải phóng Sài Gòn”. Xem đến đoạn Bùi Tín
vào Dinh Độc Lập mở tủ lạnh xem “chúng nó” ăn những gì, tôi không đọc nữa. Kiểm
kê sự ăn uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động
quần chúng căm thù bọn bóc lột. Tức là bấm vào cái huyệt ghen ăn tức ở. Mở trí
khôn cho quần chúng ở cái điểm này mới quý đây!
Bỏ báo xuống là một phản ứng buồn. Chính tôi
thua. Với thân phận kẻ bị đàn áp, rất bản năng tôi đứng ngay vào phía bà con
đại bại trong Nam. Tự nhiên cứ hay hát thầm “Chung một tương lai tối mù tối
mịt” theo điệu một bài hát ca ngợi Biển Đông chung chạ môi răng.
Gần trưa 30-4, Nguyễn Thành Long rủ tôi đi bộ về phía ngã tư Lý Thường Kiệt - Phố Huế. Đường ngày càng đông người hò reo. Tôi nói: “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù hộ…”. vừa lúc một chiếc xe máy phóng vượt lên, người ngồi sau vung một bánh pháo đang nổ tụng tóe, tôi không nói tiếp nữa.
Tôi dành một trang nhật ký viết: Le rideau tombe! - Hạ màn. Sáng 1-5, con gái tôi dậy rất sớm khe khẽ lấy khăn quàng đỏ xin phép cho lên xe Nhà hát.
Tôi vẫy cháu đến bên giường. Thấy cần cho cháu hiểu điều cơ bản:
- Cho con đi mừng đất nước hết chiến tranh, dân thôi chết chóc chứ không phải mừng chiến thắng vì khi con reo hò thì trong kia có thể ông nội và các cô chú của con lại đang khóc… bởi bom đạn ngoài này giết chết mất người thân.
Tự kiềm chế, tôi tránh chữ nội chiến, sợ cháu
ra ngoài bép xép nhưng chính cũng lúc đó trong đầu tôi chợt lóe lên một liên
hệ: Đảng đã trung thành noi sít sao gương hai ông anh cả và hai mở đầu sử mới
của đất nước đều bằng nội chiến tàn khốc để rồi rút ra kết luận thần thánh
“chính quyền ra từ nòng súng”. Nhưng sao người ta cứ phải mượn danh nghĩa chống
ngoại xâm? Kia, từ 1972 đến 1975, ba năm qua toàn là Việt Nam thịt Việt Nam! Mỹ
cuối cùng chẳng phải đã học Trung Quốc vở Việt Nam hoá chiến tranh đó sao? Để
nó đánh, còn mình tung hứng chỉ trỏ đằng sau có hơn không?
Đâu chỉ tôi lo người nhà tôi trong kia khóc.
Ngoài này tôi đã chứng kiến người khóc. Gần nhà tôi có cụ Lập, hơn bảy chục
tuổi, thổi clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại, cùng dàn
nhạc theo cách mạng, đánh Pháp rồi tập kết ra Bắc cùng với Dương Quang Thiện,
Lý Thương, các giám đốc Nhà hát Giao hưởng, Hợp xướng, Nhạc vũ kịch, Nhà hát Ca
Múa Nhạc. Mỗi cụ Lập không đảng thì lính trơn. Sống một mình. Nghèo, đói. Bít
tất nâu bạc phếch quanh năm ở chân, đúng hơn, hết chun, tụt nằm lòng thòng ôm
mắt cá. Đôi dép râu quai vồng ngỏng lên như những còng vó. Mưa gió ra chuồng xí
về thấy tôi dịch sách ở đầu hiên (mất điện), cụ dừng lại.
Đập vào mắt tôi là đôi bít tất lúc này đã tụt
ra nửa bàn chân đang như hai cái bao tải con lau chùi vệ sinh cho dẫy hè sứt mẻ
ướt dượt, cho vũng nước đái đã lên váng mấy màu ở chuồng xí. Tôi thầm nghĩ: “Cụ
không tập kết thì cụ đang đi giày da bóng loáng và quần téc-gan màu than đá”.
Về sau, trong mắt tôi, đôi bí tất lòng thòng ở
hai cổ chân gầy mốc meo và lật phật rủ ra ngoài đến một nửa kia trở thành ngọn
cờ của đầu hàng buông xuôi. “Tôi là vì nghệ thuật mà hăm hở ra đi, nhưng nghĩ
lại thì cũng vì nhiều cái lắm, vì tiền đồ cá nhân này, vì nước này nhưng cuối
cùng chẳng cái gì nó vì tôi…”
Một hôm để cụ vui, tôi nói:
- Cụ ơi, sau Cách mạng tháng Tám, nghe Dàn
nhạc cung đình chơi có cả clarinette, saxo… hai bài “Lưu thuỷ
Hành vân” ở trước Nhà hát lớn tôi thật không ngờ ta đã kết hợp tây nhạc và hay
đến thế. Các cụ từ hồi ấy đã chăm chút vốn liếng dân tộc và học ngoại.
- Ấy, rồi ông Tố Hữu bắt giải tán. Ông ấy bảo
truyền thống chúng ta là thô mộc, tây nó mới kèn đồng, dây đồng. Thì ông gì Cục
trưởng văn hoá quần chúng cho mở lại hội Lim cũng bị phê phán rồi mất chức đấy.
Tôi thầm nghĩ: Đào Duy Kỳ!
Bây giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ
gia đình. Nhưng cụ nắm tay tôi:
- Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con
chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong
Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một
mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?
Thương cụ, tôi cúi xuống.
Thì lần đầu tiên thấy chân trần của cụ. Nó
xương xẩu, mỏng tóp, vặn vẹo, và tôi thấy đúng là nó có một nội tâm và nội tâm
ấy đang mếu. Tôi vụt nghĩ Ma Y thần tướng có lẽ nên xem tướng bàn chân trước
hết, lấy cái bệ đỡ của số kiếp này làm điểm đột phá vào vận mạng mỗi người.
Cụ Lập nói chuột cống tha mất bít tất rồi. Đêm
qua ở nhà vệ sinh về bước vào vũng nước sâu phải cởi ra hong. Sáng không còn
nữa.
Lúc ấy tôi chỉ có một đôi bí tất rách mũi và
gót. Vào nhà ai phải cởi giầy, tôi thấy như đang viết khai lý lịch phi vô sản
đáng xấu hổ.
Tôi nói nhiều đến cụ Lập này vì hai nguyên cớ,
ngoài tình thương đồng loại còn có lợi ích. Sau khi cụ về Huế, Thanh Thanh,
diễn viên múa, con gái Hoàng Mười bảo vợ tôi:
- Cô hãy xin cho dọn về nhà cụ Lập chứ ở mãi
cạnh chuồng xí mất vệ sinh lắm. Thú thật là vào nhà cô, em thấy mọi thứ ám mùi…
kia kinh quá.
Cụ Lập đã cho gia đình tôi một “dinh cơ…
thơm”.
Nguyên cớ thứ hai: cụ Lập giống Cụ Hồ như một
bản sao. Trẻ con Khu văn công thường đến đập cửa nhà cụ: Cụ Hồ ơi là Cụ Hồ ơi,
sao Cụ lại đến ở đây? Lý ngừa ô là ngừa ô ô ộ ô, nào xin rrước… Củ,
rrước Củ, rrước Củ là về rrưn… là về rrưn… à rrưn. Hay vỗ tay hát chõ vào
nhà: “Hai mắt Bác như sao, râu hơi mùi…”
Chúng kháo râu cụ có mùi thui thúi (nhại
cụ).
Hỡi Ma Y Thần tướng? Sao giống nhau như đúc mà
mỗi người một cảnh? Bên là vật chứng của vinh hoa thành đạt, bên là vật chứng
của lụn bại thảm thương. Tôi đã có lúc nghĩ không chừng cụ Lập là một phản - Hồ
Chí Minh, như phản vật chất trong vật lý. Lúc ấy tôi chợt tiếc đã không quan
sát kỹ bàn chân Cụ Hồ một dạo tôi hay nhìn thấy.
Nhân chuyện đám trẻ con Lý ngựa ô ghẹo rước
cụ Lập về rrưn, cần nói thêm chúng còn ghẹo cái phi lý của xã hội.
Chúng vỗ mông hát rất đều và to: Què
liên lạc, Lác lái máy bay, Cụt tay đào hầm, Câm gọi điện, Mù đọc báo, Điên chỉ
huy … Và một kiểu lắp thêm chữ vào câu hát như kiểu cờ domino, ai ngắc
không hát tiếp được sẽ bị ê ê: Bà gì bà ngoại, Ngoại gì ngoại xâm, Xâm
gì xâm lăng, Lăng gì Lăng Bác, Bác gì Bác Hồ, Hồ gì hồ đồ, Đồ gì đồ xôi, Xôi gì
xôi lạc, Lạc gì lạc thối, Thối gì thối tai, Tai gì tai chó, Chó ỉa vào mày, Mày
vầy nước đái, Cho tái mặt lên…
***
Xong chiến tranh cả tháng tôi rất buồn: không
có tin của bố và các em tôi. Dù Linh vào Nam biểu diễn từ đầu tháng 5 và Thép
Mới, Mai Lộc hết sức tìm. Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu.
Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây thì mọi
người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm
chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền
lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm
báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói:
- Chỉ với anh thì tôi mới nói thật cái này:
nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên mặt anh, tôi mừng thay
nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói:
- Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ
lấy không được chứ?
Trả lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh
nói:
- Đủ hết nhưng nay nhà tôi đã cho nghỉ máy
lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là
đi toa lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát., sạch… Buồng trưởng phó
ban báo ta thua xa…
Hồi Nghị quyết 9, K. đả xét lại khá mạnh. Tôi
không hiểu tại sao nay anh chỉ nói niềm vui hưởng thụ của gia đình tư sản với
riêng tôi. Mơ hồ thấy có khi anh lại nhận ra ở tôi cái gì đó giống Sài Gòn -
đúng, giống thì mới chống dữ việc “giải phóng” nó chứ! Cũng lại nghĩ: thảo nào
có câu “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Con búp bê lủng lẳng trên ba lô
mỗi anh lính trên đường về Bắc. Nhẹ đi một cơ số đạn giỏi cướp mạng người thì
nặng ra một vật cưng biết chớp mắt, nhoẻn cười.
Thời gian rồi cho thấy hoá ra Sài Gòn cũng có
công bày lối đi tới cho Đổi mới… Định hướng xã hội chủ nghĩa cặp bồ với kinh tế
thị trường, kẻ cho uy danh, kẻ cho túi bạc, mối nhân duyên này chẳng phải là
sặc sụa mùi dân Nam nhận họ cộng, dân Bắc nhận hàng tư đó ư?
***
Cuối cùng Thép Mới thư: “Đĩnh, Hồng Linh đã
gặp cả nhà mày ở Nguyễn Thông rồi. Đâu có đấy. Tao đến chào ông cụ. Ông cụ khỏe,
khóc nhớ miền Bắc. Thép Mới, thân. Tối 31-5-1975 trước khi đi xem Hồng Linh
biểu diễn”.
Sợ mấy nghìn quyển sách - 16 loại từ điển -
của bố tôi bị thiêu huỷ, Thép Mới cho bố tôi một giấy chứng nhận của báo Nhân
Dân: “Xin cảm ơn cụ đã có nhã ý để cho báo Đảng chúng tôi sử dụng thư viện gia
đình cụ…”
Cán bộ nhân viên có gia đình trong Nam đều xin
giấy chứng nhận cán bộ cách mạng để gửi vào làm một thứ bảo lãnh. Tôi nộp đơn
xin thì Ngũ Phong, cán bộ văn phòng cho hay Hồng Hà không ký, bảo rằng tôi
không cần. Nghĩa là tôi không có tư cách cán bộ cách mạng. Khi Ngũ Phong báo
tôi ý kiến của Hồng Hà, Vũ Hoàng Địch đang ngồi với tôi ở dưới cây đa sân báo
liền ngẩn ra rồi run run môi nhìn xuống. Còn tôi thấy bỏng rát cái kim ấn tội
đồ Đảng đóng vĩnh cửu lên mặt. Không có bùa yểm cho gia đình, tôi gửi huân chương
kháng chiến của tôi vào.
Mất hết! Các cháu bé con hai cô em đem huân
chương ra đánh cầu. Nhà nước lẫn gia đình đều phủ nhận công lênh chiến đấu của
tôi.
Cơ quan báo họp nghe truyền đạt ý kiến Phạm
Văn Đồng: ta nhân đạo đưa họ đi cải tạo để trở lại làm người, kẻ nào không chịu
mà chống lại thì ta sẽ đối xử như chó (ý là cho quay lại đời chó săn). Tôi nghe
thấy kinh khủng, lạnh cả người. Bữa ấy cũng truyền đạt lời Lê Đức Thọ: ta để
cho họ tạm buôn bán thế mà đã có anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm trong
lòng bàn tay, cần đến ta bóp lại ngay thôi mà.
