Để thấy
rõ thêm về bộ mặt thật của Hồ Chí Minh và Tập Đoàn Cộng Sản Việt Nam cũng như để
hiểu rõ hơn về sự bịp bợm, mị dân qua cái gọi là GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN
PHÁP 1992 của Bên Thắng Cuộc, kính mời quý vị đọc lại ĐÊM GIỮA BAN NGÀY của VŨ
THƯ HIÊN
Tôi tặng cuốn sách này cho:
Những người con của nước Việt đã cống
hiến đời mình cho một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
Hương hồn cha tôi,
và những người cộng sản đã chết bởi tay
các đồng chí của họ.
Mẹ tôi, người dạy tôi sống không cúi đầu.
Vợ tôi, người cùng tôi chia sẻ vô vàn
khốn khó trong những năm tháng đen tối của đời tôi. Các bạn tù của
tôi, cộng sản cũng như không cộng sản. Các thế hệ sau tôi, hi vọng họ
sẽ không bao giờ phải sống như tôi đã sống,
dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào.
Ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi ở miền Bắc Việt Nam nổ ra một
vụ án lớn, cho đến nay vẫn còn là chuyện khó hiểu đối với nhiều người.
Trong nhân dân, vụ án này có tên nôm na là vụ "xét lại
chống Ðảng". Tên chính thức của nó ít ai được biết, kể cả các đảng viên
cộng sản, là "Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ
nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài"(1). Ðây là tấn bi
kịch lớn nhất trong hàng ngũ những người cộng sản ở Việt Nam, từ nhà cách mạng
lão thành suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc cho tới đứa trẻ vừa lọt lòng
mẹ trong nền độc lập đã giành được(2).
Trong vụ án này Ðảng(3) cầm quyền bất chấp luật pháp do chính
mình đặt ra đã xuống tay hạ ngục, giam cầm và lưu đầy nhiều năm không xét xử
những người có tư tưởng bất đồng. Nằm trong phạm vi trấn áp của vụ án do Ban tổ
chức Trung ương Ðảng khởi xướng còn phải kể rất nhiều cán bộ, đảng viên có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp với những người bị bắt. Ngoài ra, một số dân
thường cũng bị Ðảng nhân tiện chụp cho cái mũ xét lại hiện đại để xử lý. Tất
tật bị nhét chung vào một rọ, bị Ðảng trừng phạt bằng nhiều cách khác nhau, với
mức độ khác nhau.
Bị bắt năm 1967, những người tù không có án, còn gọi là tù
"xử lý nội bộ", tới năm 1973 mới lần lượt được thả.
Chưa hết. Sau sáu năm giam cầm họ còn phải chịu đựng những năm
lưu đầy biệt xứ và quản thúc tại gia.
Tưởng chừng vụ án đến đấy là kết thúc, nhưng không phải.
Người cuối cùng trong số tù nhân được Ðảng ban cho ân sủng
"xử lý nội bộ" mãi tới tận tháng Chín năm 1976 mới được ra khỏi cổng
nhà tù.
Người tù ấy là kẻ viết những dòng này.
Ðáng ngạc nhiên là sau nhiều năm im lặng đáng sợ, nói theo cách
của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, những ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau
tính từ thời tổng bí thư Lê Duẩn trở đi, vẫn khăng khăng khẳng định đảng của họ
đúng trong cách xử lý vụ án, rằng những kẻ vi phạm luật pháp (của Ðảng và chỉ
của Ðảng mà thôi) xứng đáng chịu những án hình lẽ ra phải nặng hơn những án
hình mà Ðảng nhân từ đã ban cho.
Trong chín năm tù tôi chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân
và cho những người mà tôi thương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa
cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế.
Sự nhìn lại đời mình cũng như sự quan sát số phận của đồng bào
trong những nhà tù tôi đi qua đã mang lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng
đối với những hành động phi nhân của những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã
hội trong đó con người dù muốn dù không đều đánh mất mình.
Cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay là một phần những quan sát
của tôi, một phần những suy nghĩ của tôi, về cái xã hội khó hiểu mà số mệnh đã
an bài cho tôi sống trong lòng nó.
Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết, nó khởi
sinh từ những ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn
cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng
chảy không bao giờ ngưng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp
ủ những mưu đồ xấu xa.
Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha hóa
của họ, cái gì là tác nhân - chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ
thành ra như thế hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với
bản thể do trời đất tạo ra, hay là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ.
Cuốn sách này chỉ là một chút ánh sáng soi rọi vào một vụ án cụ
thể nhưng mang tính đại diện cho một thời kỳ cai trị của Ðảng cộng sản, một
mảnh gương con phản ánh một số mặt ít người biết đến của xã hội Việt Nam.
Là cái nhìn từ phía người trong cuộc, mọi hồi ức đều mang tính
chủ quan. Nhưng, cũng lại với tư cách hồi ức, nó vẫn là bằng chứng đáng được
chú ý, cho dù chỉ là bằng chứng từ một phía. Tôi cố gắng, trong chừng mực có
thể, đưa ra bằng chứng của tôi về vụ án nói trên bằng ngòi bút công bằng.
Trong cuốn sách này chỉ có sự thật. Hình thức văn học mà tác giả
sử dụng trong cuốn sách chỉ vừa đủ cho bức tranh sự kiện không thành quá tẻ
nhạt. Văn học đích thực không có chỗ nơi đây.
Vì mục đích cuốn sách giới hạn trong một vụ án, cho nên nó không
thể là cuốn sách nói về chế độ lao tù ở Việt Nam. Ðể nói về nhà tù Việt Nam cần
một cuốn sách khác. Mà đó là một đề tài đáng được chú ý, chí ít cũng là một sự
quan tâm không thể thiếu đối với số phận đồng loại trong một nửa thế kỷ.
Quá khứ sẽ chẳng có ích cho ai bởi sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ
chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy ngẫm, rút ra từ trong lòng
những sự kiện của nó bài học cho tương lai.
Cuốn sách này không phải là lời lên án một xã hội nay mai sẽ
trôi vào quá khứ.
Tôi không dám đặt cho mình mục đích buộc tội. Chỉ vì lịch sử
thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Tôi cũng không thể đóng vai người buộc tội được bởi trong xã hội
mà tôi sống tôi không đơn thuần là nạn nhân. Về mặt nào đó, trong chừng mực nào
đó, tôi còn là thủ phạm.
Tôi viết vì tôi không thể không nói lên tiếng nói của mình. Tôi
quan niệm kẻ không dám nói "không" trước tội ác là kẻ đồng lõa với
tội ác.
Và sau hết, theo cách biểu đạt của nhà văn Nga Prishvine, tôi
chỉ là "một cái lá trong hàng triệu cái lá của cây đời, và nói về một cái
lá thì cũng là nói về những cái lá khác". Số phận tôi được nói đến trong
cuốn sách này cũng là số phận của nhiều người cùng thế hệ.
Xin hãy coi cuốn sách này là lời sám hối trước đồng bào của cha
tôi nay đã không còn. Nó được thực hiện theo lời trăn trối của Người.
Cuốn sách còn là một vòng hoa muộn, một nén hương thêm đặt lên
mồ những nạn nhân xấu số của một thời kỳ đen tối, những con người bất hạnh đã
không chờ được đến ngày cuộc đời lập lại lẽ công bằng cho họ.
