Sunday, December 20, 2015

HÀ NỘI: “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG” GHI CÔNG NIXON, KHẮC TỘI GIẶC HỒ


Nguyễn Việt Nữ - “Điện Biên Phủ Trên Không” là trận ứng chiến 12 ngày dội bom Bắc Việt (18-12 đến 30-12-1972)  của Hoa Kỳ mà báo chí thân Cộng còn gọi là “Christmas carpet bombing” (Mưa bom trải thảm đêm Giáng Sinh) để tố cáo Mỹ tàn ác, muốn biến Bắc Việt trở lại thời đồ đá (stone-age).
Xin phép nhắc sơ rằng Điện Biên Phủ là tên một làng nhỏ ở biên giới Việt—Lào. Nhưng địa danh ấy đã nổi tiếng khắp thế giới vì hai trận chiến do Cộng Sản đặt tên:
1.                “Điện Biên Phủ mặt đất” đã kết thúc chiến tranh chống Pháp trên bàn hội nghị tại Geneve, Thụy sĩ năm 1954. Trận Điện Biên Phủ do Hồ Chí Minh và Tướng Võ Nguyên Giáp đích thân chủ động.
2.                Còn “Điện Biên Phủ Trên không” (ĐBPTK), một  trận mà họ gọi là “Mưa bom Giáng Sinh” (The Christmas Bombing) gồm 12 ngày cuối tháng 12 năm 1972  để kết thúc chiến tranh chống Mỹ chưa đầy một tháng sau, bằng hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Tập hồi ký “Điện Biên Phủ Trên Không” (ĐBPTK) do Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân Hà Nội ấn bản năm 2007; dài 244 trang, gồm bài viết của  5 viên Tướng Cộng Sản chỉ huy trận chiến, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, là 5 nhân chứng vô tình cho ta  thấy Richard Nixon có công kéo dài mạng sống đồng minh VNCH..  Còn  Hồ Chí Minh mang trọng tội nhập cảng chủ thuyết ngoại lai để phục vụ Sô Viết và Trung Cộng Mao Trạch Đông.


Về “Điện Biên Phủ mặt đất” để có hội nghị Geneve,  cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết quyển “Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử” (ĐHLS)  rằng “Hội nghị Geneve đã khai mạc nhưng còn bàn về Triều Tiên. Đại diện của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chưa có mặt. Hy vọng cuối cùng của Pháp lúc nầy là đạt được một thỏa thuận ngừng bắn tại Điện Biên Phủ” (tr. 357, 358) Rồi chừng hai mươi trang diễn tả những trận đánh biển người đầy xác người hôi thúi, có cố vấn Tàu Cộng kề bên, Giáp viết: “Sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử đã thu được toàn thắng…  Anh  Phạm Văn Đồng đã có mặt tại Geneve, sẽ có một tư thế mới để bước vào hội nghị. (ĐHLS tr.377, 358).
Hãy nghe Võ Nguyên Giáp diển tả đúng tâm trạng lịch sử đó: “Tin Điện Biên Phủ thất thủ đến thủ đô Pháp vào trưa ngày 7 tháng 5 năm 1954, thủ tướng Lanien (Joseph Laniel) xuất hiện trước Quốc Hội Pháp với bộ đồ đen, giọng nói nghẹn ngào… Trừ các nghị viên Cộng Sản và một số nghị sĩ cấp tiến, toàn bộ cử tọa đều đứng dậy. Hội trường lặng phắc bật lên tiếng nức nở của một nữ nghị sĩ. …Vô tuyến truyền hình thay thế toàn bộ các tiết mục buổi tối bằng những dĩa nhạc cổ điển, những khúc tưởng niệm. Một không khí tang tóc bao trùm thủ đô nước Pháp. ..Ngày 8 tháng 5 năm 1954, Hội nghị Giơnevơ chuyển sang bàn về chiến tranh Đông Dương.” (ĐHLS tr. 387, 388)
Tóm lại, chiến thắng  Điện Biên Phủ quả thật chỉ để chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17 bằng hiệp định Geneve ký ngày 21 tháng 7 năm 1954, vì thủ tướng Joseph Laniel từ chức.