Người ta hớn hở thì lòng tôi u ám. Như Nàng
Kiều trước mộ Đạm Tiên cứ thấy số phận mình gắn nhiều hơn với bà con trong kia.
Cũng chung phường phản động cả.
Nghe câu “chuyến tôi đi xe đò đứt thắng, đ. mẹ
đời đ. má tương lai” chả hiểu vì sao lại truyền ra Bắc, tôi thấy rõ hơn bà con
trong Nam, đồng minh không cần cam kết, sẽ bị đày ải từ nay!
Nhưng người ngoài Bắc nô nức đi Nam. Tôi biết
thân phận không ngỏ ý ngay. Người ta sẽ bảo anh chống kháng chiến chống Mỹ cơ
mà, sao còn xin hưởng chiến thắng?
Gần năm rưỡi sau, tôi được giấy phép vào. Tiền
không có, tôi vay Lê Văn Viện, phiên dịch cho sứ quán Ấn Độ, bố Bống tức ca sĩ
Hồng Nhung, 500 đồng. To của. (“Anh cứ cầm, bao giờ trả em, mà không trả cũng
được”, - Viện nói). Có tiền rồi lại khó khoản vé. Chỉ có thể hoặc nhất thế nhì
thân hoặc chìa cổ ra cho phe vé. Tôi nhờ học giả Đào Duy Anh. Anh viết vài chữ
bảo tôi cầm đến cho Hiến từng làm ở báo l’ Action, Quân du
kích và Hà Nội Mới. Hiến đã mua cho tôi vé liên vận - xe lửa đến Vinh, đổi
xe khách trực chỉ ngày đêm vào Sài Gòn.
Đêm miền Nam đầu tiên nghỉ ở Đà Nẵng. Hành
khách ngủ vạ vật trên đường quanh xe. Sáng sớm, mở mắt tôi thấy một vùng loá
trắng, tinh khiết, ngỡ như mênh mang ngay ở trên đầu: pho tượng Phật. Chợt thấy
lòng êm ả lạ. Nhờ ánh sáng an ủi mà một đức Phật bằng lặng và nguy nga như tảng
băng Nam cực kia trôi đến ban cho. Sau biết đó là pho tượng Phật Quan Âm lớn
nhất Việt Nam ở Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt. Hay thật, sao đêm đầu tiên gửi mộng
trên đất miền Nam tôi lại ở Bãi Bụt!
Tôi tới nhà, cô em út trông thấy tôi đầu tiên.
Cách đây hai mươi năm, ở Đại học Bắc Kinh, tôi
nhận được một bưu thiếp, sản phẩm đặc biệt của cái thời “tạm chia cắt”. Hân,
mười sáu tuổi, viết: “Em mơ thấy anh được Nobel, à, nhưng anh có biết Nobel là
gì không? Em khoe với bọn bạn là anh rất giống Marlon Brando và Anthony
Perkins, ôi, chúng nó ghen quá, đã đẹp trai lại giỏi nữa chứ. À, nhưng anh có
biết hai diễn viên Mỹ này không?”
Nay Hân ngẩn ra nhìn mãi cái người tiều tuỵ
đang cố rút chân ra khỏi đống bị, sọt, can, ba lô tha vào cứu tế chất đầy sàn
xích lô. Gắng rút được chân thì một chiếc dép nhựa nâu văng lên thành một
parabol hoàn hảo của một chiếc lá đa già, mỏng sắc, nó liệng vồng lên qua đường
rồi rơi đánh đạch một cái trước khung cửa gỗ tăm tối của nhà tôi: tiền trạm của
tôi lại là cái gót rỗ kỳ khu nằm trình diện kia! Khi xỏ lại chân vào nó, tôi
chợt thấy mình đúng là khố dây đi đất. Tôi không có nền móng gì ở dưới chân.
Nhẹ bỗng. Trống trơ. Trừ tình gia đình, bố con anh em…
Tôi đồng thời cũng thấy một ngỡ ngàng lớn trên
mặt em gái. Em quan niệm người có tài mới thành đạt và thành đạt thì trước tiên
là có nhiều tiền, kiểu như Bill Gates sau này vậy. Tan vỡ Nobel. Marlon Brando,
Anthony Perkins… ở người anh. Tan vỡ hết luôn cả mộng nữ sinh Trưng Vương Sài
Gòn.
Đoàn tụ thật là cảm động và vui. Nhưng luôn
nhói lên một nỗi lo đen ngòm: gia đình tôi trong này rồi sống làm sao. Bố tôi
sụt mười mấy cân. Lo, chán. Tôi nhắc chuyện Nguyễn Thành Long nói bố bị bắt
đứng nghiêm một lúc. Cụ cười bảo tôi: Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một anh bộ
đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau
về nhà nằm. Không được, đứng nghiêm năm phút! Bố lại ngỡ như thuở bé đi học
đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường thì anh ấy lại vặn sao
quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nhìn thiên hạ qua lại nhìn mình.
Đứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng…
Đến đây, bố tôi chợt ra đầu giá sách lúi húi
lục tìm rồi quay lại đưa tôi hai trang báo đã cắt.
- Đĩnh xem, chiến thắng đây.
Một nửa trang báo Sài Gòn Giải Phóng có câu
tôi nhớ đại ý như sau: Với Việt Nam, Trung Quốc vĩ đại không chỉ là người đồng
chí, mà còn là ông thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có
được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng
vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại, Trung Quốc sẽ sẵn sàng giao lại.
Một trang nữa với bài xã luận nhan đề thật
kêu: “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt Nam”.
Bố tôi che phần dưới bài xã luận hỏi tôi: “Tu
crois en ca? - Đĩnh có tin không - rồi rút tay lại cho tôi đọc tiếp.
“Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con
người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người.
Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải
cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”. Tôi lại thấy lạnh người như lần đầu
nghe truyền đạt lời Đồng - (chứ không phải vàng, chỉ lời Bắc Kinh mới là vàng)
tại bản doanh báo đảng.
Bố tôi nói:
- Qua thư từ các con, bố đoán các con khốn khổ
vì đảng và vì thế bố cũng hài lòng, đỡ buồn. Trước kia, trong này vẫn gọi Hà
Nội là tay sai của Moscou, Bắc Kinh… Còn bảo Sài Gòn tay sai thì Sài Gòn không
hề dâng đất cho Mỹ như Hà Nội. À, Đĩnh thì chắc biết cũng Trung Quốc nhưng Trung
Quốc lại đã có Lão Tử chủ trương không dùng vũ lực vì chính vũ khí sẽ chống lại
người cầm vũ khí… Mặc Tử thì phản chiến thế này: mùa đông rét, mùa hè nóng nên
không dấy binh, mùa xuân canh tác, mùa thu hái gặt nên cũng không dấy binh…
Người ta sợ khổ dân mà không đòi chém giết.
Còn Mạnh Tử nói kẻ cầm quyền coi dân là ngọn cỏ cục đất thì dân coi lại họ là
quân cướp, kẻ thù.
Nghe bố nói Lão Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử mà mình
im, tôi hơi ngượng. Học ở Trung Quốc nhưng tôi không mò vào Lão Tử, Mặc Tử,
Mạnh Tử!… Đúng ra, 1973, tôi đã mượn Minh Chi quyển Đạo Đức Kinh tiếng Anh
nhưng đọc cứ trượt đi. Không tán thành Marx đề xướng bạo lực, tôi cũng chê Lão
Tử không tưởng khi chủ trương vô vi. Nhưng tôi rất thích ý này của Lão Tử: lúc
chuẩn bị dùng vũ khí thì hãy coi như đang sửa soạn lễ tang, tàn sát nhiều thì
nên thương khóc cho những mất mát đau buồn, nếu có thắng thì nên kỷ niệm bằng
tang ma chứ đừng tự ca ngợi mình giết giỏi.
Bố tôi chép miệng phàn nàn im súng là mở luôn
ngay một trận terreur rouge - khủng bố đỏ. Bố đã thấy những bà
mẹ bế con bé quỳ xin người khác lên xe chạy trốn ra ngoài hãy giúp đem con mình
đi, trốn chế độ cộng sản.
- Dân Nam bỏ đi bị chết không biết đến bao
nhiêu ở biển, - tôi nói.
- Người ở lại thì chết trên cạn… Họ bạo lực
thì dân phải trí trá, đạo đức giả. Lần đầu tiên trong đời bố ngày ngày phải
sống giả vờ tươi vui. Xưa đọc sách báo phương tây nói về cộng sản bố đã sợ -
cho nên không ở lại ngoài đó - nhưng nay bố mới thật sự chìm trong cảnh.
- Năm con mười ba tuổi, bố dịch các bài trong
tạp chí Revue francaise, đọc cho con viết, con nhớ có bài bất đề
kháng của Gandhi, bố cốc đầu con một cái khi con viết thành bất để kháng… xót
máu dân hay không, - bố tôi nói.
Qua gia đình, bố và các em, tôi thấy rõ hai
miền hai kiểu nghĩ, hai lối nhìn khác nhau trắng đen rõ rệt. Và tôi mừng. Thì
vừa hay chiều, tôi và chú em ra phố. Đến đầu Kỳ Đồng, chỗ bố tôi bị phạt đứng
im, gặp một đám ma. Chú em leo vội lên hè cúi đầu ngả mũ, cái mũ bẹp nát. Đi
sau, tôi lặng người. Ôi tan nát hết, từ nay sống ra sao, vậy mà vẫn níu lấy cái
mẩu văn hoá bắt đầu thấy bơ vơ lạc lõng kia! Chú em tôi đang làm tay sai cho ai
đây trong việc ngả mũ cúi đầu tiễn biệt một vong linh không quen biết?
Vài hôm sau, ở Huỳnh Tịnh Của, tình cờ gặp
Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng
rốn lụt của Hải Dương. Anh thuộc lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng.
Nhưng anh đã nếm một chiến bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi, giọng
anh vẫn run run như nghẹn lại. Lẽ tất nhiên anh rất vui khi lần đầu tiên trở
lại đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay
lạy:
- Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì
tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị
các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi.
Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên…
Vũ Hoàng Địch đến chào bố tôi. Kể chuyện Vũ
Hoàng Chương. Chương ở chung xà lim với cựu thủ tướng Phan Huy Quát. Lúc mới
vào, tự giới thiệu nhau xong, Chương nói:
- Thế ra thi vương, tể tướng cũng là tù của
cộng sản nhỉ.
Quát nhất định không học tập:
- Tôi chống cộng sản từ trong đầu óc, máu
huyết tôi thì làm sao các ông cải tạo được tôi, các ông giết tôi đi chứ không
khi nào học các ông.
Sau đó Quát chết trong tù. Không học qua một
bữa.
Bố tôi nói ngày cưới em gái tôi - cô em mơ tôi
được giải Nobel - bố tôi mời Phan Huy Quát, là bạn và thủ tướng lúc đó.
Chú em rể tôi, phi công, mượn cớ chào quan
khách đến trước mặt Phan Huy Quát đã to tiếng hỏi sao ông bán đất cho Mỹ?
Quát vừa ký cho Mỹ thuê Cam Ranh 99 năm. Kể
lại, bố tôi lắc đầu cười. “Anh này lo Mỹ thuê hết đất thì không còn chỗ để Việt
cộng mở trại giam. Anh này hiện đang đi cải tạo xa lắm…”
Khoảng một tuần sau, bố tôi đi chơi về khẽ bảo
tôi: Vũ Hoàng Chương vừa mới chết… Giọng bố tôi buồn. Một lúc cụ nói thêm, vẫn
khẽ:
- Vũ Hoàng Chương có mấy câu thơ dân Sài Gòn
thích lắm… “Từ thuở ngươi về hỡi loài man rợ, Đến vô tri sỏi đá cũng buồn đau”.
Trần Vũ, đạo diễn điện ảnh bảo tôi 1975 Vũ vào
Sài Gòn tìm Vũ Hoàng Chương. Chương hỏi thằng Địch nó làm gì? Vũ đáp làm ở Viện
Triết. Chương cười:
- Lạ nhỉ, chúng mày làm đếch gì có triết mà
cũng Viện triết?
Bố tôi mấy lần bảo tôi:
- Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị
tù hàng chục vạn như thời cộng sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào
sao?… Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy mình bị khinh miệt. Hôm nọ nghe
loa nói không có đảng cộng sản quang vinh thì làm sao có được tổ quốc vĩ đại
đánh thắng đế quốc trùm sỏ, bố thấy buồn quá.
Tôi biết. Phong cách thừa thắng xông lên chả
coi ai ra gì là một thái độ cần được xây dựng đại trà. Nhưng tôi im lặng.