CHƯƠNG 1
Lễ mừng Thiên chúa Giáng sinh năm 1967 tại Hà
Nội chẳng hứa hẹn một sự náo nhiệt thường có. Quá nửa số dân đã sơ tán khỏi
thành phố. Người ở lại phần nhiều là cán bộ nhân viên các cơ quan Trung ương và
địa phương, dân quân tự vệ, cộng với một số dân thường vì lý do này hay lý do
khác không thể đi được. Phố xá mất đi vẻ sầm uất. Nhiều nhà đóng im ỉm. Bên
trên mái đá đen các công thự cũ thời thuộc địa, trên nóc các nhà cao tầng mới
xây, tua tủa nòng đại liên trung liên ngóc lên trời xanh nhiệt đới. Vỉa hè lỗ
chỗ hầm trú ẩn cá nhân làm bằng ống cống. Chiến tranh thực sự chưa dạo bước
trên ba mươi sáu phố phường, nhưng bóng đen của nó đã trùm lên mái ngói âm
dương thanh bình của kinh thành Thăng Long cổ kính. Trong phố vắng những người
ở lại, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ, quần áo gọn gàng, dáng tất bật, cắm cúi đi
sát tường, khẩu AK trên vai. Phóng viên AFP ở Hà Nội nhận xét: "Hà Nội
bình thản và nhanh chóng hòa nhập với nếp sống thời chiến, cho dù ở bờ bên kia
Thái Bình Dương Lầu Năm góc chưa vội vã tuyên bố chiến tranh với nước Việt Nam
cộng sản". Hà Nội sẵn sàng để chống trả. Người Hà Nội làm việc, ăn, ngủ,
yêu đương, sinh con đẻ cái trong bầu không khí căng thẳng chốc chốc lại vỡ ra
bởi tiếng nổ của mọi cỡ súng lớn nhỏ rộ lên từng đợt mỗi khi máy bay Mỹ bay
ngang; trong tiếng cô phát thanh viên quen thuộc vang vang trên các phố vắng
"Ðồng bào chú ý! "Ðồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi
cây số! Máy bay địch cách Hà Nội hai mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội mười
lăm cây số!"; dưới những vệt khói trắng mỏng manh của tên lửa đất đối
không SAM-1, SAM-2... vun vút kẻ chỉ lên trời xanh nhiệt đới. Cuộc xung đột vũ
trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn bắt đầu bằng những
trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hà Nội khuyến khích và yểm trợ, đã mau
chóng lớn lên thành nội chiến. Người Mỹ nhảy vào, biến nó thành chiến tranh
Việt-Mỹ, thành cuộc đối đầu giữa hai phe cộng sản và tư bản thế giới. Trong bối
cảnh cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu đã kéo dài nhiều năm, cuộc chiến tranh nóng
ở Việt Nam còn kéo thêm một số quốc gia vào lò lửa của nó, hứa hẹn một sự dai
dẳng không biết khi nào mới kết thúc. Trên lãnh thổ Bắc Việt Nam cuộc giao
tranh độc đáo và dữ dội chưa từng có giữa bầu trời và mặt đất, bắt đầu từ năm
1965, là sự phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cục bộ nọ. Bằng những trận
không tập ồ ạt, rất ác liệt, không ngưng nghỉ, tổng thống thứ 36 của Hiệp chủng
quốc Hoa Kỳ quyết tâm bắt miền Bắc Việt Nam phải quỳ gối trước sức mạnh của vũ
khí(1). Ðêm trước, người Hà Nội thở phào nhẹ nhõm nghe giữa lao xao sóng điện
đài gần đài xa tin các bên tham chiến trên bán đảo Ðông Dương đã thỏa thuận
được với nhau một ngày ngừng bắn nhân dịp kỷ niệm Chúa Kirixitô ra đời. Lễ mừng
Thiên Chúa Giáng sinh 1967 đến với Hà Nội như một ngày hòa bình bất ngờ, một
ngày không bình thường trong cuộc chiến, không phải nhờ ơn người mà nhờ ơn
Chúa. Thành phố yên tĩnh như thể chưa bao giờ nó yên tĩnh như thế. Từ sáng sớm
không có còi báo động. Chỉ có tiếng loa lanh lảnh nhắc nhở mọi người cảnh giác
trước hành động bất trắc của kẻ thù. Quanh Hồ Hoàn Kiếm dân đi lại nhộn nhịp
hơn ngày thường. Nhân đợt ngưng chiến ngắn ngủi, những người sơ tán gần thành
phố hối hả đạp xe về nhà. Họ tranh thủ khoảng thời gian yên tĩnh ngắn ngủi để
đi khám bệnh, đi mua bán, thăm hỏi người thân, đến chơi với bè bạn, ăn với nhau
một bữa cơm, uống với nhau một tuần trà, để rồi sớm hôm sau lại tất tả lên
đường. Bên miệng hầm tập thể vắng bóng những bà mẹ nhỏ bé bế con nép dưới những
khẩu hiệu nhiều kiểu nhiều cỡ "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"
của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nước hồ phẳng lặng. Tháp Rùa hiện lên không rõ nét
trong sương mù lãng đãng. Gió bấc thổi nhẹ. Trời se lạnh. Hà Nội vào đông muộn
hơn mọi năm. Tôi đang thong thả đạp xe từ Hàng Trống qua Hàng Bài thì bỗng nghe
tiếng người gọi tên mình. Mải suy nghĩ tôi không nghe thấy ngay, đến khi nghe
thấy thì đã đạp quá mất một quãng. Người gọi tôi dừng xe, khua tay loạn xạ để
tôi nhận ra anh ta. Thấp béo, đầu sùm sụp cát-két dạ trên cái mặt tròn, trong
bộ đồ bảo hộ lao động nhàu nhã, anh ta hớn hở khi thấy tôi quay mặt về phía
mình. Ai thế nhỉ? Ðành phải tạt vào vỉa hè, dừng xe trước một cửa hàng đóng im
ỉm trong những cánh gỗ nham nhở, trước kia là hiệu chuyên doanh đồ sơn mài. -
Gớm, tìm anh gần chết! - anh chàng phanh xe lại ngay trước mặt tôi, cười tít,
người chúi về phía trước, hai mắt chỉ còn là hai đường chỉ - Anh về ngay cơ
quan, thủ trưởng đang đợi anh. Nhanh lên, để kịp tiếp khách! Em qua nhà, chị
nói anh vừa đi, em phóng theo ngay, nhưng không kịp... Ủy ban liên lạc văn hóa
với nước ngoài, cơ quan cấp trên của báo ảnh "Việt Nam", thỉnh thoảng
lấy tôi qua làm việc cho ủy ban. Công việc tôi được giao là giúp thủ trưởng Ủy
ban tiếp khách. Người ta dùng tôi vào việc này chẳng qua để cho đỡ tốn, bớt
được một phiên dịch. Chả là khách đến phần nhiều từ Liên Xô hoặc các nước Ðông
Âu, đều biết nói tiếng Nga, là thứ tiếng tôi thông thạo. Tôi lại có thể kiêm
hướng dẫn viên du lịch đưa khách đi thăm danh lam thắng cảnh thủ đô hoặc các
địa phương, lại có thể giới thiệu cho họ đôi nét về lịch sử Việt Nam. Công việc
kể ra cũng dễ chịu, nếu như khách toàn là nghệ sĩ hoặc nhà hoạt động văn hóa.
Nhưng đôi khi rơi vào số khách lại là những nhà chính trị được cử sang lãnh đạo
văn nghệ. Những người khách này lập tức phương xa, phần lớn lịch sự và phong
nhã, mang lại cho tôi những giờ phút vui vẻ và hơi hướng xứ lạ, là cái bao giờ
cũng làm cho cuộc sống hàng ngày đơn điệu bớt tẻ nhạt. Ðiều làm tôi ngỡ ngàng
là khoảng nửa năm nay người ta đã không còn dùng tôi vào việc tiếp khách nữa,
không hiểu sao nay lại gọi đến? Kể từ năm 1964, khi cuộc đối đầu Trung Xô trở
thành căng thẳng, thì bầu không khí chính trị ở Việt Nam cũng nóng lên theo.