Nghị viên Pierre Mendès-France  có lập trường chủ hòa, muốn đặt ưu tiên vào sự phát triển kinh tế hơn là quân sự như chiến tranh ở Đông Dương. Ông yêu cầu Quốc hội chọn lựa giữa hai giải pháp: rút quân ra khỏi Đông Dương hay gửi quân đi đánh nữa? Kết quả Mendès-France được tới 471 phiếu thuận trên 14 phiếu chống việc chấm dứt chiến tranh.
 Nên Tổng Thống Pháp là René Coty chỉ định Mendès thành lập chính phủ mới. Mendès tuyên bố sẽ đạt được một hiệp định ngưng chiến ở Đông Dương trong vòng một tháng, tức ngày 20 tháng 7 mà chưa thực hiện được, ông sẽ xin từ chức.
Võ Nguyên Giáp còn nhấn mạnh thời gian: “…trong vòng một tháng, tức ngày 20 tháng 7 mà chưa thực hiện được, ông sẽ xin từ chức.” (ĐHLS tr. 401)
Nhắc lại để thấy là những kỳ bầu cử tại các nước Tây phương nhất là  Anh, Pháp, Mỹ.. v.v.. đều được khối Cộng Sản chú ý theo dõi kỷ lưởng để hoạch định chiến thuật nhuộm đỏ từ từ của họ.
Còn trong “Điện Biên Phủ trên không”,  Võ Nguyên Giáp còn xác nhận  đã nghe đài BBC , VOA v.v. và tham chiếu quyển “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng (Phụ trách Kinh Tế của Tổng thống Thiệu) nữa. Không hiểu Cộng sản ăn cắp  in ra hay có xin phép tác giả mà sửa tựa là “Từ tòa Bạch ốc đến dinh Độc Lập” NXb Trẻ TP HCM, 1990. (ĐBPTK, tr. 34)
Cả hai trận Điện Biên Phủ từ  địa chiến đến  không chiến đều tốn rất nhiều triệu xương máu thanh niên Việt Nam do Hồ Chí Minh chủ động nhân danh độc lập, hòa bình theo chủ nghĩa Mác-Lê.
 Nay nếu Hiến Pháp bỏ Mác-Lê, còn Tư tưởng Hồ Chí Minh thì sao?
Một sự kiện 'vô tiền khoáng hậu' xảy ra là bức thư ngỏ đề ngày 9/12/2015 gởi đúng vào lúc Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN họp đại hội thứ XII ngày 14/12/2015  để  dàn xếp người điều hành đất nước nhiệm kỳ 2016—2021 với cáo buộc thẳng thừng:  "Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin …..”
Chưa bao giờ ta nghe được những lời mạnh mẽ như vậy tại Hà Nội,  nơi cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam từng  hội họp để bày trò “Đảng cử dân bầu” suốt trên nửa thế kỷ nay như vậy.
Ngoài việc từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin,  thư ngỏ  còn yêu cầu đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa);  và thay đổi triệt để vì 'tương lai dân tộc' như:
 “….trong vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam bám giữ thể chế độc tài toàn trị với bộ máy cầm quyền hết sức nặng nề, thiên về dùng bạo lực và dối trá (…..)
"Đường lối sai lầm theo ý thức hệ cùng với bộ máy cầm quyền nhiều khuyết tật cũng không dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để có đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc.
"Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin (…)
"Vậy mà các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhấn mạnh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa, đặt độc lập dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường phải gắn với chủ nghĩa xã hội." (Hết trích)
Những nhân vật ký tên trong thư ngỏ ngày 9/12 gồm 127 người là nhân sỹ, trí thức, cựu lãnh đạo trung cao cấp và các nhà hoạt động xã hội hàng đầu ở Việt Nam như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Chu Hảo, Đại sứ Nguyễn Trung, Giáo sư Tương Lai, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ông Nguyễn Mạnh Can, nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng, bác sỹ Huỳnh Tấn Mẫm v.v...,
(Cũng cần nhắc thêm một trùng hợp ly kỳ không nên quên là ngày 14/12/15  lúc Đảng CSVN họp đại hội thứ XII cũng là ngày nhạc sĩ trẻ anh hùng Việt Khang mãn án tù 4 năm vì 2 bản nhạc “Việt Nam tôi đâu?” và “Anh là Ai?” được về sum họp với gia đình ở tỉnh Mỹ Tho. Hai bản nhạc như bản án kết  tội phản quốc của HCM và phản dân của Công An CSVN)
Nhưng bức thư ngỏ 'vô tiền khoáng hậu'  nầy vẫn không dám nhắc chữ nào đến tên trùm “Sát thủ” nhập cảng chủ nghĩa Mác-Lê là Hồ Chí Minh cả.