Không muốn đẩy bố vào chỗ suy sụp, trầm cảm.
Tôi không ngờ bố tôi tụt mất mười bảy cân sau mấy tháng “giải phóng”…
Tôi nghe một người quen gia đình ông Lê Đình
Duyên, con cụ Lê Đình Thám, nhân vật Hoà bình thế giới của miền Bắc, kể một câu
chuyện khá tiêu biểu. Ông Duyên, người này nói, là thủ lĩnh Việt Nam quốc dân
đảng có uy tín và là nghị sĩ của chế độ Sài Gòn. Đại lễ mừng giải phóng, tướng
Trần Văn Trà, chủ tịch uỷ ban quân quản Sài Gòn gửi giấy mời và xe con đưa ông
Duyên đến dự hẳn ở trên lễ đài. Trà nói với ông: “Không có ai thắng ai, chỉ có
nhân dân Việt Nam thắng Mỹ, nam bắc chúng ta một nhà”. Ông Duyên về nói lại mà
bao nhiêu người mừng. Ai ngờ rồi chính tướng Trà ký lệnh bắt ông đi cải tạo.
Mọi người lại tái mặt. Dân nguỵ chúng tôi bảo nhau ông Thiệu vẫn bảo đừng nghe
Việt cộng nói, hãy xem Việt cộng làm. Bây giờ thâu tóm tất cả rồi, chẳng phải
dụ ai, các ông nín được chuyện đánh tiếp nguỵ dân đã trắng tay mới là lạ. Đồng
chí của Nguyễn Thái Học, Xứ Nhu mà tù đấy. Vừa ngon ngọt lại quắc mắt ngay, lật
lọng quá. Vào Sài Gòn tôi tránh gặp gỡ. Rồi trong một bữa giỗ nhà Ngọ, sĩ quan
biệt kích Sài Gòn bị cải tạo, Lan, vợ Ngọ là bạn của em gái tôi khẩn khoản mời
tôi đến - đường Hoàng Đạo gần ga. Và rồi không thể không chuyện. Bữa đó, mấy vị
trí thức hỏi tôi:
- Nếu có quyền thì vào đây ông làm gì?
Tôi nói tôi không thể có quyền. Nhưng họ cứ
bao giả thử là có đi, xin ông cứ nói.
- Làm hai điều - tôi nói, không tiện im miệng
mãi. Thứ nhất mời Liên hợp quốc đến, dựng một lễ đài nổi ở ngoài biển mạn Vũng
Tàu, đem ba cái LCT chở xe tăng, đại bác, súng ống của cả Liên Xô, Trung Quốc,
Mỹ đến đó long trọng làm một lễ Farewell to Arms - Vĩnh biệt
vũ khí, quăng tất cả xuống nước, xin Liên hợp quốc giúp cho chúng tôi từ nay
làm ăn xây dựng… Thứ hai xin cả nước để ba ngày róng chuông nhà thờ, chuông
chùa làm lễ cầu siêu cầu thoát cho tất cả các vong linh đã chết trong chiến
tranh này rồi cùng nhau tu sửa mọi nghĩa trang, bởi vì theo tôi, một khi đã là
nắm xương gửi lại mảnh đất này thì đều là U Linh Hồn Việt hết cả.
- Chúng tôi ít khi nghe được ở người ngoài Bắc
ý kiến nào giống như của ông, - mấy vị nói.
Một hôm đọc bài báo Thép Mới nói đến “hoà hợp
dân tộc” tôi mừng. Bảo với Thép Mới tớ có hai cái ý này… Nhưng anh đã gạt đi:
- Không mày ạ, phải chuyển gấp sang giai đoạn
cách mạng mới rồi. Phải thống nhất ngay đất nước và tức khắc lên chủ nghĩa xã
hội.
Tôi lúc ấy không biết tháng 8-1975, hai miền
Việt Nam đã nộp đơn xin vào Liên hợp quốc. Liên Xô và nhiều nước của thế giới
thứ ba tán thành tại Đại hội đồng Liên hợp quốc nhưng Mỹ phản đối. Với lý do
sao trước đó Hàn quốc xin lại bị từ chối. Sau này, ở Mỹ, Đoàn Viết Hoạt cho tôi
bản copy tờ New York Times 7-8-1975 đăng tin kia, tôi mới hay.
Thế rồi Quốc hội miền Bắc họp tuyên bố thống
nhất cả nước. Rồi đơn phương “thay mặt” cả miền Nam đổi luôn quốc hiệu. Không
có cảng tự do Sài Gòn gì cả. Không tán thành miền Nam làm theo miền Bắc y xì,
Nguyễn Văn Linh liền mất Bộ chính trị, về coi Tổng công đoàn. Vì phản đối gay
gắt giập khuôn Bắc Kỳ Cục, từ 1976 Trần Bửu Kiếm, nguyên chủ tịch Uỷ ban kháng
chiến Nam bộ bị gạt phăng rồi sang Pháp sống. Dân bị xua đi kinh tế mới; chồng
vào trại tù, vợ con lên Tây Nguyên. Cải tạo tư sản ầm ầm.
Từ ngữ loài người giàu thêm một chữ boat
people, thuyền nhân. Trong một câu thơ, động từ “nuôi” được dựng thành ngọn
cờ soái làm rớm nước mắt: “một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má
nuôi con”.
Em trai tôi, phiên dịch cho cơ quan Mỹ viện
trợ Việt Nam, chú đã kính cẩn ngả mũ bẹp chào đám ma người không quen biết, có
năm đứa con cả trai lẫn gái kéo nhau xuống một cái tàu đi. Gặp bão, được một
tàu nước ngoài cứu. Thuyền trưởng tàu này hỏi năm đứa: “Thuyền trưởng đâu?” -
“Dạ, cháu đây!”. Thằng cả mười bảy tuổi đáp. Thuyền trưởng thật đưa tất cả lũ
nhỏ lẫn thuyền trưởng giả đến Malaysia. Tặng thuyền trưởng giả không có la bàn
một la bàn.
Một chuyện làm cho tôi lạ lùng. Gặp Xuân Tửu
trong Sài Gòn. Anh cho hay người cậu ruột của vợ anh là chuyên viên tài chính
của Thiệu, rồi về hưu sang làm chuyên gia cho chính phủ vương quốc Lào. Khi ta
giải phóng hộ Lào, cụ phải về Sài Gòn. Vợ chồng Xuân Tửu thăm cụ. Ông cụ nói
người Mỹ đi rồi người Mỹ lại về thôi. Xuân Tửu kể lại cho tôi mà bật phá lên
cười. “Khôi hài quá, - anh nói, tôi nghĩ bụng chứ không dám cười thật trước mặt
cụ. Chỉ bảo cụ: Thôi cậu ơi, cậu già rồi xin lão giả an chi chứ theo cháu biết
thì Mỹ đừng bao giờ hòng trở lại những nơi mà cờ búa liềm đã cắm xuống. Cụ nói
sao biết không? Cụ nói thế là vì các anh chị chưa hiểu sức mạnh của đồng đô la
đó thôi”.
Trước khi Xuân Tửu chết ít lâu, một hôm anh
hỏi tôi có nhớ chuyện ông cậu ruột vợ anh không? Này, - anh nói, tôi không hiểu
nổi sao ông cụ lại có cái tầm dự báo ghê gớm đến thế. Nó, thằng đô la ấy, nó
trở lại thật kìa! Mà lại phải khẩn khoản mời nó, xin nó, cải cách nhiều cái
theo pháp luật nó để cho nó hạ cố nó đến! Cái gì làm cho tôi ngu mà cái gì làm
cho ông chuyên viên nguỵ kia sáng?
- Tại chúng ta tin cờ búa liềm đến đâu thắng
đó.
- Có đúng như thế không thì chưa rõ… - Xuân
Tửu nói.
Nhưng chắc là không thắng được lòng người.
***
Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài Gòn,
tôi chợt thấy mình thường hay hỏi: “Thanh hay Nghệ đấy?”.
Đâu chỉ hai căn cứ địa lớn này của Đói. Khắp
mọi nơi! Từ Nam chí Bắc nay chả còn ai lạ câu hát “Tổ quốc ơi, ăn khoai mì mãi
mãi. Từ trận thắng hôm nay, ta ăn độn bằng mười. Từ trận thắng hôm nay ta ăn
độn nhiều lên…”. `Tôi không nói ngoa, có lúc nghe hát mà tôi hoe hoe mắt. Nhất
là câu nhạc hơi cất lên “ta ăn độn nhiều lên…”
Cụ bạn trên kia khoe cụ nhận ra được đặc điểm
hình thái văn hoá ve chai - hay mảng kinh tế thu dọn rác - đang tung hoanh ở
Sài gòn bằng phương thức lao động nguyên thuỷ là lục bới, cúi nhặt. Theo cụ,
văn hoá ve chai đã khái quát hoá rất rõ hành trình đi từ thô sơ thuần tuý lên
nửa cơ khí bắt đầu có vận dụng tư duy nửa vời để vẫn cứ không thoát ly nổi hai
bàn chân từ trần trụi đến dép lê, qua giai đoạn dép cao su mà khi làm thuỷ thủ
Anh Ba đã thấy mẫu mã đầu tiên ở Sénégal rồi sau mách cho cách làm trên căn cứ
địa Việt Bắc.
Cụ nói: Đúng, tôi đố ông… Đây, nếu không vũ
trang theo ý nguyện được thì ngoài Bắc sẽ làm gì? Ôi, ông bảo là tuyển cử ư? Để
thành Đệ nhị quốc tế cải lương đầu hàng à? Hà Nội chẳng tuyển cử với ai hết!
Ông xem dân ta tốt như thế mà các ông ấy có cho tự do bỏ phiếu để được đua tài
cao thấp với Đảng đâu! Tôi nghĩ ra rồi. Sẽ không xẻ dọc Trường Sơn mà đắp lên ở
Bến Hải một Hoành Sơn nhất đái kiểu tường Béc-lin… Ông có biết một dạo dân
Quảng Đông bơi qua biển trốn đi Hồng Kông bằng gì không? Dạ, bằng phao ghép
bằng bao cao su. Condom people! Cái bao cao su, Cụ tha lỗi, chứ cụ
có đồng ý là mỗi mạng người có mặt trên đời này đều là kết quả của một cuộc
cạnh tranh câm lặng nhưng hết sức dữ dội giữa các tinh trùng không? Cách tuyển
chọn phần tử ưu tú nhất đó… Sir Winston Churchill, vị anh hùng kháng chiến của
Anh và Charles de Gaulle, bậc anh hùng giải phóng của Pháp đều về vườn sau khi
thành đạt… Có lẽ vì thế dân họ mới được hưởng cái mới. Tiến hoá là luôn kem với
phá thần tượng. Còn cứ dựng thần tượng vĩnh viễn thì dân ăn mày.
Sau đó, cụ bạn rủ tôi đi dạo một vòng. Mỏi
chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi
ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện,
tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một
phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên
ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:
- Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có
quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom
cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời
dứt khoát, đanh thép này chút nào.
Người phụ nữ nói tiếp:
- Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là
đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá
vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì. Hai
cụ không nghe thấy dân đã có câu ca đấy ư?… “Áo lính chưa ráo máu đào, Mà xe vợ
tướng đã vào tới nơi”.
Người phụ nữ quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá. Đã
thanh niên xung phong ở đường mòn. Ba năm tròn không thấy một bóng vía đàn ông.
Đến nỗi chị cung đoạn phó, chị này bạo mồm lắm, bảo giá một đứa, Mỹ hay nguỵ
cũng được, nó lạc đến để cho chị em ta nuôi nó ngày hai bữa chỉ sai nó làm có
mỗi nhiệm vụ đứng đái đái vẩy vẩy cho mà xem nhỉ?… Còn cói kiếc gì nữa đâu hai
cụ. Nay chiếu thì phải chiếu trúc, chiếu ni lông Trung Quốc, Thái Lan… cơ. Thôi
cháu chào hai cụ, cháu đi đây. Sáng đến giờ mới kiếm được hai mươi tư nghìn…
Người ve chai đi rồi, cụ bạn chán nản nói:
- Tôi và ông Trường Khoan đang ở Đà Nẵng thì
các ông đánh vào. Chúng tôi lên xe chạy nhưng bị chặn lại. Vứt xe đi bộ, quên
mất chiếc va li con đầy đô la, vàng bạc, tư trang trên xe. Lại bị dồn quay về
Đà Nẵng. Hôm sau qua một trại lính thấy xe mình. Mà không dám vào hỏi. Thằng
nguỵ mà lại tư sản bóc lột thì mạt hạng rồi cụ ơi. Tiền gửi ngân hàng rồi cũng
đội nón đi nốt. Thấy rõ thực tại của mình bị đập vỡ dễ như bỡn. Nhưng người phụ
nữ Nga Sơn kia bị vỡ một thứ còn lớn hơn. Vâng, mộng, vỡ mộng ạ. Mộng là sức
mạnh chi phối đời cơ mà cụ. Hồ Chí Minh từng “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
đó”.