Khắp nơi người ta la lối về nguy cơ của chủ nghĩa xét lại hiện đại và sự cần
thiết phải chống lại nó. Những cán bộ bướng bỉnh dám phát biểu những lời nói
không vừa tai nhà cầm quyền về bất cứ vấn đề gì, không cứ về đường lối đối nội
hay đối ngoại của Ðảng, đều bị lập tức coi là phần tử xét lại, chí ít thì cũng
là phần tử hữu khuynh không đáng tin cậy. Tôi bị liệt vào số đó. - Anh hôm nay
không bận gì đấy chứ? Một câu hỏi để mà hỏi. Vớ vẩn. Ủy ban đã cho gọi thì tôi
nhất định phải đi rồi, có thoái thác cũng chẳng được. - Anh về trước đi! - tôi
càu nhàu - Tôi qua nhà một lát, thay quần áo cái đã. Tôi đã có chương trình cho
hôm nay. Tôi không thích nó bị phá vỡ. Tôi đã tính đưa vợ con đi chơi. Ðược đi
chơi trong một ngày hiếm hoi không có báo động thật là tuyệt. Chúng tôi sẽ đến
thăm một người bạn cũ lâu không gặp. Có thể chúng tôi sẽ ăn cơm ở đó. Vợ tôi
muốn cho các con đi cùng, nhân thể mua sắm mấy thứ lặt vặt. Tôi ngán ngẩm nhìn
thằng cha phá quấy. Chán quá, Ủy ban không báo trước để tôi có thể sắp xếp công
việc của mình. Mà tay này ở đâu ra nhỉ? Có lẽ ở phòng bảo vệ. Ngoài bộ phận đó
ra, có ai đi làm chủ nhật ? - Dào, chẳng sao đâu. - y nhe hàm răng cải mả, cười
không có tiếng - Ðang đánh nhau, mặc thế nào chả được. Thế này tươm chán. Khách
lại đang đợi. Trên người tôi là cái áo bông xanh, cái quần ka ki, cả hai đều
mới, nhưng nhàu nát. Ðã lâu chúng tôi quên hẳn là quần áo. Không ai trách ai
vận đồ không có nếp. Thời chiến quần áo phẳng phiu quá, nếp là rõ quá, còn bị
phê phán là sang trọng rởm. Nó là cái gì nếu không phải tàn dư của nếp sống tư
sản? Tôi còn lưỡng lự, thì anh chàng đã trườn về phía tôi. - Anh về làm gì?! -
y nắm chặt ghi-đông xe tôi - Xe đến rồi kìa! Một chiếc com-măng-ca Liên Xô
phanh két bên cạnh tôi. Cửa xe bung ra. Hai thanh niên đen nhẻm phóng xuống.
Không nói không rằng chúng kéo tôi lên xe. Tôi nhìn anh chàng vừa gọi tôi. Bộ
mặt nhăn nhở biến mất, thay vào đó là đôi mắt cá và tiếng cười gằn: - Lên xe
ngay! Biết điều đừng chống cự! Giờ thì tôi nhớ ra: thằng cha này thường lẽo đẽo
theo tôi mấy ngày gần đây. Vận đồ bộ đội, cái xà-cột lủng lẳng bên hông, y lấp
ló như một con chuột trong đám đông. Cũng trong thoáng ấy tôi nhìn thấy hơn một
chục xe đạp tản ra từ chỗ chiếc com-măng-ca vừa đỗ. Ðó cũng là những tên tham
gia vụ bắt cóc, nhưng sự việc diễn ra gọn gàng, chúng chưa phải động thủ. Mọi
tình huống đã được lường trước, được sắp xếp trước, y như trong một phim
gangster. Không một người qua đường nào biết ở nơi này vừa xảy ra chuyện gì.
Những chiếc xe đạp vẫn vun vút phóng qua. Trong tiệm đồng hồ, sau tủ kính, tôi
nhìn thấy Sinh cắm cúi làm việc. Anh là người quen của tôi. Nếu anh ngẩng lên
hẳn anh nhìn thấy tôi bị lôi lên xe. Nhưng anh không ngẩng lên. Hình ảnh ghi
lại trong trí nhớ của tôi vào mấy giây cuối cùng là một người đàn bà bồng con
vượt qua mũi xe. Ðứa bé ngủ say trong tấm ni-lông cứng quèo, má hồng lên trong
gió bấc. Theo cái cách kỳ cục như thế, tôi trở thành kẻ tham gia cái gọi là
cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế. "Thế
là cái việc phải đến đã đến!", tôi tự nhủ, ngả người trên tựa ghế xe, lòng
hoàn toàn bình thản. Không hiểu sao, vào đúng cái khoảnh khắc gay cấn nhất, tệ
hại nhất trong đời mình, tôi không nhớ đến cái gì khác mà lại nhớ tới một câu
nói nổi tiếng của Nguyễn Tuân(2): "Nước ta là một pháp trường trắng. Không
có đầu rơi, không có máu chảy, nhưng có người chết!". Bác Nguyễn ơi, bác
sai mất rồi. Pháp trường Việt Nam, kể từ năm 1945, không hề trắng. Ðã có đầu
rơi, đã có máu chảy. Và có nhiều người chết. Bằng nhiều kiểu chết khác nhau.
Bây giờ tôi mới hiểu Nguyễn Tuân thốt lên câu đó trong hoàn cảnh nào. Mấy năm
trước, trong một phút phân thân, nhà văn già bỗng bàng hoàng nhìn thấy trước
mắt mình một quần thể nhân sinh kỳ lạ không hiểu sao lại kết thành hàng ngũ để
sống trong nghi kỵ và thù hằn, trong cuộc chiến không lúc nào ngưng nghỉ. Một
cuộc chiến âm thầm, không tiếng súng, với những xác chết không thương tích,
hoặc sống vật vờ, với bộ não vô dụng, như những dômbi(3). Giờ đây, trong cuộc
chiến mà Nguyễn Tuân nói tới, tôi đã thành con mồi của nó. Tôi đang được đưa đi
đâu đây? Tới pháp trường nào? Ðó là chủ nhật 24 tháng 12 năm 1967. Tôi nhớ từng
chi tiết của ngày hôm đó. Trong hồi tưởng, tôi thấy rõ mồn một, như trước mắt
tôi mọi chuyện được diễn ra một lần nữa. Thời gian đang trôi đột ngột dừng lại.
Như một cadre-stop trong cuốn phim đang chiếu. Nó là ngày bước ngoặt, ngày cắt
đôi, ngày ranh giới của đời người. Về sau tôi mới biết cảm giác đó chẳng phải
của riêng tôi - bất cứ ai từng bị bắt cũng nhớ từng chi tiết vụn vặt nhất của
cái ngày đáng nguyền rủa đó. Tôi ra khỏi nhà lúc chín giờ sáng và mất tăm từ
đó. Cả nhà tôi bổ đi tìm, nhưng không thấy tôi ở bất cứ đâu, ở nhà họ hàng cũng
như ở nhà bè bạn. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, vẫn biền biệt. Thẻ Nhà báo,
giấy chứng minh nhân dân tôi thường mang theo người được tìm thấy trong ngăn
kéo bàn viết. Như vậy, nếu chẳng may xảy ra tai nạn giao thông người ta cũng
chẳng biết nạn nhân là ai. Vợ tôi đạp xe khắp Hà Nội, đập cửa bè bạn báo tin
dữ. Bè bạn tôi nháo nhác. Họ lao tới các bệnh viện, các trạm cấp cứu, xục tìm
trong những nhà xác tanh tưởi với những xác chết đủ mọi dạng, trong mọi tư thế.
