TRƯƠNG VĂN ẤM |
Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không
tặc máy bay quân sự C130 vô tiền khoáng hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một
nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt
biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không
tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:
“Không có động cơ nào hết bởi vì năm
1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con
đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì
tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.
Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong
ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong
Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi
của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không
tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.
Tuy cuộc sống của ông và gia
đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi
tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi
cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu
tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh
trong cuộc đời ông:
“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng
9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông
thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có
lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà
Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến
lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy
bay C130 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục
Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động
máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi
thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người
không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng
đồng hồ xong”.
Cậu
tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. “Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc
đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết”.
Nhiệm
vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết
trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản lần lần được
hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị
anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng
theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp để
ông làm tròn nhiệm vụ thứ hai được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời
gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người
dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.
Do
thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định
về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều
đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn
gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:
“Cậu
tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc
đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết”.
Rồi
buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi
đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia
sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:
“Ông
nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu
mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi
ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn
thôi”.
Kế
hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C130 đang được
ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự
trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn
trong 3 ngày.
“Nếu
đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi
nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến
phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và
Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15
phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30
phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.
Kế
hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm
trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm
và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở
thành không tặc:
“Khoảng
11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng
5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C119 đi ngang ‘taxi
way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng
đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.
Quảng
Trị: Tiếp nhận và trưng bày chiếc máy bay C130A của quân đội Mỹ
Theo
kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào
chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc
xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này
không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị
tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh
Nha không làm theo kế hoạch:
“Ông
Nha nóng ruột, chun hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn
cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với
tôi nói chuyện là phiền phức”.
Sau
đó không lâu, mọi việc suôn sẻ:
“Tôi
sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn
không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.
Trong
giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì
1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi
công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người
có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ, và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ
chiều ngày 24/11/1979.
“Vừa
lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài Kiểm soát là
tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi
đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì
bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu
là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy
đó”.
Dường
như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN.
Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho
nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:
“La
bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học
địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa
nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ
4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore.
Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở
lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore
phía trước rồi”.
Bay
khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng
ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó.
-
Ông Trương Văn Ẩm
Cất
cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:
“Chúng
tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có
ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế.
Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3
lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ.
Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.
Và
chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu
chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng
hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines.
Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ
quán Hoa Kỳ ở Singapore.
Nhóm
13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh
sát của đảo quốc Sư Tử. Hai ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:
“Trong
ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là
CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói
chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng: mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch
Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh
nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp
của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp
các anh”.
Kết
quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ.
Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này?”,
ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều
mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng
với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel
chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi
người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:
“Nó
khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng
được”.
Như
hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không
tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm
diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương
Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.
Cuộc
đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến
Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về
cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội
phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên
khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.
Riêng
người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoáng hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định
tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi
về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay
vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát,
lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có
tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng
sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay
chăng?”.
Hòa
Ái RFA.
No comments:
Post a Comment