Cộng mạnh lúc đầu chính là nhờ giỏi xây mộng
cho thiên hạ: vâng, bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình… Lòng tham, động lực
ghê gớm nhất đã được huy động triệt để cho biến thành mộng, mộng đẹp của cách
mạng, giải phóng loài người… Nhưng ở ta, im súng thì mộng cách mạng vỡ đánh
độp, nông dân, quân chủ lực của cách mạng hoá ra lại khổ nhất nước. Tay trắng
rồi, vong gia thất thổ, vũ khí bà ấy trông vào là gì? Bom Mỹ… Cú quật trái tay
của lịch sử! Ừ, có đúng là “Vèo trông lá rụng đầy sân, Tương lai nói róc có
ngần ấy thôi” không? Nhìn mặt bà ve chai này tôi bỗng nhớ câu “chiến thắng mang
gương mặt khổ đau cùng cực” của Olga Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết
đời. Bà ta nói thay cho tất cả những ai sống với cộng sản. Cộng sản lúc đầu hấp
dẫn nhờ đưa ra các hứa hẹn thoả mãn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng
phiệu hết. Chỉ còn bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thoả
mãn. Vỡ mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ
thứ gì không phải cộng.
CHƯƠNG 39
Trên kia tôi nói tôi dửng dưng, tênh tênh khi
bị khai trừ. Đúng! Nhưng không phải không có lúc suy sụp. Vì tự ái, xấu hổ. Rồi
vì tiếc những ngày tháng đã “chiến đấu” dưới ngọn cờ đỏ. Rồi còn cả một chút
tình ý bị mất quyền lợi.
Ít nhất sẽ không còn được nghe truyền đạt
những thông tin quan trọng và bí mật của Đảng. Và rơi vào diện chờ mọt xác mới
được tăng lương. Hoá ra khi anh giơ tay trái lên ngang vai thề trước búa liềm
là anh sẽ trung thành hết đời với Đảng thì cũng chính lúc đó anh nhận về một
quy chế vẻ vang dắt dẫn, giáo dục dân. Đang là khố rách áo ôm, anh bỗng đổi
đời.
Tôi viết nhật ký: “Tôi như con thú đêm về hang
liếm láp các vết thương trên người và rên rỉ”. Dostoievsky nói cuộc đời sẽ đem
lại cho bạn nhiều bất hạnh nhưng chính con người bất hạnh là bạn lúc ấy sẽ làm
cho bạn hạnh phúc. Albert Camus cũng nói thường khi chính cái tình ý xót thương
cho bất hạnh bản thân nó lại làm cho ta hạnh phúc Lúc đó chưa thấy cái hạnh
phúc mà hai ông nói, tôi chỉ thấy cái đau man dại. Tôi bị tước mất danh hiệu trước
đây tôi kiêu hãnh: người cộng sản, người có y thức cách mạng nhất, đạo đức
nhất, tiến bộ nhất, người vạch đường cầm trịch cho đất nước đi lên, cho văn hoá
mới sinh thành. (Nghĩ thế mà không bao giờ nhận mình ở tầng lớp thống trị! Mà
không thấy một mặc cảm quyền lực, địa vị đã được cài sẵn ở trong bất kỳ người
đảng viên cộng sản nào! Vì hắn đã bị loá đi bởi một lô các trò phù phép: chỉ
biết có lợi ích nhân dân, hy sinh tất cả cho đất nước v.v……) Từ nay nghe đảng
viên kêu gọi nhau chú ý theo dõi phản ứng của quần chúng trước sự kiện nay sự
kiện nó, tôi đôi khi xấu hổ. Cảm thấy tấm mộc che chắn, một bảo lãnh, bande
de garantie đã bị rơi xuống, và tôi là một con sên vỡ vỏ. Tôi rất muốn
rên thành tiếng. Tôi chợt hiểu vì sao các con vật bị đuổi ra khỏi bầy thường
hay cúp đuôi. Dấu hiệu của buồn hay của ngượng? Nhưng ban ngày, dưới ánh mặt
trời, đi giữa bày người hung hãn săn lùng tôi - họ cần cạp mồm tôi lại cho cấm
khẩu - tôi lại dựng đuôi lên và nhe răng. Phản ứng kiêu hãnh tự nhiên của thú
hoang. Mừng là mình còn chất thú hoang ở trong cái chuồng gia súc.
Đã có lúc quá nản. Chẳng hạn dưới đoạn nhật ký
vừa nói trên tôi đã có mấy dòng như sau. “Sẽ thư cho anh Thọ thế này: Tôi xin
đầu hàng. Dạ, tôi đã thua. Vì tôi chỉ đạo đức suông. Tôi đã tách đạo đức ra
khỏi chính trị. Tôi đã không thấy đạo đức phải chịu sự chỉ đạo chính trị của
Đảng. Tôi dại dột: tôi gìn giữ ý tứ với bản thân hơn với người khác, trong đó
có anh. Do đó hiện nay tôi đang tự tiêu huỷ…”
Cố nhiên đó chi là lúc oải. Tôi đã giữ được ý
tứ với bản thân trước hết. May sao cái chất thú hoang nó đã giúp tôi giữ lấy
nhân cách cho mình, cái nhân cách hết sức mong manh trong vòng vây của chủ
nghĩa tập thể, cái chủ nghĩa nó không biết đến nhân cách. Cái gì dính đến nhân
- con người - là nó ghét lắm. Tôi rất thích bố tôi viết trong thư: Il
faut célébrer la grande sortie de Đĩnh, - cần ăn mừng cái thoát ra lớn lao
của Đĩnh. Đúng, bước ra khỏi vòng vây. Thà làm con đom đóm lập lòe được chút
ánh sáng của riêng nó. Cái ánh sáng nhỏ mọn nhưng làm nổi bật lên bóng tối bao
la hãi hùng vây quanh nó.
Mấy chục năm sau, sống với đất nước đang dần
dần nhận diện được kẻ đã đày ải mình, tôi bắt đầu cảm nhận thấy hạnh phúc. Ít
nhất tôi đã nhận ra tội ác và lên án nó giữa lúc nó đang có bộ mặt huy hoàng
nhất, có niềm tin gần như trọn vẹn của dân. Ít nhất tôi đã đương đầu, không quỳ
gối trước nó. Cũng như đã ngay thẳng nhận mình từng đi theo nó, tội ác.
***
Để tỏ thông cảm, một dạo Thép Mới hay mời tôi
lên buồng anh uống nước, tán gẫu. Có khi nhờ đọc và “chữa hộ luôn” bài anh vừa viết.
Một sáng cô thư ký vào đưa các bài báo cho
Thép Mới duyệt vừa đi ra, tôi hỏi anh có thấy các móng tay cô ấy được săn sóc
như vật tư trang, đồ tế nhuyễn bằng châu ngọc cả không?
- À, có thấy chứ? Nhưng để làm gì?
- À, để thay mặt cho hai thứ mà theo bản năng
người con gái phải giấu kín.
Đầu tiên cái móng tay tư trang tế nhuyễn nổi
gồ lên này ám dụ đến một thứ quả trong vườn cấm của cô gái. Hai là mượn hình
một chao đèn làm bằng chất pha lê quý để che đi ngọn lửa dọc của con dục lấp ló
ở bên trong sau đó… Chiều nọ, đi ở bãi sông Hồng, chỉ chiếc xú chiêng pô-pơ-lin
Tàu trắng loá, vật duy nhất trên cây sào bắc dọc mạn con thuyền vắng ngắt ở cả
một đoạn sông vắng ngắt, tớ bảo cậu có thấy nó là một quả cầu thám không tráng
mạ bằng một chất liệu đặc biệt vừa mới hạ cánh sau một chuyến ngao du trên
không về không.
Hôm nay nói thêm: khi nào ôm ngực người con
gái thì quả cầu ấy bay lên và sống, vàéthéré - siêu thoát, còn khi rời
ngực người con gái thì nó xẹp xuống để gom dần năng lượng chờ chuyến bay sau…
Nhân đây, ừ, lại hỏi thêm: Sao các cụ gọi mắt lá giăm? (Chỉ vào đĩa trứng vịt
lộn có rau giăm). Nghi lễ ngôn ngữ đó! Không lẽ gọi toẹt ra: Ôi em mắt dâm. Lá
giăm là cái nệm giảm xóc, sản phẩm tinh tế - hay lỡ lời thô thiển - của vô
thức. Rút lại tớ muốn chứng minh câu Voltaire: viết không đơn giản là vẽ ra
tiếng nói… Câu này quá hay, tôi nói tiếp. Vì để thành văn học, tiếng nói còn
cần một mồi lửa vô thức, nhất là ở tiếng nói của thơ, vô thức ấy chính là hồn
thiêng riêng biệt của mỗi người, không thể diệt, không thể hoà… Aragon cũng
nói: Viết là vũ đạo của đầu óc. Thôi, nói thêm… Cái Ng. học ở Đức về đi xăng
đan cao gót, cậu bảo bàn chân con gái tự nhiên trông thành một đường arabesque
- uốn lượn quá đẹp… Đúng, nhưng cậu mới thấy cái chất vật lý của bàn chân
con gái gói bọc trong những quai da. Tớ còn thấy ở đó động thái ưỡn dướn của
cơn mê nhục cảm.
- Sau này viết hồi ký - Thép Mới bỗng sôi nổi
- tao phải viết những chuyện trò về chữ nghĩa và văn học với mày. Nhưng tao
thương mày… Mày cần tìm lại chất xã hội. Mày giàu chi tiết nhưng thiếu tư
tưởng.
Tức là chính trị, cái mà tôi kém cỏi. Anh biết
tôi nói tới quả kín và ngọn lửa dọc là tôi muốn bảo anh hãy nhạt nó đi, nó, cái
sự vật chính trị mà anh nhìn nhịu rất giỏi để nhìn nhịu sang thế giới sự vật
thiên nhiên, con người… đặng khai hoang, mở rộng vùng cảm xúc. Với mọi hành vi
chính trị của đảng, Thép Mới đều nhìn nhịu ra thành thắng lợi, sáng suốt, cao
quý, vì nước vì dân. Năm 1956, theo Bác Hồ đi cảm ơn các nước anh em, anh moong
trại (trốn trại) đến Bắc Kinh đại học chơi với tôi. Ngồi ở Trung Sơn công viên
phía tây Đại lộ Trường An, anh bảo tôi: “Để Hoàng Sa cho Bắc Kinh chứ không thì
Mỹ xây căn cứ hải quân ở đấy mất ư mày? Chỗ ấy ở dưới vĩ tuyến 17, vốn là của
bọn Sài Gòn cơ mà!…”. Khác nào gửi trứng cho quạ! Quạ nhiều phần chắc đã doạ Mỹ
“xây căn cứ hải quân” nên mới đem trứng cho quạ trông giữ hộ như thế.
Nhưng bữa nay tôi chỉ nói:
- Xã hội délaisser (bỏ rơi)
tớ thì tớ délaisser lại, mà kết bạn với chữ nghĩa tớ thấy sống
phong phú, sung sướng, giàu chi tiết.
- Không phải, mày ạ, cần hai chiều.
- Đúng, cần hai chiều. Ra Nghị quyết 23, ông
Duẩn than rằng Đảng có 80 vạn đảng viên nhưng quá lắm chỉ có nổi 5 nghìn người
tài. À, tớ xin đặt ngược lại: sao anh không đồng hoá anh vào những người tài
trong nước mà lại cứ bắt họ phải đồng hoá vào anh để rồi anh thu dung nối được
có 5.000 người? Tại sao chủ thuyết anh lại dứt khoát đòi lãnh đạo cách mạng là
phận sự một chiều cao quý của duy nhất ai đi theo nó mà thôi? Le comble
du sectarisme, - bố tổ sư bè phái.
Chuyện với Thép Mới có cái hay: khi căng anh
thường lặng lẽ rút quân.
Những ngày một mình giữa bầy người băm bổ ở
báo đảng, tôi hay nhớ đến một câu của Trần Châu.
Hôm ấy, sau Nghị quyết 9 sầm sập gió bão, hai
chúng tôi chuyện ở giữa sân cơ quan. Thấy mọi người qua lại nhìn, tôi bảo đứng
thế này có sợ họ bảo là khiêu khích không? Tôi ngại cho Châu. Anh ít nhiều lép
vế hơn.
- Không, - Châu nói. Họ sợ chúng mình. Sợ sức
mạnh tinh thần của hai chúng mình.
Càng sống ở đây càng thấy Châu nói rất đúng.