Thời chiến, trong nhà xác la liệt cả đống thi thể vô thừa nhận, nhưng không ở
đâu có xác tôi. Mẹ tôi bình tĩnh hơn mọi người. Bà im lặng, suy nghĩ. Không khí
hoảng hốt trong gia đình không lây được sang bà. Ngay từ đêm đầu tiên không
thấy tôi trở về nhà, mẹ tôi đã đoán tôi bị bắt. Hai tháng trước, đêm 18 tháng
10 năm 1967, cha tôi đang nằm đọc báo thì một toán công an hùng hổ xông vào nhà
dựng ông dậy, đọc lệnh bắt khẩn cấp và lệnh khám nhà. Một nhóm đẩy ông lên xe
chở đi, nhóm còn lại chia nhau ra lục lọi các phòng cho tới gần sáng, lấy đi
nhiều giấy tờ, sách báo và ảnh chụp. Ðêm cha tôi bị bắt, cũng là sinh nhật tôi,
tôi đang ở Nam Ðịnh. Thành phố thợ dệt chìm trong bóng tối. Ðèn đường tắt ngấm.
Tôi lang thang trong các phố hiu quạnh, dưới ánh sáng nhợt nhạt của trăng rằm
lọt qua kẽ lá. Cuộc leo thang của không lực Mỹ đã vượt quá Nam Ðịnh lên phía
Bắc. Thành phố chịu bom hàng ngày. Nhà máy sợi sập từng mảng, khu dân cư Hàng
Thao bị san bằng. Dưới chân tôi là gạch vỡ nhà đổ lẫn với đủ mọi thứ tạp nham
của đời thường bị thuốc nổ và mảnh bom phá nát - những cái bát vỡ, manh chiếu
cháy dở, những trang vở học trò phất phơ trong gió thoảng, con búp bê cụt đầu
lăn lóc bên cạnh cái xe nôi tơi tả... Trong những ngày đó tôi không nghĩ tới
cuộc chiến tranh nào ngoài cuộc chiến tranh với nước Mỹ. Thế nhưng một cuộc
chiến tranh khác, hoàn toàn không ngờ tới, đã xảy ra. Vụ bắt bớ những người có
quan điểm bất đồng với Ðảng cầm quyền trong cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai
đường lối bắt đầu từ tháng 7 năm 1967. Nạn nhân đầu tiên của nó là viện trưởng
Viện Triết học Hoàng Minh Chính(4), phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới Phạm Viết,
phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Kỳ Vân và vài người khác. Như một cơn gió
đen, tin Ban tổ chức Trung ương Ðảng phát hiện kịp thời và bóp chết từ trong
trứng một âm mưu phản loạn lan nhanh trong thành phố. Ðến lượt cha tôi và thiếu
tướng Ðặng Kim Giang(5) cũng bị bắt thì dư luận ồn hẳn lên. Chỗ nào người ta
cũng thì thào bàn tán về sự kiện này. Những người cộng sản thuộc thế hệ già
ngán ngẩm: "Thôi thôi, lại như cái đận Cải cách ruộng đất rồi, có khác gì
đâu. Mấy ông lãnh đạo nhìn đâu cũng thấy phản động, bắt bớ lung tung, sau đó
thì lại xin lỗi, lại sửa sai, rõ chán chuyện! Mạng cán bộ thời nay đúng là
không bằng mạng ngóe". Số cán bộ cấp thấp hơn to nhỏ với nhau: đây rõ ràng
là một cuộc sát phạt, chứ các đồng chí lão thành cách mạng thế kia sao có thể
là phản động được? Ðàng sau vụ bắt bớ này chắc chắn là một âm mưu gì đó, vì cái
ghế, vì hưởng thụ thôi; bây giờ các ông kễnh chỉ nghĩ tới cái đó, tới tiêu
chuẩn, chứ xét đi xét lại cái gì đâu? Những người trước nay không ưa chế độ thì
mở cờ trong bụng: "Chúng bắt đầu thịt nhau rồi! Ðã bảo cộng sản là thế mà,
chúng không sống yên được một ngày không có máu. Chỉ tội nghiệp cho mấy người
hiền lành không cùng phe cánh với chúng, tuy họ cũng là cộng sản". Ngày
hôm sau, không thấy tôi trở về, mẹ tôi tức tốc đạp xe tới Hỏa Lò. Trước một bà
mẹ hung dữ vì vừa mất chồng nay lại mất con, các cán bộ công an chối đây đẩy
rằng ở chỗ họ không có ai tên là như thế. Viên giám thị Hỏa Lò lật đật mang cả
sổ tù ra tra trước mặt mẹ tôi cho bà thấy: bác đừng nghĩ quẩn, nếu anh ấy ở đây
thì phải có tên trong sổ, anh ấy phải làm gì phạm pháp thì mới bị bắt chứ.
Không, không có tên anh ấy ở đây đâu, tôi tra hết rồi, xem kỹ lắm rồi, hay là
bác sang bên Bộ mà hỏi.(6) Tại phòng tiếp khách Bộ Nội vụ ở 16 Trần Bình Trọng,
một sĩ quan mặc áo dạ(7) không quân hàm tiếp mẹ tôi. Anh ta làm bộ ngạc nhiên:
- Chết chết, sao bác lại nghĩ thế! Bắt người thì phải có lệnh bắt chứ, kể cả
trong trường hợp bắt khẩn cấp bộ phận trực ở Bộ cũng phải được biết. Không phải
đâu, bác ạ, làm gì có chuyện bắt cóc thời bây giờ. Bác đợi cho một chút, tôi
kiểm tra ngay lập tức xem có chuyện gì xảy ra với anh Hiên mà các quận được
biết không. Trước mặt mẹ tôi anh ta gọi điện hỏi các khu công an Hà Nội. Không
ở đâu có tin về tôi. Tiễn mẹ tôi, viên sĩ quan còn ân cần dặn bà khi nào tôi về
nhà thì xin báo ngay cho Bộ Nội vụ biết. "Phải công nhận hắn ta đóng kịch
cũng khéo. - mẹ tôi kể lại - Nhưng khéo thì khéo, không qua được mặt mẹ. Miệng
hắn leo lẻo, nhưng mặt mày thì lại nhớn nhác, tay chân quýnh quáng. Bụng bảo
dạ: nếu bọn này có tập quán giống bên công giáo chắc hắn sẽ kêu tên Mác mà thề
quá". Như bao lần gia đình tôi gặp bão táp mẹ tôi chứng tỏ bà là cây cột
cái vững chắc gánh toàn bộ sức nặng của ngôi nhà trên vai, quyết không cho nó
sụp đổ. Bà lau nước mắt, chu đáo lo toan trăm thứ việc có tên và không tên cho
con cái như thể không có chuyện gì xảy ra. Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà
nghĩ đến thần tượng của bà rất nhiều. Ðêm đêm bà ngồi một mình trong căn nhà
vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh. Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin, bà
sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ
18x24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ "Thân ái tặng thím Huỳnh"
trước ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như
của gia bảo. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần chạy giặc càn mất hết
đồ đạc nhưng tấm ảnh vẫn còn đó. Nó chỉ bị thu khi công an khám nhà. Nhiều
người khuyên bà hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn(8) và Lê Ðức
Thọ(9) vẫn còn phải nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy
ra. Nếu ông biết, ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này.
Vài năm nay, do sức khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc
đất nước. Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê
Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết.
Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước. Bà nhận
xét: không phải vô cớ mà trong khi khám nhà, công an quan tâm đặc biệt những
tấm ảnh cha tôi chụp chung với ông Hồ, những tư liệu liên quan tới ông Hồ, tất
cả đều bị mang đi. Cha tôi bắt đầu giữ những tư liệu về cách mạng, đặc biệt về
ông Hồ Chí Minh kể từ khi ông nhận sự phân công của Trung ương Ðảng làm bí thư
cho chủ tịch nước. Vào những năm đầu cách mạng chưa có cơ quan chuyên trách lo
bảo quản những tư liệu lịch sử, cho nên cha tôi cho rằng ông có trách nhiệm lưu
trữ những gì trong tầm tay của ông, không để chúng bị mất. Cha tôi giữ được khá
nhiều ảnh - từ những bức chụp ông Hồ tại chiến khu Tân Trào với đội liên quân
Việt Mỹ, những ngày ông Hồ vừa từ chiến khu về Hà Nội, Lễ Tuyên bố Ðộc lập tại
vườn hoa Ba Ðình, chuyến chủ tịch nước sang Pháp năm 1946, nhiều nhất là ảnh
trong An toàn khu của chính phủ kháng chiến. Những ảnh khác cha tôi chụp chung
với các nhà lãnh đạo cũng bị thu hết ... Mấy bức ảnh chân dung họa sĩ Pablo
Picasso, nhà văn Ilia Ehrenburg(10) với lời đề tặng cha tôi tại Paris năm 1946,
chẳng liên quan gì tới vụ án, bọn chúng cũng thu tuốt. Tuy nhiên, đây là chuyện
dễ hiểu - vào thời kỳ này nhân viên công an thường được chọn lựa trong nông dân
ít học. Họ chẳng biết Picsso hoặc Ehrenburg là ai. Dưới mắt họ, ảnh những thằng
Tây mũi lõ tìm được trong nhà một đối tượng của cách mạng, gợi nên sự nghi ngờ
- hẳn đây phải là ảnh của bọn phản động quốc tế. Chính do những suy nghĩ như
vậy mà mẹ tôi không nghe theo lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không
thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí Minh. Bà cũng không nghĩ tới chuyện cầu
cứu Trường Chinh(11). Từ khi mất chức tổng bí thư, Trường Chinh lầm lũi ở ẩn
trong sự đường bệ còn lại, tránh can thiệp vào công việc của Lê Duẩn và Lê Ðức
Thọ. Vả lại, cho dù trong khi còn đương chức Trường Chinh bây giờ không hề
giống Trường Chinh trước tổng khởi nghĩa. Nếu như trong thời kỳ bí mật Trường
Chinh chu đáo với anh em bao nhiêu thì bây giờ ông ta lạnh nhạt với đồng chí
bấy nhiêu. Hệt như đã xảy ra một cuộc đánh tráo vậy. Tôi kể chuyện này làm thí
dụ. Ông Trần Ðình Long(12), người bạn và đồng chí gần gụi của Trường Chinh bị
Quốc dân đảng thủ tiêu năm 1946, để lại vợ và ba đứa con. Hòa bình lập lại, bà
Long từ vùng tản cư Phát Diệm trở về Hà Nội. Năm lần bẩy lượt bà tìm đến Trường
Chinh, nhưng không được ông tiếp. Người kể cho tôi nghe câu chuyện đáng xấu hổ
này là ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ, từng là cơ sở cách mạng. Khi ông Sơ chất vấn
ông Bùi Lâm(13) chuyện xử sự của Trường Chinh thì Bùi Lâm giải thích :
"Con mẹ Long làm như có mình chồng nó hy sinh cho cách mạng. Hy sinh cho
cách mạng có hàng đống, nó làm mình làm mẩy, nằng nặc đòi cách mạng phải lo cho
các con thằng Long, rõ ngu! Anh Thận(14) không tiếp nó là phải". Nóng mắt,
ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ tống ông quan tòa Bùi Lâm ra khỏi cửa : "Vợ đồng
chí gặp khó khăn thì tìm đến đồng chí chứ còn tìm ai? Biết chúng mày là giống
ăn cháo đá bát chắc vợ thằng Long đã chẳng thèm gặp. Cút ngay khỏi nhà tao! Ðồ
đểu! Cả lũ chúng mày đểu! Cút!". Người vợ và ba đứa con của người cộng sản
Trần Ðình Long, bị các đồng chí chối bỏ, lếch thếch dắt nhau xuống Hải Phòng
nhập vào dòng người di cư vào Nam. Hai con trai ông Long sau năm 1975 vượt tiếp
sang Ữc. Chỉ còn lại một người con gái lấy chồng ở lại Sài Gòn. Nhân tiện cũng
xin nói rằng ông Bùi Lâm này, hồi hoạt động bí mật đã ở nhà tôi, là đồng chí
rất thân thiết của ông Long và cha tôi. Với gia đình tôi ông là người trong
nhà, nhưng sau khi cha tôi bị bắt ông cũng không hề lai vãng một lần. Ðó là
tình đồng chí trong những người cộng sản khi đã giành được chính quyền, đã phân
chia ngôi thứ. Những người vẫn còn đến với gia đình tôi trong những ngày sóng
gió đều vì tình bạn, chứ không phải vì tình đồng chí, cho dù họ có là cộng sản.
Bà cũng không nghĩ tới Phạm Văn Ðồng(15). Ông quen cha mẹ tôi từ những năm 40
khi còn thanh niên, đang săn đón người vợ tương lai ở hàng kem Zephyr Bờ Hồ. Mẹ
tôi biết có tới gặp ông cũng vô ích. Phạm Văn Ðồng, theo bà nhận xét, là người
không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự. Ông lúng túng trước bất cứ một
việc cụ thể nào, dù chỉ để đóng một cái đinh giúp hàng xóm, như các bạn ông
thường giễu cợt. Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai
quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải
làm. Những người từng là bạn ông khi gặp chuyện rắc rối với chính quyền buộc
lòng phải cầu cứu ông còn thất vọng hơn. Họ tìm đến ông vì chẳng gì ông cũng là
một trong các nhà lãnh đạo quốc gia, ông mà nói cho một câu thì cũng đỡ. Của
đáng tội, ông cũng không nhẫn tâm xua đuổi họ, ông an ủi, ông hứa hẹn, rồi ông
chẳng làm gì hết. Có khi những gì người ta nhờ ông cũng nhớ, cũng muốn giúp họ
lắm, nhưng để tránh tiếng ông lại đi nhờ người khác, rồi ra cái sự nhờ lại ấy
có được việc hay không ông không quan tâm. Ông đã nói hộ rồi mà, có phải không
nói đâu, khốn nỗi là việc khó giải quyết, các đồng chí từ chối không giúp có
nghĩa là không giúp được. Ông không muốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp
trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Ðồng
chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: "Việc tập thể quyết định,
tôi làm gì được!" Mẹ tôi chỉ còn biết tìm người bạn thân thiết nhất của
cha tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật là ông Nguyễn Lương Bằng(16). Những ngày
ấy ông đi vắng, người ta nói. Mà cũng có thể ông tránh mặt. Từ Nam Ðịnh trở về,
nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt
nhòe: - Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám
Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu
ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy
thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám
nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng
nhất của bố vào mặt chúng nó: "Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt
trái nó có gì?". Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:"
Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi..." Trong
lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt. - Lòng người khôn lường,
con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương
giả. Bàng hoàng trước sự việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra,
không sao tin được rằng chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà vợ
chồng bà hiến dâng cả đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà đến thế. Khi
tôi mất tích, có nhiều người cho rằng tôi trốn. Mẹ tôi không tin. Là mẹ, bà
hiểu con bà. Hơn bất cứ ai, bà tin tôi vô tội. Không những tin tôi vô tội, bà
tin tôi đủ dũng khí để đương đầu với bọn tiếm quyền cách mạng. Chạy trốn, theo
quan niệm của mẹ tôi, không phải là hành động của người quân tử. Bà muốn thấy
chồng con mình đàng hoàng bảo vệ chính nghĩa trước công luận. Bà buồn rượi khi
nghe những đồng chí cũ đến thăm bà, phân tích tình hình đất nước, rồi kết luận
rằng sẽ chẳng bao giờ có một phiên tòa mà bà muốn có. Khoảng một tuần trước khi
tôi bị bắt anh Nguyễn Trọng Luật, vụ trưởng Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa,
nhắn tôi tìm cách cắt đuôi đến gặp anh tại nhà riêng ở ngõ Chân Cầm. Trong số
các vụ trưởng của Bộ tôi quý anh nhất. Bề ngoài giản dị, thậm chí hơi thô kệch,
thoạt trông ai cũng nghĩ anh là một nông dân nòng cốt được Ðảng bồi dưỡng lên
làm lãnh đạo. Nhưng chỉ nói chuyện với anh một lần là người ta biết bên trong
vẻ chân quê làm cho họ lầm anh Luật là người lịch lãm, hiểu nhiều biết rộng.