Lại nhớ đến câu Phùng, tỉnh uỷ viên Hải Dương,
bí thư huyện Cẩm Giàng bảo tôi: “ua ông tôi thấy ra rằng khi ta không sợ thì
người sợ ta”
***
Tôi bỗng nhận ra nguồn sức mạnh của ta thường
đẻ ra trong đơn độc, những điều ta đơn độc trải một mình từ rất sớm và bị lấp
vùi nhưng rồi thình lình từ trong vô thức mù mờ bỗng chớp nhoáng nhoi lên làm
vị cố vấn câm ẩn mặt. Dưới đây có thể coi là mấy cảnh ngộ đơn độc sớm nhất của
tôi.
Tôi chắc lên bốn. Một tối, nghe xung quanh
kháo chuyện đi xem hội đình chiến ông nô-văm (onze Novembre, 11 tháng
11) có nhảy bị, bịt mắt bắt vịt, leo cột mỡ…, tôi bèn nổi cơn vòi bà nội bế
đi xem. Tôi không nhớ lên đường như thế nào, chỉ nhớ khi đến bờ sông Sặt âm u
những rặng bàng đè sụp cành lá xuống một miếu thờ, tôi bỗng đòi ị. Bà dằn mạnh
đầu tôi cho ngồi xuống. Tuy cử chỉ bà phũ, tôi vẫn thấp thỏm ngoái nhìn về phía
xa xa nhấp nháy ánh đèn và lô xô những đầu người, râm ran những tiếng cười dọc
bờ sông đen ngòm mà đồng thời tôi cũng lại nơm nớp sợ thuồng luồng và con giải
vẫn hay bắt người ở đây, như trẻ con hồi ấy phải nín khóc vì “không thì Tàu Ô
nó đến kìa!”… Nhưng rồi tôi liền buồn.
Tôi vừa bắt chợt nét nhẫn nhục trên mặt bà,
cái nét mà lúc ấy tôi chưa thể hiểu là hy sinh, khi bà vén vạt chiếc áo kép
lên, xé một mẩu lót màu xanh nhạt có những bông hoa to mờ để chùi cho tôi.
Tôi đòi về ngay sau đó. Trước hết để bà đỡ bận
vì tôi, sau để bù vào chỗ hụt trên áo bà. Cùng lúc, vô thức tôi chắc đã lờ mờ
ghi lại rằng từ nay các cuộc vui không phải là chỗ của tôi.
Còn sám hối sớm nhất? Một sáng, tôi chừng bảy
tám tuổi, một người chú họ, chú Đinh, còn trẻ ở quê bà nội đến nói là lên thăm
ông bà. Đôi hồi, chú rủ tôi đi chơi với chú. Bảo dẫn chú đến Sở mộ phu, căn nhà
gần Trường Ga có ngọn cờ đuôi nheo bẩn. Chú vào đấy, lát sau ra ngồi xuống một
chiếc ghế kê ở ria tường và chụp ảnh. Sau đó, chú cho tôi một xu đồng, dặn chớ
nói với ai rằng chú đi đâu. Chiều chú xin trở lại quê. Vài ngày sau, bố chú,
em ruột bà nội tôi, ở quê lên, khóc thảm thiết
từ ga đến nhà. Chú tôi đã đi phu Tân thế giới. Đồng xu chú cho tôi là một trong
số 50 đồng chú bán thân mình cho Sở mộ phu…
Tối đó, tôi chôn đồng xu xuống chân cột đèn
đầu phố thường hay cháy bóng. Sáng sau, ở sân trường học, nhìn ngọn núi Yên Phụ
bề thế, hiền hoà quê bà nội, tôi rớm nước mắt: ông họ tôi còn lại có một mình ở
cái nơi trong văn vắt như pha lê kia. Buồn là mấy hôm sau, tôi phát hiện thấy
ai đã đào lấy mất đồng xu. Hối hận của ta nhiều khi lại là món ăn ngon của kẻ
khác, le lói trong tôi sự thật này nhưng tôi gạt đi. Tuổi thơ không thích đen
tối…
Và tội - hay công? - về trung thành với một
cam kết thầm kín hoàn toàn đơn phương đầu tiên. Tôi chừng tám, chín tuổi. Buổi
tối bọn trẻ con thường nô trên vỉa hè đầy rau sam và dải đường hẹp nằm giữa con
phố chưa có đèn điện. Trước cửa nhà tôi có một chị, tên P. đã mười hai mười ba.
Tối ấy chị cùng chơi trốn tìm. Một lần đi ẩn, chị kéo tôi vào một góc buồng.
Bỗng trong bóng tối ngột ngạt, chị cầm tay tôi đặt lên núm vú mới nhú, cứng như
mỏm một con quay vụ bằng sừng. Tôi rụt tay về, sợ nó vỡ thì chị kéo tôi vào sát
chị, tụt quần ra, sợi dải rút màu đỏ nhỏ rất xăn, dúi đầu tôi vào chỗ kín. Tôi
vừa sợ vừa thích vừa xấu hổ vừa tò mò muốn tìm tới nữa - tò mò này chợt nổi lên
từ dưới đáy bản năng chăng? - nhưng rồi thấy khai và khó thở, tôi bỏ chạy… Từ
đó giữ kín cho tới bây giờ. Bảo vệ người đã chọn tôi ư?
Cuối cùng là chuyện này. Với tôi, một thời
gian dài bố tôi đã là giáo viên phản diện về chính trị. Lúc tôi bé, mẹ hay kể
bố ngày học ở Bưởi rất nhiệt huyết cách mạng. Bạn “đào viên” với các bác Nguyễn
Thái Học, bác Đỗ Ngọc Du và hai bác thường đến nhà. Bác Học nằm sấp, hai chân
gập lại thế mà ngủ cả đêm chính là điềm báo sẽ lên đoạn đầu đài. Bác Du thì
thân với bố hơn, sau thành một ông rất to của cộng sản (năm 1960, viết về đảng,
tôi mới biết bác là Phiếm Chu, một trong những người thành lập) rồi cũng chết.
Để tang Phan Chu Trinh rất hăng hái, bố bị Trường Bưởi đuổi rồi vào
sổ đen mật thám. Thế là sợ, về đi làm và ăn
chơi, và để ăn chơi thì ăn hối lộ. “Bố các con chỗ này xoàng. Con một mà” - mẹ
thường nhận xét.
Mẹ vô tình đã lái tôi tránh cực đoan nhút nhát
bỏ cuộc mà nhảy sang cực đoan cuồng tín. Ông Viện có lẽ cũng vì cuồng tín mà
quên giọt máu Đào Viên. Khi bố tôi tản cư về quê vợ của ông, ông là chủ tịch
huyện liền chuẩn bị đưa lính đến bắt. Em vợ bác ngầm báo và bố tôi đành để ông
bà và chúng tôi ở lại mà về thành. Chính ông Viện mời ông bà tôi tản cư về đây
nếu nổ súng. Không ngờ bố tôi cũng về đây. Ông cần tỏ thái độ lập trường với
đảng.
Những ánh lửa nhỏ bé lụn vụn như thế thường ẩn
kín ở một nơi sâu thẳm nào rồi tình cờ một hôm, chúng, những ngọn đèn tiền
trahm khiêm nhường, vụt thắp lên cho ta nhận ra chỗ đặt chân. Chỗ là gồm cả
đúng lẫn sai.
***
Tôi muốn được nói tới thày Nguyễn Hữu Tạo,
người thày của bọn lớp nhất - lớp sáu bây giờ - chúng tôi ở Trường Ga ngày bé.
Đặc biệt luôn khêu gợi lòng yêu nước chân chính.
Một lần thày rất buồn kể chuyện thời trước
quân lính ta sang đánh Cao Miên đã dã man róc mía lên đầu sư người ta rồi reo
cười với nhau. Trên con đường chinh chiến từ bắc vào nam (thày chưa biết dùng
chữ đi mở nước như hiện nay) đã róc mía trên đầu bao nhiêu người? Chuyện ấy là
một ấn tượng xấu hổ đeo mãi lấy tôi. Một sáng tháng 12 năm 1941, khi bọn tôi
xếp hàng chào cờ ở sân trường thày bỗng long trọng giơ tay lên nói to:
- Nhật đánh Trân Châu Cảng, Mỹ đã tuyên chiến.
Tuy không biết phải có sóng gió, đất nước mới
thay đổi, (phải chăng Đại chiến thứ hai chính là một cuộc toàn cầu hoá sơ sài
đầu tiên nó sẽ đưa Việt Nam lại gần hơn nữa với phương Tây?) tôi lờ mờ cảm thấy
thày muốn hứa hẹn một điều tốt đẹp cho nên mặc dù nổ chiến tranh tôi lại thấy
hào hứng. Trong đầu con trẻ của tôi, chữ Mỹ bắt đầu hằn in như một niềm hy
vọng. Mãi sau mới biết thày là Việt Minh từ sớm.
Năm 1952, ở An toàn khu, một tối xem điện ảnh
ở Văn phòng trung ương có cả Phạm Văn Đồng, tôi cầm micro thuyết minh (phim
Liên Xô nói tiếng Pháp) ở sau máy chiếu.
Thì một người đi vào ngồi cạnh. “A!”. Tôi mừng
quá, quên bỏ micro, nhân vật chính là tình báo Xô viết ở Đức về ôm người yêu,
lại reo lên “con chào thày”.
Phạm Văn Đồng nói to “Ô, thế thì hay nhỉ?”
Còn thày Tạo lúc ấy chánh văn phòng Liên khu
uỷ Việt Bắc về Văn phòng trung ương có công việc thì hỏi luôn:
- Châu đâu?
Mãi giữa những năm 1990, Châu và tôi hai anh
em mới cùng gặp lại thày. Bữa ấy thày nói:
- Các anh đúng đấy, thày tán thành…
Hôm mừng thày 80 tuổi, chúng tôi mấy chục
người tới, cả trung tướng phó tổng tham mưu trưởng, LHĐ… Mệt nặng, thày nằm
tiếp chúng tôi và câu thày nói dài nhất, rõ nhất và chắc ghi sâu nhất vào đầu
mỗi người có mặt bữa ấy là:
- Đảng cần sửa sai cho anh Châu, anh Đĩnh. Có
sai thì phải sửa.
Tôi rất cảm động bởi tấm lòng trung thực trước
sau không suy xuyển của thày: với thày sai là sai. Sai của quân lính ta với
người Miên xưa, sai của Đảng hôm nay… Với thày yêu nước không có nghĩa là xí
xoá, nhắm mắt cho qua. Yêu nước đồng nghĩa với nghiêm ngặt đầu tiên với chính
bản thân mình, quang minh chính đại nhìn thấy lỗi lầm của chính mình.
Ngoài ra tôi còn cảm thụ được một điều gần như
hết sức mới mẻ này: dù vắn gọn, dù yếu ớt phát ra ở miệng một người bệnh hấp
hối, chân lý luôn có sức kích động khiến cho ta nghẹn ngào muốn đứng phắt ngay
dậy.
CHƯƠNG 40
Hoà bình, lần đầu tiên Linh được cấp một căn hộ
ở Khu văn công Cầu Giấy để thật sự là nhà ở của riêng mình - trước toàn ở nhờ
lớp học. Một trong bốn gian nhà lá mười hai mét vuông, tường toóc-si nằm trước
hai ba mét một dãy nhà xí “tăng cường” (là cất vội thêm cho kịp với nhu cầu bài
tiết do dân số tăng gấp) gồm bốn ngăn bằng đất (hai ngăn cho nam, hai cho nữ),
ngang nhà ở của nghệ sĩ xét về vật liệu nhưng bé hơn, ọp ẹp hơn. Như tất cả,
mặt hậu nhà tôi quay ra đường Chùa Hà (chả ai thiết mặt tiền, lúc ấy trừ tiền
tuyến còn tiền gì cũng xấu vì nó làm nghĩ đến cái nhơ nhuốc nhất là đồng bạc),
cứ ngày rằm mồng một hằng tháng, công an, du kích lại dựng rào, xếp ghế băng
hầm hè đuổi nạt dân đến lễ, không cho bập vào “thuốc phiện”. Một lần dân gần
như nổi loạn, huyện đội phải điều bốn khẩu đại liên phòng không vào sân chùa vờ
tập trận, tôi ra tận nơi xem. Từ ngày đầu mở cõi nghệ thuật, ngoài nhà xí “tăng
cường”, đã xây ở bốn góc Khu Văn Công bốn dẫy nhà xí chính thức mái phi-brô xi
măng, tường gạch quét vôi trắng (sang hơn nhà đất mái lá của văn nghệ sĩ) đầy
những bức vẽ có sức rủ gọi trẻ chui vào sau hố xí nhòm ngược lên những khi có
nữ nghệ sĩ ở trong. Thấy nón trắng lốp (để làm cửa di động thay cho cửa gỗ đã bị
lấy cấp về làm củi) rẽ vào mà nhòm là không thể sai. Đám trẻ ấy bà con còn nhớ
tên, nay cũng đã hơn năm chục tuổi, xe hơi đi lại ra dáng cả. Vậy là danh thơm
nghệ sĩ được gìn giữ quá lỏng lẻo sau những dãy xí tập thể giống các chòi canh
thấp bé ở trại tập trung và có vùng toả hương rộng tới chừng ba bốn chục mét
đường bán kính.
Hôm chúng tôi ở Khu Văn Công Mai Dịch dọn đến,
Tr. trong dàn hợp xướng mách ngay:
- Anh nhớ cho em là của chúng ta, mọi cái đẹp
đều giả, chỉ có cái xấu là thật.
Tôi lắc đầu, không hiểu. Cô bèn giảng:
- Không ư, đứng trên sân khấu Nhà hát lớn, đầy
người óng ánh toàn kim sa, thuỷ tinh giả vàng giả bạc, chắp tay lại giả vờ say
sưa hát “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay”, để rồi khi nghe thấy mưa ầm ầm trên
mái nhà hát lại bụng vội bảo dạ chết, liệu sân khu Văn công có bị lụt không,
thằng bé nhà mình lê la trên hè có lăn cha nó xuống nước ngập trắng băng không.
Mà tài anh ạ, vẫn cứ say sưa “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay…”. Ừ, lão tác giả
này hâm đặc, nó làm cho mình cứ mong chiến tranh mãi, kẻo mai kia hết thì sẽ
xấu lắm đây.
Nói đến đây, Tr. tát vào miệng mình:
- Chung quy tại cái khe không đáy, cái lỗ
không nắp này nó cứ phải có cái ấn vào để sống cho nên nó cứ phải điêu, mày
này, cái đồ điêu, bà thì tát cho chết trợn mắt mày ra này. Có mó rau muống ăn
cho ngày mai ăn cả
cho ngày sau mà cứ rên lên là chưa bao giờ đẹp
bằng… Cha nó, thế mà là mồm mép! Là cái thùng rác thì có ấy!
Con đường đất chính chạy giữa khu lổn nhổn
những tảng đá hộc (cốt để vấp ngã) được gọi là Đại lộ Hà Huy Giáp, cái ao rộng
để vất rác, chuột, rửa bô là Hồ Cù Huy Cận. Có lẽ đám văn công đã mở ra kiểu
lấy tên danh nhân cách mạng đặt tràn cho các đường phố sau này.
Tôi đưa con gái đi buổi đầu tiên đến trường.
Thôn Trung, xã Dịch Vọng. Một hầm sâu một mét. Mái thấp đè sụp xuống bốn lớp
ngồi hổ lốn. Hai bậc thang cuốc vào vách hầm làm lối lên xuống. Lớp học kiêm
hầm phòng không luôn thể. Gà qué, chó lợn chạy nhẩng trên mặt đất hất tung
phân, rác vào các cháu… Mưa, trẻ con trong lớp đội nón khoác mảnh ni lông và
các trang vở nhoè nhoẹt.
Xin nói chuyện hai vụ cháy ở Khu văn công nhà
mái lá. Nạn nhân là nữ ca sĩ nổi tiếng Ngọc Dậu. Chị chạy tới chạy lui vào đám
cháy cố lấy đồ đạc ra đem chất ở gần đấy. Xong cháy, mò đến chỗ để đồ thì người
ta khiêng về nhà người ta hết cả rồi.
Sau đó, nhà Q.L., một diễn viên múa có chồng
học ở Pháp cũng bị cháy. Cô đứng canh trước nhà, ai đến cứu đều lịch sự từ
chối. “Xin cảm ơn các vị. Tôi còn chả thiết cứu, tức là chả có gì thì thôi xin
các vị khỏi luỵ”. Rồi bảo bạn bè:
- Thà thế, còn hơn bê đồ nhà mình ra cho người
ta dùng hộ.
Và ai cũng khen cô biết xây dựng đạo đức mới.
Một chuyện nữa về nghệ sĩ. Thường một hai năm
lại có dịp kéo quân sang Đức, Tiệp… biểu diễn và càn quét các cửa hàng bách
hoá. Các cô kháo cái T., cái X. hay đi vì chịu chìa “hến” cho mấy lão trên bộ
soạng. Chúng nó bảo mất chó gì. Soạng hến suông thôi mà. Coi như đi bệnh viện
khám phụ
khoa thiếu găng tay. Một lần P., em gái NĐT đi
Đức về đến thăm Hồng Linh kể:
- Chuyến này ở Berlin bọn em ngượng quá. Vào
bách hoá, vừa mới cười làm duyên thì mấy cô bán hàng Đức đã đon đả: “Mẹ nhà các
chị, có cần b. không?” chả biết đứa nào ở bên ấy nó dạy người ta lếu láo như
vậy.
Những chuyện nên vào biên niên sử nghệ thuật
Việt Nam vẻ vang thời chống Mỹ giải phóng đất nước.
Đời sống quá lầm than. Chiến tranh chấm dứt,
cái nghèo khổ rộng khắp bao la đoái hoài đến dân ngay. Các ông anh cộng sản chỉ
đủ sức và cũng chỉ mong giúp Hà Nội đánh đế quốc hộ. Còn xây gấp mười trước thì
phải nhờ đế quốc thôi.
Mãi từ Cách mạng tháng Tám tôi nay mới lại nghe
thấy chữ “điêu linh”, chữ xưa Việt Minh thường dùng để tố cáo chế độ thực dân
bạo tàn.
Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du - Bà Triệu, một
công chức lưu dụng giãn phế quản hộc ra từng ca máu khò khè bảo tôi:
- Đĩnh ơi… trên cao kia có biết cho nỗi điêu
linh của dân chúng không? Nói tới đâu thì có người nghe cho nhỉ?
Tin yêu Cụ Hồ, chú ở lại cùng công nhân viên
bảo vệ Sở điện nên được lưu dụng. “Chú ngỡ người ta thuần tuý quốc gia! Ai hay
chính bà lang trọc cộng, nói lời lại nuốt lấy lời. Bố cháu hồi 1945-46 đã nói
bọn Vẹm này nói thì kinh lắm rồi mà. Chú còn ngây ngô. Thình lình cắt tiêu
chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm”.
Cuối cùng sắp sáu chục tuổi ông phán là chú họ
tôi phải đạp xe đi thu tiền điện. Ông nói:
- Lạ là từ Hàng Bài xuống Chợ Hôm cứ thấy toàn
hố đào ngang đường. Đành xuống xách xe vòng lên hè tránh rồi lại tụt xuống đạp.
Thấy người đi đường nhăn răng cười chú mới biết mình đã lầm bóng băng rôn hắt
xuống là hầm hào. Thế là ứa nước mắt ra, biết mắt thiếu bồi dưỡng sắp mù đến
nơi rồi. Một ông bạn bảo nếu đọc được băng rôn thì cụ không khổ. Toàn lời hay ý
đẹp sáng mắt sáng lòng…
Đứa con trai út chú học “Nhật ký trong tù”
phát biểu câu thơ: “Nhân vì trong ngục không có gì làm, Hãy mượn việc ngâm thơ
cho qua ngày dài, Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do” của Bác Hồ là tiêu cực vì chờ
đợi tự do. Cậu bé bị phê vào học bạ: “Phần tử này không nên cho vào đại học…”
Cả trăm pho vè và tiếu lâm miêu tả cái nghèo.
“Một yêu anh có Pơ-giô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần, Ba yêu rửa mặt có khăn”,
“Bắt phanh trần phải phanh trần, Cho may ô mới được phần may ô”. “Việt Nam kiêu
hãnh hiên ngang, Mua cái đinh ranh cũng phải xếp hàng, mua mẩu khoai lang thì
bẩm chờ em tìm tem phiếu”, con gái bảo nhau: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ
công em tắm xà phòng Camay”. Camay là của quý bán chui bán lủi. Có người mua
chỉ để ướp quần áo, mỗi lần mở hòm lại lim dim mắt hít một hơi.
Một sáng gặp Thanh Tú ở Cửa Nam. Tu mời tôi
đến ăn cơm. Mạnh Toàn, bạn tôi, anh cả Kỳ Nam ở Hải Phòng lên. Tôi hỏi Tú dao
này thế nào. Tú than anh ơi, sáng em đi bán bột mì đong gạo, chiều em đi bán
quần áo họ hàng bên Pháp cứu tế, tối em đi bán mặt cho tivi, cho sân khấu… May
là không bị gọi con phe. Mẹ em sang Pháp xem một phim về đời sống Việt Nam bảo
xấu hổ lắm. Có cảnh bà làm phim (Tôi nói là Danie le Hunebellerất
đẹp, nhân tình Kissinger, mình đọc sách Dear Kissinger của bà ấy rồi mà) đến
thăm một ông đạo diễn, vợ là giáo viên. Vào nhà ở khu tập thể Kim Liên, ba
vướng mấy đứa trẻ đang dán bao bì cao Sao Vàng ở cửa. Hỏi lương vợ chồng xong
bà đạo diễn nói thế thì chỉ mua nổi vài cân cá, tôi vừa khảo giá ở chợ Hàng Bè,
vậy sống nhờ gì? Ông chồng chỉ vào đám trẻ : “Nhờ chúng!”. Ô hay, trí thức bóc
lột lao động thiếu nhi, bố mẹ ăn bám con! Mẹ em bảo xem ti vi một mình mà vẫn
ngượng chín cả mặt. Em bảo mẹ em: “Thôi, mẹ ạ, thì đã được thế giới ca ngợi là
anh hùng”. Đảng ra sức truyền cho dân thói sính anh hùng và yếu tố quyết định
tạo anh hùng là nuốt ngon mọi khổ cực, trước hết sinh mạng mình.
Phạm Mạnh Toàn nói ở Hải Phòng có ba anh em nó
đều cán bộ chia nhau lần lượt nuôi mẹ già. Ba thằng gặp nhau làm thủ tục sang
tay mẹ cho nhà khác, trong có mục cân mẹ, ghi sổ đàng hoàng để xem ai nuôi tốt
nuôi tồi, áp dụng kiểu thi đua ở cơ quan. Nhưng bà cụ đáo để. Yêu đứa út nhất
cụ độn vào bụng hai bọc xi măng, đứa thứ hai cũng yêu cụ để một bọc, đến anh cả
cụ ghét thì cụ vất hết và ba hôm trước khi cân cụ còn nhịn ăn… Cụ nói thằng út
tôi coi như công nông nên tôi chiếu cố.
Kỳ Nam kêu lên:
- Ôi đường lối giai cấp vận dụng vào cả trong
gia đình.
Toàn cười:
- Có câu này vào được sử liệu các câu đối hay
nhất nước ta: “Có cứt gì mà phân? Mà có phân thì như cứt”.
Nhân chuyện bán mặt cho tivi Thanh Tú kể, xin
nói đến chuyện bán mặt nạ cũng của Thanh Tú tuy nó xảy ra lúc đất nước đã chơi
xe hơi nhà lầu. Đầu 2003, tôi đi chào chỗ quen biết để vào Sài Gòn ở. Tôi đến
Tú ở Triệu Việt Vương thì Tú bảo tiếc quá, giá anh không vào Sài Gòn thì anh
với em cộng tác quá hay: ta viết sách về làm đẹp, em kể, anh viết… Tú cho biết
tay nghề tô đắp cái đẹp dung nhan của Tú đã được kén làm đẹp cho các ông cốp
lên ti vi. Tôi đùa “Công vỗ mặt ấy to đấy, bao nhiêu một mặt”.
Tú nói:
- Ba bốn chục nghìn. Mặt họ quý nhưng công
mình vỗ vuốt mặt cho họ thì là công bọ công bèo. Nhưng em cũng thôi rồi.
- Sao thôi? - tôi hỏi.
- Có đứa bạn em nó bảo cẩn thận đấy, mày bôi
mày quệt các thứ lên mặt các cha mà ngộ nhỡ các cha lên sởi hay quai bị hay
sưng mộng răng hay phấn son làm nám da thì mày chết…
- Sao chết?
- Ô, người ta nghi mày mưu hại lãnh đạo… Này,
các chỗ ấy nguy hiểm chết người hơn cả trạm biến thế điện hay chuồng cọp đấy,
cứ té cho xa… Em bèn so-ri bái bài…
Tôi chợt nhớ tới chuyện Lê Duẩn xưa tắc “chỗ
kia” mà chả bác sĩ ta nào dám mổ đâu. Cả Phạm Văn Đồng thong manh cũng vậy.