Tôi quyết định đến gặp anh. Tôi muốn nghe ở anh một lời khuyên. Anh dặn tôi coi
chừng bị mật thám theo. Cắt đuôi là việc chẳng khó gì đối với người trong một
gia đình có nhiều năm hoạt động bí mật. Thời Pháp thuộc, cha mẹ tôi đã dạy tôi
những cách đánh lạc hướng mật thám. Ông bà thường sai tôi mang mật thư đến nơi
này nơi khác trong thành phố. Tôi là trẻ con, mật thám không để ý. Anh Luật có
hồi cùng hoạt động với cha tôi tại vùng ven sông Hồng. Ðối với cha tôi anh kính
trọng, coi như người anh tinh thần. Vì tình cảm với cha tôi mà anh quý tôi. Gặp
tôi, anh vồ lấy, hối hả: - Tình hình gay lắm, chú phải trốn ngay lập tức, đừng
để bị bắt! Tôi nghĩ mình sẽ làm thế này ... Theo kế hoạch của anh Luật, tôi sẽ
chọn ngày giờ thuận lợi rồi báo cho anh biết. Tốt nhất, tôi báo qua bác sĩ
Phan, em nuôi anh, cũng là bạn thân của tôi. Tôi sẽ tới Chùa Thầy, nơi sơ tán
của Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa. Từ đây anh Luật sẽ dùng xe cơ quan đưa
tôi về Hưng Yên, nơi trước Cách mạng Tháng Tám có thời kỳ anh làm bí thư tỉnh
ủy. Con trai một cơ sở cách mạng nay là trưởng công an một huyện là em kết
nghĩa của anh đã nhận bảo vệ tôi. Anh này sẽ lo việc thay tên đổi họ cho tôi
rồi đưa tôi tới một vùng hẻo lánh. Tôi sẽ nương náu ở đó chờ cho tình hình sáng
sủa sẽ trở về. Tôi im lặng. - Chú nghe anh đi, anh nghĩ kỹ lắm rồi, phải trốn
thôi. - anh ra sức thuyết phục tôi - Thử nghĩ mà xem, nếu trong Cải cách ruộng
đất tất tật những người bị xử trí oan đều trốn thoát cả thì sai lầm của Ðảng
đâu đến nỗi trầm trọng đến thế. Ðảng làm sao hiểu được ta bằng chính ta? Biết
mình vô tội bị Ðảng ngờ oan mà lại vẫn xuôi tay mặc cho Ðảng bắt, mặc cho Ðảng
giết, không phải là tuân thủ kỷ luật cách mạng đâu, không phải trung thành với
Ðảng đâu, mà là làm hại Ðảng đấy, chú hiểu không? Tôi hiểu Ðảng lần này lại
đang sa vào sai lầm nên tôi mới khuyên chú trốn. Thấy tôi vẫn không hưởng ứng,
anh bần thần một lát rồi tiếp: - Tùy chú thôi, nghe anh thì nghe, không nghe
thì thôi, nhưng chú phải nhớ: tuy hiện nay Ðảng bị thằng Duẩn, thằng Thọ lũng
đoạn, nhưng trước sau Ðảng vẫn là Ðảng của ta, chẳng chóng thì chầy Ðảng sẽ
thanh lọc bọn chúng. Tôi muốn cười mà không dám cười. Ngẫm ra cách lập luận của
anh có cái lý của nó, cái lý chỉ tồn tại được trong lòng người đảng viên trung
thành, lúc nào cũng lo lắng cho sức chiến đấu và uy tín của Ðảng. Bằng nhiều
dẫn chứng rút ra từ những huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh, anh Luật khẳng
định chuyện này ông Hồ không biết, hoặc giả ông bị désorienté(17) bởi Lê Ðức
Thọ mà đã đồng ý cho Thọ bắt các đồng chí trung kiên, chứ ông quyết không phải
người xấu. - Lê Duẩn là thằng nhiều tham vọng, điều này ai cũng biết, nhưng anh
nghĩ: tự hắn, hắn không muốn gây gổ trong lúc này. Gạt ra bên ngoài các thứ chủ
nghĩa, xét cho cùng chỉ là cái cớ, thì vụ này Thọ khởi xướng là chắc, không
phải Duẩn. Nhưng Thọ muốn thì Duẩn cũng không ngăn, mọi việc Thọ làm từ trước
tới nay đều vì lợi ích của cả hai. Thằng này làm việc đó để làm gì, nhằm mục
đích gì?Anh ngờ bên trong vụ này có điều uẩn khúc, liên quan tới thời kỳ Thọ ở
Sơn La...(18) Tối hôm đó tôi chỉ ngồi nghe anh nói, không tranh luận. Ðầu tôi
trống rỗng. Tôi mệt mỏi. Trong anh vẫn có một niềm tin mỏng manh ở Ðảng. Trong
tôi, niềm tin ấy không còn. Nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ với anh Nguyễn Trọng
Luật, mẹ tôi hỏi: - í con thế nào? - Con cho rằng đi trốn là cho người ta cái
cớ để nói mình có tội, mình sợ nên phải trốn tránh... - Còn con? - mẹ tôi hỏi
vợ tôi. - Con cũng nghĩ không nên trốn. - vợ tôi nói - Mình làm gì mà phải
trốn? - Ðúng vậy. Cây ngay không sợ chết đứng. Tôi mỉm cười. Mẹ tôi quen miệng
nói thế, chứ ai chẳng biết chính cây ngay mới hay chết đứng, chỉ có dây leo là
không bao giờ chết đứng mà thôi. Hồi ấy tôi còn ngu ngốc lắm. Thế hệ cha tôi,
rồi thế hệ tôi mang trong mình khái niệm Ðảng của những ngày cách mạng còn
trứng nước: Ðảng là tổ chức của những chiến hữu cùng chung một mục đích thiêng
liêng, cao cả. Không hiếm những thí dụ về tình đồng chí đùm bọc thương yêu
nhau, thậm chí hy sinh tính mạng để bảo vệ nhau trong những ngày xa xưa ấy. Một
khái niệm, tiếc thay, đã lỗi thời. Sống trong một gia đình mà cha mẹ đều hoạt
động cách mạng, tôi nhập vào dòng chảy của công cuộc chiến đấu giải phóng dân
tộc, cũng là dòng chảy của thời đại tôi, một cách tự nhiên, như muốn sống thì
phải thở khí trời. Cũng tự nhiên như vậy, tôi đi theo những người dẫn đầu cuộc
cách mạng như con vật trong đàn đi theo con đầu đàn của nó. Tôi chỉ bắt đầu ngờ
vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc Giảm tô giảm tức được phát
động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953. Ðêm đêm chúng tôi thao thức nghe trong mịt
mùng những thôn xóm tối tăm tiếng loa âm u hờ gọi nông dân vùng lên đánh đổ kẻ
thù giai cấp. Từ tinh mơ hàng đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn
tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về
những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ
cường hào gian ác. Ðiều làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ là những cán bộ kháng
chiến bị thẳng cánh gạt ra ngoài lề cuộc đấu tranh. Mà tôi biết rõ họ lắm. Mới
hôm trước còn là những người lãnh đạo đầy uy tín ở địa phương, bất thình lình
họ không còn được tin cậy nữa, thậm chí bị nghi ngờ, bị tước bỏ mọi quyền hành.