Vợ Vũ Hoàng Địch, giáo viên bảo tôi bọn tôi
vừa ăn tối xong thì trường triệu tập họp gấp 7 giờ rưỡi. Đang đại hàn chi cực,
rét ghê rét gớm. Tôi ngồi cạnh một cô cứ thấy nó run bắn người lên. Hỏi thì nó
bảo chị sờ quần em xem. Ướt đẫm. Em có mỗi cái quần dạy xong đem giặt thì bị
gọi họp. Nhà không có bàn là mà có thì hôm ấy cũng mất điện. Đạp xe đến bạn ở
khu phố khác để là thì không kịp thế là đành… Lớp không có cửa gió bấc cứ hun
hút. Tối ấy tôi tưởng nó chết… Ở Đinh Công Trứ, gần nhà Vũ Hoàng Địch, Anh hùng
quân đội Nguyễn Thị Chiên bán vé xổ số.
Dân tổng kết quá siêu đầu ra của võ công oanh
liệt:
Đầu đường đại tá bơm xe,
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen,
Trung tá đi bán cà-rem,
Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma,
Đại uý chăn vịt đuổi gà,
Trung uý nhà bám đít con trâu,
Còn thằng thiếu uý đi đâu,
Ba-lô lộn ngược buôn tàu bắc nam.
Bao giờ Trung Quốc tràn sang,
Trung ương Đảng gọi, sĩ quan chạy làng!
Như ca dao xưa đã nói “thằng Tây nó tếch thằng
Tàu nó sang!”. Cùng tiền đồ đầy hy vọng: “Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây; Bây giờ
chống cổng rước Mỹ Tây vào nhà”.
Một chiều xếp hàng mấy tiếng ở Bách hoá tổng
hợp mua săm lốp xe đạp Sao Vàng theo tem phiếu một đời xe may mới được cấp một
lần, tôi chứng kiến một cảnh chắc chắn khắp thế giới không đâu có.
Cách chúng tôi đám người mua xăm lốp chừng
mười mét là quầy sữa. Bảy tám chị em còn trẻ nhấp nhổm chờ ở đó đã khá lâu. Chốc
lại nhăn nhó hỏi cô bán hàng sao lâu thế, con em ở nhà chẳng có người trông.
Nghe đâu bị giữ ở đây bốn tiếng, chị em đã gọi đây là Hoả Lò ngoại trú. Khoảng
nửa giờ sau, một người đàn ông thấp, vạm vỡ, hai cánh tay trần xăm xăm đi tới,
miệng nói lớn. “Trật tự, lần lượt từng người, xếp hàng vào… Nào, đúng là đã chờ
đủ bốn tiếng chứ?” vừa nói vừa nhặt một tờ giấy ghi tên những người đến vào giờ
nào giờ nào để ở trên quầy lên xem. “Ai không đủ bốn tiếng thì về hôm khác
đến…”. (Một ông xếp hàng cạnh tôi nói khẽ: Sửa trụ sở y tế phường nên chị em
phải đem vú đến chỗ chợ búa thử thách xem tươi hay héo, rắn hay nhão. Chúng nó
cấm về nhà vì sợ chị em cho con bú hay vắt kiệt sữa đi… Chốc sẽ còn bắt chị em
uống nước thật nhiều cho sữa dễ rỉn ra).
Tôi thật sự không tin vào mắt mình. Những bà
mẹ trẻ lần lượt trật vú ra cho người đàn ông bóp kiểm tra trữ lượng sữa sẽ nuôi
các Phù Đổng tương lai. Hai tay hai bầu, mắt chằm chằm vào núm vú, anh ta nói:
- Cố nhịn đau đấy, tôi nhẹ tay thì lại bảo tôi ngoắc ngoặc, thiên lệch… Cô bán
hàng bên cạnh bỗng bình giá: “Bốn hộp!”. Người mẹ vừa nghiến răng xoa ngực vừa
vội kêu lên: “Ối, bốn hộp thì con em bú sao đủ, tiền đâu mua sữa phe, khổ con
em…”
Tôi quàng lốp vào cổ vội lách ra. Nghĩ đến tít
xã luận báo Nhân Dân: “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người” mà không thể
không rủa thầm bố tiên sư nhà nó!
Vừa tới cổng bách hoá đằng Hai Bà Trưng thì bị
giật về đúng ba ngả: trái, phải và đằng sau. Một cô liến thoắng:
- Bố hớ rồi, dớ mẹ nó loại hai rồi, phải xem
có sợi chỉ xanh ở vải lót bên trong cơ, bố Khốt (khù khờ) quá… Thôi, thương bố
Khốt con mua đỡ cho với giá giữa loại hai và loại một xuất khẩu.
Tôi nghẹn cổ không trả lời được vì một cô bên
trái đã hai tay níu lấy cái lốp xoắn lại và nó lập tức thít lấy cổ tôi. “Có mỗi
con là chơi đẹp với bố Khốt. Nghĩa là trả đúng loại một, chỉ xin bố Khốt bớt kha-ra-sô năm
đồng. Thế là ố chìn tuyệt, bố Khốt nhẻ nhẻ!”
Tôi cố gỡ ra khỏi gọng kìm:
- Tôi mua dùng, bánh xe tôi vấn một năm nay
rồi…
- Bán đi. Đi vành sắt không lốp đỡ trượt ngã!
Tôi chẳng thiết ngó xem ai vừa mách mẹo thiết
luân xa. Bụng nghĩ: chủ nghĩa tư bản biến người thành hàng hoá, mình hơn là còn
được làm cái giá treo hàng cho nên mới thành lương tâm thời đại… đồ…
Ít lâu sau, mấy chị em ở báo cho hay tay bóp
vú ăn lương kia bị vợ li dị. Quen thói hoá thành quỷ bạo dâm với ngay vợ.
Cũng cho hay hôm nọ y tế lộ ra bí mật quốc gia
là 90 % trẻ sơ sinh của ta bị ỉa chảy. Loại cho bóp vú được tám hộp sữa Liên Xô
cũng điêu đứng. Sữa Nga để quá ba ngày là kém phẩm chất. Ăn vội được ba hộp còn
năm lại đem ra Hàng Buồm cho phe đỡ hộ. Sữa
Similac Nga ăn vào là trôn tháo cống ồ ồ ngay.
- Khéo mà các ta-va-rít làm
nhầm thuốc tẩy ra thành sữa à?
Một chị vặn lại:
- Thế Nétxlê nó cho thuốc táo bón vào ư?
Một chị nhắc lại hôm nào công đoàn bán cho
đoàn viên sữa Mộc Châu. Đặc quánh hệt mỡ tra ổ líp xe đạp. Nhiều người mách
nhau nấu chè bà cốt. Cứ tương cho nửa bàn tay gừng vào là chắc dạ. Nhưng có chè
lại khổ nỗi không thìa, phải lấy dao bếp nạy.
Nghe nói, tôi chợt nhớ đến những cái thìa ở
quán Bốn Mùa thủng lỗ chỗ. Thìa không nằm trong dự kiến của Uỷ ban kế hoạch vì
nghề đúc bị cấm như mọi ngành nghề thủ công khác - trừ hàng thiếc làm đèn dầu,
bếp dầu bằng những vỏ hộp nhờ trật vú ra cho bóp mà có. Dân liền vào quán cà
phê mậu dịch gọi một tách cà phê ba hào, uống xong nẫng luôn thìa nhà mậu hào
hai một chiếc. Đối phó lại, nhà mậu đem đục thủng thìa ra. Một số trí thức gọi
là thìa theo phái pointlillisme, - hội hoạ lấm tấm… Được, ông
lấy ông vất cống cho bõ ghét thôi mà.
Nhà mậu cuối cùng thuê trẻ con mót que kem cho
vào mỗi cốc cà phê hay chanh quả một que đã được dội nước đánh ào một gáo cho
chung cả rổ. Cuộc đấu trí giữa thìa và que kem diễn ra khá dai dẳng trước con
mắt dửng dưng của trọng tài là đảng vốn thờ câu “Không sợ thiếu, chỉ sợ không
công bằng!”
Đúng, không công bằng quá! Sao quốc doanh các
anh có thìa mà tôi không?
Tôi hỏi Khoa, công an sống trong khu văn công,
sao ăn cắp nó chạy mà công an cứ thổi còi chứ không đuổi? Khoa nói:
- Đuổi làm gì chứ chú?Bắt sao được nó? Nó chạy
nhanh hơn.
- Sao lại thế?
- Sáng nó xơi sủi cảo, bọn chúng em toàn cơm
hẩm mà nguội ạ.
Thời ấy công an yếu không hay nện dân như thời
lắp thêm chân kinh tế thị trường.
Lúc ấy chưa có tổng kết bất hủ: lương công
nhân viên chức chỉ sống đủ cho 10 ngày. Tôi đã bảo Thép Mới:
- Nạn đói thâm niên này nhất định để lại trầm
tích sâu dày trong vô thức. Rồi sẽ tham lam, tắt mắt, hôi của… tràn lan. Cái
đói nó ngoạm hết dần nhân cách.
Nhưng dân không chỉ tự phá nhân cách! Cũng phá
cả quan cách, tức là “tế phệ” ngay cái anh gieo khổ vào mình. Đầu tiên dân thử
đánh thí điểm vào anh em quốc tế vô sản rồi mở ra diện sau. Đồng chí Liên Xô
hoá thành Nhi-cô-lai Nhai-quai-dép, đồng chí Triều Tiên thành Chim Xun Xun,
đồng chí Lào thành Hắc Lào Mông-chi-chít, Cai-đẻ Thôi-đẻ- hẳn, đồng chí Trung
Quốc thành Bành Âm Hộ…
Quy luật chăng? Mở trận chống cường quyền, dân
thường dùng vũ khí nhọ nồi trước. Bôi đen nhẻm mặt đối tượng đi. Thành khỉ khẹc
rồi sẽ hiện ra thành quỷ dữ.
Tôi vẫn coi mẩu chuyện dân sáng tạo sau đây là
tiêu biểu nhất của vũ khí nhọ nồi.
“Toàn chui lủi luật lệ, Việt Nam bị Liên hợp
quốc doạ đuổi và phải khai lại lý lịch, không được nói phét nhập nhèm. Bèn
khai:
- Họ và tên: An Nam, tức Việt Nam.
- Anh (kiêm mẹ lo cơm cháo): Liên Xô, Trung
Quốc, chuyên xui em đánh đấm.
- Nghề làm lâu nhất: ăn xin…
- Sở trường: đâm chém và xé hiệp ước.
- Sở đoản: nhìn ngõ cụt thành đại lộ thênh
thang.
- Khả năng giúp Liên hợp quốc: thảo nghị
quyết.
- Tiền đồ phát triển: vật phẩm có triển vọng
thay hết nhân phẩm”.
***
Một hôm, Bộ nội vụ mời tôi đến 16 Trần Bình
Trọng; bộ phận tiếp dân của Bộ. Tết vừa qua, lũ người nhà tù xét lại đến đây
gửi thư từ, quà Tết cho tù. Toàn các chị, riêng tôi đàn ông thăm Trần Châu vì
anh không còn gia đình. Người trẻ nhất trong chúng tôi là Châu, con gái Kỳ Vân,
chị đứa em, Đông, hy sinh vì rốc-két ở Trường Sơn. Cháu nhanh nhảu, hay cười
như bố. Nhìn cháu tự nhiên tôi nhớ đến một sáng rất rét trên An toàn khu, nằm
trong chăn Kỳ Vân bảo tôi: mày chưa được biết những sớm thế này con mày nó dậy
nó leo lên người mày rồi nhìn mày bằng hai con mắt tròn xoe… rồi nghĩ thầm chắc
là cháu này đây. Kỳ Vân bị cổ chướng được về nhà chữa bệnh. Đảng không muốn
thêm một người chết trong tù sau Phạm Viết. Tôi hỏi cháu: bố sao?
- Bụng như cái trống chú ơi. Nước đái đỏ như
nước vối đặc.
- Bố có buồn không?
- Cười đùa suốt, chẳng thấy buồn chú ạ. - Trả
lời tôi, cháu cười toét, đúng cái cười của Kỳ Vân.
- Thế mới là bố cháu. Về nói với bố là chú hỏi
thăm, chú rất nhớ… Bất năng khuất là bố cháu…
Thế rồi Kỳ Vân chết. Cháu Châu cũng chết.
1975, sau bố hai năm. Đẻ bị băng huyết.
Hôm nay nhận giấy mời của bộ, tôi vẫn lệ
thường dạo bộ với Lê Đạt nhưng lần này rông xuống tận hồ Thuyền Quang. Rồi bảo
Đạt chờ ở đó, tôi vào chỗ tiếp dân của bộ, ở Trần Quốc Toản.
Lê Thành Tài, người Nam tập kết, trưởng phòng
cục chấp pháp đã ngồi chờ ở phòng khách cùng với một người mặt hổ phù đỏ xậm.
Trước mặt hai người hai gói thuốc lá và chè chưa bóc. Tài giới thiệu, tôi mới
biết người ngồi đó là Hoàng Thao, thứ trưởng công an.