Tại sao lại như thế? Tôi hỏi một cán bộ trong đội giảm tô giảm tức và được anh
ta giải thích: phải đề cao cảnh giác trước kẻ thù giai cấp. Chúng biết chúng
không thể ra mặt chống phá cách mạng nên tìm đủ mọi cách chui vào trong các tổ
chức của ta, nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Hiện nay không thể biết trong các cơ
quan ai là địch ai là ta, nếu không kiên quyết gạt những người cũ ra thì nông
dân được Ðảng phát động vẫn bị kẻ thù giấu mặt khống chế, họ sẽ không dám vùng
lên giành chính quyền. Ðảng dạy ta chỉ có thể tin những nông dân bần cùng, bị
địa chủ bóc lột đến xương tủy, chỉ có họ mới là chỗ dựa vững chắc và lâu dài
của Ðảng. Cứ như thể sự nghèo khổ, bản thân nó, đã là một phẩm chất cách mạng.
Ðấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước,
được Ðảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá
trong niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu
nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu,
hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà
với chính đồng bào mình. Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia
đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi
đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa
lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hay hội phó Hội Liên hiệp
Phụ nữ Thái Bình. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng
xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy
anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà
xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: "Ði cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà
xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây!". Ở một xã khác , một
người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ
ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói
thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ
xuống. Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị
vu là đảng viên Quốc dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh:
"Oan cho tôi lắm, Cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Ðảng. Tôi không
phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm!". Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón
tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con
địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái
rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói. Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây
vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy
theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng,
rùng mình - những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của
giống người. Rồi đây, với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với
những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa
cộng sản hứa hẹn? Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức
tỉnh. Niềm tin ở Ðảng ăn sâu trong lòng mỗi người đến nỗi vừa buông miệng
khuyên tôi trốn, lúc chia tay anh Luật lại vớt vát: "Nói thì nói vậy thôi,
chứ anh không thể nào tin được Ðảng lại có thể nhẫn tâm bắt một lúc cả hai cha
con một gia đình cách mạng như gia đình chú". Mẹ tôi không muốn tôi trốn,
nhưng bà lo. Tôi bị bắt thì trong nhà không còn người đàn ông nào. Hai em trai
tôi đều còn nhỏ, lại đang có chiến tranh. Bà cảm thấy những gì xảy ra với người
khác nay đang xảy ra với mình Mẹ tôi nhớ đến bà bạn có chồng bị mất tích trong
những ngày Cách mạng Tháng Tám. Người đàn bà khốn khổ lang thang đi hết đền này
phủ nọ cầu xin Trời Phật cho chồng bà trở về với bà. Bà gần như mất trí. Khi
còn trẻ ông Vinh, chồng bà, gia nhập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội. Bị lộ,
ông chạy sang Pháp, vào Ðảng cộng sản Pháp. Từ Pháp ông sang Nga. Tốt nghiệp
Trường đại học phương Ðông(19), ông hăm hở trở về Tổ quốc tiếp tục cuộc chiến
đấu. Vừa bước xuống cảng Hải Phòng ông sa vào tay mật thám. Xa nước quá lâu,
ông trở về không quen biết ai, chưa kịp liên lạc với ai trong các tổ chức cách
mạng. Mật thám tra tấn ông, ông chẳng có gì để khai. Tra mãi không được gì,
chính quyền thuộc địa thả ông, thậm chí để cột chân ông lại, còn chiếu cố cho
ông được tòng sự tại Phủ Thống sứ. Trong chuyện này tất nhiên không thể thiếu
sự chạy chọt của bà vợ con nhà khá giả. Làm việc trong Phủ Thống sứ, ông Vinh
vẫn không ngừng tìm cách liên lạc với những người cộng sản. Không ai dám giao
thiệp với ông, kể cả cha tôi. Với ông, cha tôi đóng vai người đã nhụt chí, nay
trở về với vợ con làm ăn chân chỉ. Người Pháp hoàn toàn không nghi ngờ gì ông,
một công chức mẫn cán. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Lòng yêu nước trong ông không
bao giờ tắt. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông hăng hái xuống đường tham gia cướp
chính quyền. Thế rồi trong những ngày sôi nổi ấy, như một hòn đá rơi xuống
nước, ông biệt tích. Không ai biết ông biến đi đâu nếu như một hôm ông Trường
Chinh không nói với mẹ tôi: "Chị Huỳnh ạ, chị liệu cách an ủi chị Vinh kẻo
chị ấy cứ xem bói, xin quẻ mãi, tội nghiệp! Nói riêng để chị biết: ta thịt anh
ấy rồi!". Mẹ tôi lạnh toát người: "Sao các anh nhẫn tâm thế, tàn ác
thế? - bà kêu lên - Anh thừa biết anh Vinh tuy không kiên định cách mạng thật,
nhưng anh ấy có phản bội xưng khai gì đâu, có gây hại gì cho đoàn thể(20) đâu
mà các anh nỡ giết anh ấy?" Trường Chinh phân trần rằng ông không chủ
trương giết ông Vinh, người ta giết rồi ông mới biết. Lúc đó ông có muốn can
thiệp thì đã muộn. Về cái chết của ông Vinh mẹ tôi không buộc tội Trường Chinh.
Nhưng bà không tha thứ cho ông tội để cấp dưới lộng hành, coi thường sinh mạng
con người. Thủ tiêu đối thủ và những người tình nghi phản bội là chuyện bình
thường trong Cách mạng Tháng Tám. Nhà văn Lan Khai(21) bị bỏ rọ trôi sông cũng
chỉ vì ông từng làm thư ký cho một hãng buôn Nhật. Cha tôi quen Lan Khai từ
những ngày ở Tuyên Quang, ông rất đau lòng về chuyện này. Bà ngoại tôi thường
gặp các đồng chí của cha mẹ tôi tại nhà tôi khi bà đến chơi với các cháu. Không
hiểu vì lẽ gì một số người trong bọn họ không gây được cảm tình nơi bà. Bà
ngoại tôi nói thẳng cho mẹ tôi biết bà không thích họ. Ðến nỗi mẹ tôi giận bà
vì sự không thích ấy. Hóa ra bà ngoại tôi có lý khi nhận xét người này người
kia trong bọn họ không phải là những người tử tế. Bằng sự mẫn cảm của phụ nữ,
bà thấy trước được cách sống không nhân nghĩa, không có trước có sau, không có
tình người, như cách ta thường nói bây giờ, của những người về sau trở thành những
nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt(22). Trường Chinh đã không làm
một hành động nhỏ nào để cứu cha tôi - người bạn, người đồng chí gần gụi của
ông ta trong thời kỳ bí mật. Ông ta cũng không đến thăm mẹ tôi lấy một lần
trong những năm cha con tôi ở tù. Cha tôi được thả rồi ông cũng không đến. Một
số người biết tình bạn của hai ông cho rằng Trường Chinh không đến vì sợ Lê
Duẩn và Lê Ðức Thọ, nhưng tôi cho rằng trong thái độ này Trường Chinh trung
thực với con người ông ta - ông ta thực sự nghĩ rằng cha tôi đã đứng về phía
những người chống Ðảng. Trong sự đồng nhất cá nhân mình với Ðảng từ khi trở
thành người lãnh đạo, Trường Chinh là người trước sau nơi một. Hoàng Quốc Việt
còn tệ hơn - ông ta trở thành nhân vật tích cực trong Ban chuyên án của vụ trấn
phản(23). Mà chính vì hai ông cha tôi đã bị chính quyền thuộc địa bắt sau khi
đưa họ đi trốn vào năm 1939. Người như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam
bình thường, không thể được coi là tử tế. Vợ tôi kể sau khi tôi mất tích, đêm
đêm mẹ tôi ngồi lặng hàng giờ, mái tóc bạc xổ xuống vai. Bà như hóa đá. Linh
tính người mẹ báo cho bà biết tôi đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ kiện bà tin
chắc tôi đã bị bắt một cách ám muội. - Trong những ngày ấy mẹ lo nhất con bị
thủ tiêu. Chúng nó có thể làm chuyện đó lắm. Bà nghẹn ngào nói, ôm chặt đứa con
trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi nó cũng đã vượt qua được cái chết để trở về với
bà, chín năm sau đó. (1) L. B. Johnson (1908-1973) cho rằng Mỹ có thể
chiến thắng trong một thời gian ngắn. Bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh còn giới
hạn trong phạm vi miền Nam Việt Nam bằng cách ném bom miền Bắc Việt Nam vào
cuối năm 1965. Hậu quả của nhận định này là ông Johnson tạo ra những khó khăn
cho chính mình trong cương vị tổng thống Hoa kỳ, để rồi phải rút khỏi chính
trường vào tháng 3.1968. (2) Nhà văn nổi tiếng với những tiểu thuyết Vang Bóng
Một Thời, Tóc Chị Hoài, Quê Hương, Chùa Ðàn... (3) Dômbi (Zômbi), chỉ những xác
chết được các thầy pháp châu Phi làm cho sống lại, nhưng không có trí khôn,
không nhớ gì về cuộc sống trước kia, chỉ biết thực hiện các mệnh lệnh của chủ,
bị sử dụng như những con vật trong các công việc đồng áng. (4) Hoàng Minh Chính
(sinh năm 1920, quê Nam Ðịnh, tên thật Trần Ngọc Nghiêm, nguyên Tổng thư ký
Ðảng dân chủ Việt Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam,
viện trưởng Viện Triết học) được coi như người đứng đầu cái gọi là "nhóm
xét lại chống Ðảng". Phạm Viết (1929 - 1971), nguyên sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam, thương binh, nhà báo, phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới. (5) Cùng
bị bắt với cha tôi và tướng Ðặng Kim Giang trong đợt này có các anh Trần Minh
Việt, Phạm Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Ðinh Chân, Nguyễn Văn Thẩm. Trần Minh
Việt - phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà
Nội, Phạm Kỳ Vân - phó tổng biên tập, Nguyễn Kiến Giang - biên tập viên tạp chí
Học Tập, Ðinh Chân - biên tập viên báo Quân đội Nhân dân, Nguyễn Văn Thẩm - bí
thư của thứ trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm... (6) Giám thị trại Hỏa Lò không thấy
tên tôi trong danh sách tù nhân là phải. Sau chừng hai tháng ở Hỏa Lò tôi mới
biết tên tôi đã bị thay đổi. Cán bộ quản giáo chỉ biết tôi dưới một tên khác.
(7) Áo dạ, theo quy định, dành cho cấp tá. (8) Lê Duẩn (1908-1986), người Quảng
Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần (1931-1936, 1940-1945),
từng làm bí thư Trung ương cục miền Nam trong kháng chiến chống Pháp, từ 1956
làm bí thư Trung ương Ðảng, bí thư thứ nhất (1960-1976), rồi tổng bí thư Ðảng
(1976-1986). (9) Lê Ðức Thọ (1911-1990) tham gia cách mạng vào đầu thập niên
30. Tù Sơn La (1939-1944). Trong thời gian được nói tới trong cuốn này là ủy
viên Bộ Chính trị, ủy viên thường trực Ban bí thư, trưởng Ban tổ chức Trung
ương Ðảng. Ðược Trung ương Ðảng cử vào Nam năm 1946, với tư cách ủy viên Ban Thường
vụ Trung ương Ðảng, cấp bậc Ðảng này có lẽ do một Hội nghị Trung ương cử ra
hoặc do Trường Chinh chỉ định. (10) Pablo Picasso, danh họa của thế kỷ XX, gốc
Tây-ban-nha (1881-1973); Ilya Erenburg, nhà văn, nhà báo Liên Xô (1891-1967).
(11) Trường Chinh (1907-1988), nguyên quán xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam
Ðịnh, hoạt động cách mạng từ 1927, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930,
quyền tổng bí thư Ðảng một thời gian trước Cách mạng Tháng Tám, ủy viên Bộ
Chính trị và Tổng bí thư Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951-1956. (12) Trần
Ðình Long (1905-1946), đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, được đào tạo
tại trường Ðại học Ðông phương Moskva. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Long
được Ðảng dự kiến giữ chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nhưng sau chức này được
nhường cho ông Nguyễn Tường Tam để thể hiện sự đoàn kết rộng rãi trong thành
phần chính phủ cách mạng lâm thời. Ông bị người của Quốc dân đảng đột nhập vào
nhà riêng của ông bà ở phố Chợ Ðồng Xuân bắt mang đi thủ tiêu, không rõ xác
chôn ở đâu. (13) Một nhà cách mạng lâu năm, xuất thân lính thợ, đảng viên Ðảng
cộng sản Pháp, sau năm 1954 làm phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(14) Bí danh của Trường Chinh. (15) Phạm Văn Ðồng (sinh 1906 tại Quảng Ngãi)
hoạt động cách mạng từ cuối thập niên 20. Năm 1929 bị thực dân Pháp bắt giam 7
năm. Ðược bầu vào Bộ Chính trị Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951, làm bộ
trưởng bộ Ngoại giao rồi thủ tướng chính phủ từ năm 1954 tới năm 1987 (kiêm
nhiệm bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ 1954-1961). (16) Nguyễn Lương Bằng
(1904-1979), hoạt động cách mạng trước 1930, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương
từ 1930, từ 1945 là ủy viên Trung ương Ðảng, đại sứ Việt Nam tại Liên Xô
1952-1957, 1969 làm phó chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau đó. (17) Bị đánh lạc hướng. (18) Anh Luật có
lý trong suy luận: trong vụ trấn áp "nhóm xét lại chống Ðảng" chỉ có
những người tù cũ ở Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ bị bắt. Có lần tôi nghe tướng
Ðặng Kim Giang nói về chuyện công sứ Sơn La Coussot có mua chuộc được vài tên
phản bội làm chỉ điểm, do đó có những kế hoạch của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.
(19) Trường do Quốc tế cộng sản (Comintern) mở tại Moskva để đào tạo cán bộ
cách mạng vô sản. (20) Một cách gọi Ðảng cộng sản trong thời kỳ tiền khởi
nghĩa. (21) Nhà văn nổi tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng. (22)
Tên thật là Hạ Bá Cang, một nhà cách mạng có tiếng trước Cách mạng Tháng Tám,
sau này phụ trách công tác công đoàn trong một thời gian dài. (23) Trấn áp phản
cách mạng.
No comments:
Post a Comment