Tai nghe tên Hoàng Thao thì đầu tôi nghĩ ngay
đến Lưu Động. Anh nói ở nhà tù Sơn La, anh được chi bộ phân công dạy Hoàng Thao
tiếng Pháp nhưng, anh nói, nó óc bã đậu quá.La forêt là rừng thì nó
học mãi không thuộc, đến lúc thuộc lại xọ ra thành na pho dê nà dừng.
Tao phải bảo xừ Xứng Lê Thanh Nghị là rừng dạy nó thôi, cho nó thông tiếng ta
là tốt quá rồi…
Còn lúc ấy tôi chưa biết chính Lê Thành Tài có
hôm bảo Châu trong tù:
- Ta vừa sút tung lưới xét lại Liên Xô ghi hai
bàn thắng xong. Tóm mấy chục người các anh là một bàn này, vô hiệu hoá Võ
Nguyên Giáp là một nữa này. Bàn thứ ba là sẽ sang Nga lôi cổ mấy thằng Lê Vinh
Quốc, Văn Doãn v.v… về.
Cũng chính Tài bảo Châu khi Châu tù ở Phú Sơn
Thái Nguyên:
- Báo anh biết là bắt thằng Trần Đĩnh em anh
rồi. Nó là một bộ trưởng trong chính phủ phản động của các anh.
Châu bảo tôi sau đó nghe ở ngoài giếng có ai
huýt sáo anh cứ nghĩ là tôi. Tôi nghe mà thấy mình có lỗi: Không bị bắt và không
đến thanh minh khi anh ngỡ tôi huýt sáo.
Tài pha trà, bóc thuốc (Thăng Long hẳn hoi)
rồi nói hôm nay bộ mời anh đến để anh Hoàng Thao có chuyện liên quan đến Trần
Châu. Tôi hơi chột dạ thì Thao nói ngay:
- Nay Đảng khoan hồng tha cho Trần Châu về nhưng
phải có người viết giấy bảo lãnh, mời anh đến là để viết bảo lãnh đó.
Ngỡ họ ít ra cũng thanh minh về việc lỡ bắt
anh chị em, tôi phản ứng luôn:
- Tôi không bảo lãnh! Không tự do gì cả… Tự
nhiên bắt, chẳng có toà xét xử và cứ thế giam, nay tan nát gia đình, thất
nghiệp rồi ra tù lại cứ vẫn đeo cái tiếng phản động.
Lê Thành Tài hút thuốc, mặt như không nhưng
dưới gầm bàn đá lia lịa vào chân tôi. Công an can tử tế cũng bằng bạo lực - đá
ngầm.
Nhận thông điệp quá dồn dập của Tài vào ống
đồng, tôi bèn nói:
- Nhưng đấy là nói nếu là tôi, còn đây là
chuyện Trần Châu…
Thành Tài bảo anh chỉ viết nhận bảo lãnh cho
anh Trần Châu rồi đưa chúng tôi là xong. Tài hỏi tôi ở quê còn ai không.
Tôi nói ông bà nội đã lìa quê từ trẻ. Ôi, số
phận, nếu tôi trả lời khác? Có thể Châu sẽ chẳng về gần Hà Nội có vợ chồng tôi
và sẽ chẳng lập gia đình và có con cháu ở một làng tại Quốc Oai, Yên Sơn và nằm
lại tại đó. Nhất Sơn là làng nguyên quán.
Đến lúc ấy, Hoàng Thao nói:
- Anh Trần Đĩnh ạ, các anh nói Đảng ta theo
Trung Quốc là không đúng đâu. Đảng ta coi Liên Xô và Trung Quốc đều có cái tốt
cái xấu như nhau…
Tôi lại bật ra:
- Tôi đến đây là đi cùng một anh bạn, chính
khi đến đây tôi bảo anh bạn đó là cả hai thằng đều thối.
Vừa nói hai thằng cứt hết với Lê Đạt thật, sửa
thành thối vì xã giao!
Hoàng Thao vội xua tay:
- Thôi, thôi, tôi không nói nữa, kẻo các anh
lại bảo Hoàng Thao biết gì lý luận mà nói.
Khi bắt Lưu Động, chắc Hoàng Thao đã bảo đem
đến cho gặp mình. Chắc muốn cho một bài học lập trường. Tù Sơn La với nhau nhá,
mày tú tài, tao bập bẹ chữ, nhưng đấy đã thấy căn bản cách mạng cần cái gì
chưa? Cần chó gì cái tiếng Tây chuyên xui phản động của mày! Sau đó khi họ điệu
đi, Lưu Động cứ ôm chặt chân bàn (gỗ lim nặng lắm, chắc vẫn là bàn mật thám
Pháp hồi bắt, Lưu Động bảo tôi) mà chửi Hoàng Thao rất to:
- Tiên sư bọn Mao-ít chúng mày giỏi nhất là
bắt tù giết hại đồng chí!
Mồng sáu Tết, Lê Thành Tài điện thoại nói Trần
Châu đã về. Xin lỗi không báo trước được, anh ấy về từ hăm chín Tết.
Vâng, ở Xí nghiệp nông cụ Quốc Oai. Quan liêu
mà không báo hay là đánh bồi thêm cho một đòn ngay sau khi mày đã được ông thả?
Thế là Châu còm cõi mấy ngày Tết không Tết giữa cái nhà máy vắng lặng…
Linh chất đầy một xe máy thức ăn, quà cho tôi
đi gặp Châu. Anh em ôm nhau, tôi nói khẽ vào tai Châu: “Thả ra vì nay cần con
tin nộp Liên Xô…”
Không biết còn là tuân theo khoản thả tù chính
trị ký trong hiệp định Paris. Mỹ nó hay thọc gậy vào bánh xe chuyên chính.
Ngang sống mũi Châu là một vệt tím bầm. Châu
bảo sáng hôm được tin về, anh vui quá hút thuốc lào bị say ngã vập mặt vào gờ
xô vệ sinh… Tôi nghĩ đó là cái dấu cuối cùng nhà tù lưu lại cho anh.
Anh em tù mỗi người về ở một huyện xa. Hoàng
Minh Chính ở thị xã Sơn Tây ngay cạnh đồn công an nhưng chỉ một năm anh đã lén
ra bến ô tô từ sớm mua vé về Hà Nội, phá lệnh. Đặng Kim Giang về Lim nhưng rồi
cũng lại cả gia đình dọn về ở trong khu vực chùa Liên Phái. Vũ Đình Huỳnh về
phố Thợ Tiện, Nam Định (cũng vài lần ra đến bến ô tô để về Hà Nội nhưng công an
lại túm được). Lê Trọng Nghĩa đánh xe bò hợp tác xã vận tải thô sơ ở Trương Xá,
Ân Thi, Hưng Yên. Minh Việt đến Thắng, Hiệp Hoà Bắc Giang. Gia Lộc, Kiến Giang
ở hai nhà máy chè trên Ấm Thượng. Lưu Động, Huy Vân, Huy Cương về nhà máy gỗ
đầu thị xã Ninh Bình. Phan Thế Vấn bật lên tận Lạng Sơn sống với em trai là bác
sĩ Hổ trên đó. Hôm đưa Thẩm và Vấn về, xe Lê Thành Tài đỗ ở trước nhà Vấn để
Tài vào báo cho bố mẹ Vấn biết Vấn lên Lạng Sơn. Không được vào chào bố mẹ, ngồi
trên xe, Vấn nghe thấy người ta gắt bố già mình: “Đến báo con các người ra tù
mà mãi mới mở cửa à?”
Bố mẹ Vấn từng lọ mọ lên tận Yên Bái, Lao Cai
thăm đứa con cả tù tội. Nhưng đi hàng ngày đường vất vả chỉ được thăm con nửa
giờ. Người ta phạt Vấn đã dám gửi thư lên Lê Duẩn xin cho anh thuê luật sư cãi
giúp anh.
Ở đây phải nói tới kế hoạch chưa thực hiện
được là đày vợ chồng con cái Võ Nguyên Giáp ra đảo Tuần Châu.
Sáu Thọ định sẽ để anh em tù cứ thế sống vĩnh
viễn tại nơi về quản thúc. Cấm anh em làm những nghề sau: chữa đài thu phát
thanh (sợ liên hệ với địch), chữa đồng hồ (sợ đặt mìn định giờ), chữa xe đạp
(sợ có phương tiện tẩu thoát) và cắt tóc (sợ cắt tiết đồng bào chăng?)
Châu mới ra tù, mỗi tháng tôi đi thăm anh hai
lần. Chủ nhật nhà máy vắng lặng, một mình anh trơ trọi. Thường lên đến bờ đê tả
song Đáy đầu huyện Quốc Oai, tôi mới chảy nước mắt. Nhịn từ lúc chia tay. Biết
rằng bao giờ anh cũng đứng ở đầu đê nhìn theo tôi mãi. Hà Nội từ nay là chỗ
trống không của anh.
Nỗi khổ lớn nhất của anh là bặt tin ba đứa
con. Mồng một Tết tự do đầu tiên của anh, chúng tôi đưa anh đến nhà bà chị ở
Hàng Đào, cho anh đứng ghé mắt qua lỗ cửa con khoét trên cánh cửa lớn để nhòm
xem ba con anh chúng sắp đến nhà Kh., dì ruột nó gần đây. Châu đang nghiêng
nghiêng đầu ngó thì bỗng nấc lên một tiếng, bàn tay giơ lên quờ quạng, run rẩy.
Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy người mất hồn… Tôi nhòm ra: thung dung đi
hàng một ở vỉa hè trước mặt, ba đứa trẻ con anh.
Một dạo dài chúng hãi hùng nghe nhắc tới bố.
Một quy định chung của Đảng: con cái tù xét
lại không được vào đại học, trừ nông nghiệp, sư phạm và xây dựng mà Đảng coi là
đồ tã…
***
Thẩm vấn tôi, người ta kết luận tôi sa đoạ vì
đọc quá nhiều “tà thư”. Họ lầm chính sách của họ là chính thư, biết đâu chính
cuộc đời bày ra sống động hàng ngày mới là chính thư. Còn trong mắt tôi tà thư
lại nâng tôi dậy!
Thẩm vấn - à, là hỏi cung, dịch ra các tiếng
Anh, Pháp, Tây Ban Nha đều là thế. Thẩm vấn về, hôm sau tôi ngốn ngay Bươm
bướm của Henri Charrière và mấy nhà văn nữ. Hoài niệm không
giống với nó thuở xưa, hồi ký của Simone Signoret, vợ Yves Montand, hai vợ
chồng đều siêu sao điện ảnh Pháp, Chim hoạ mi thôi hót trước bình minh của
Elsa Triolet cho tôi câu: “Thuở ấy tôi chưa biết số phận, ấy là chính trị.”. Một
cái chết rất êm dịu của Simone de Beauvoir viết về cái ốm cái chết
riêng tư bé nhỏ của mẹ mình mà sao đầy trí tuệ và tình cảm tinh tế đến thế.
Trong khi chúng ta ngày ngày chết bao nhiêu mạng mà chẳng có cái viết nào cảm
lòng người. Tôi lẽ ra phải nghe những “chính thư” như chỉ thị của một nhà lãnh
đạo văn hoá nói xã hội ta không có bi kịch.
“Nam Ngạn một bà cụ có hai con gái phục vụ
trận địa pháo hy sinh đấy, anh nào đến chia buồn thì bà cụ tát cho vỡ mặt!”
Ở hồi ký của Simone Signoret, tôi xúc động
chuyện Yves Montand nhận lời mời đến Hội nhà văn Liên Xô với điều kiện là không
đòi ông hát, mỗi ngày ông đã hát ba buổi ở nhà máy, nông trường quốc doanh và
nông trang tập thể rồi. Hội nhà văn nuốt lời. Rất cáu nhưng ông vẫn lên bục. Để
hát đúng hai câu thì ngừng lại hỏi các nhà văn bên dưới: “Các người đã đổi gì
để có phè phỡn này? Đổi bằng nín thít, thậm chí đồng loã nữa, trước những oan
trái, chết chóc, tù đày của các nhà văn dũng cảm, có tài hơn các người rất
nhiều đấy”.
Những ngày thế giới đau lòng về thuyền nhân
Việt Nam, Yves Montand đã cùng Bernard Kouchner lập ra “Phong trào một con
thuyền cho Việt Nam” với con tàu cụ thể là Đảo Ánh sáng.
Hồi Nghị quyết 9, tôi nói với Phan Kế An một
tâm đắc lớn rồi sau đi vào biên bản hỏi cung tôi. Hai chục năm sau, An bảo tôi:
- Chơi với mày từ 1948-49, tao nhớ một câu mày
nói: “Chúng mình tiêu bạc thật, họ tiêu bạc giả, hãy cho lòi thánh đường bạc
giả ra”.
No comments:
Post a Comment