Vậy đọc  “Điện Biên Phủ Trên Không” sẽ bổ túc thiếu sót quan trọng nầy.
Tóm tắt sơ lược như sau: Bài đầu tiên là của Tướng Giáp gồm 25 trang (Từ 9--34) rất ngắn gọn, nên cần giải thích thêm để thế hệ trẻ nhớ rõ.
                    Trận “Điện Biên Phủ Trên Không”
                                                     Đại tướng Võ Nguyên Giáp
“Cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ở Pari-thủ đô nước Pháp, đang ở bước gay go. Sau những tháng ráo riết vận động bầu cử với trò “ngoại giao con thoi” và lời hứa mang lại hòa bình, Níchxơn ở lại Nhà Trắng nhiệm kỳ hai.” (ĐBPTK, tr.9)
Hiến Pháp Hoa Kỳ cho phép mỗi ứng cử viên Tổng thống được tranh cử hai nhiệm kỳ, mỗi kỳ 4 năm. Tổng cộng tối đa được làm chủ tòa Bạch Ốc là 8 năm, nếu tái đắc cử nhiệm kỳ II.
Giáp viết Nixon “ở lại Nhà Trắng nhiệm kỳ hai” tức thắng cử năm 1972 (1972—1976) với đối thủ là Thượng nghị sĩ  George McGovern. Còn ứng cử nhiệm kỳ I là 1968-1972.
Nhắc lại lịch sử của Hoa Kỳ về chiến tranh Việt Nam
Trước khi Richard Nixon (Cộng Hòa) đắc cử  năm 1968 thì tòa Bạch Ốc thuộc Tổng thống Lyndon B. Johnson làm chủ. Việc ném bom Bắc Việt đã diễn ra từ thời Tổng thống tiền nhiệm Lyndon B. Johnson (Dân Chủ)
 Tóm tắt là vì Bắc Việt tấn công tuần dương hạm USS Maddox ngày 2 tháng 8 năm 1964 ở vịnh Bắc Bộ. Có bằng chứng là miễn thủy lôi của Bắc Việt trên tuần dương hạm mà Thượng Viện Mỹ chấp thuận tới 98 phiếu (Chỉ có 2 phiếu chống), còn Hạ viện không có phiếu chống nào (416-0).
Vậy là lưỡng viện Quốc Hội đã như đa số tuyệt đối cho phép Tổng Thống Lyndon B. Johnson dùng biện pháp quân sự nào cần thiết để đối phó Bắc Việt bằng Nghị Quyết Vinh Bắc Bộ (Gulf of Tonkin Resolution).
Do đó từ năm 1965 Tổng Thống (Dân Chủ) Lyndon Johnson đã dội bom Bắc Việt và đã ngưng để CS Bắc Việt ngồi vào bàn hội nghị ở Paris.
Ghi chú: Chính Võ Nguyên Giáp cũng nhìn nhận có miễn thủy lôi tấn công tàu USS Maddox ngày 2 tháng 8 năm 1964 với Bộ trưởng Quốc Phòng Robert McNamara năm 1995 trong quyển “Nhìn nhận sai lầm….”)
Lyndon Johnson đã ngưng dội bom Bắc Việt để Hồ Chí Minh—lúc ấy còn sống—chịu  ngồi vào bàn hội nghị ở Paris để bàn chuyện “Ngưng chiến tranh, vãng hồi hòa bình”. Nhưng  Hà Nội còn đòi quá trớn, là “đòi xóa bỏ Việt Nam Cộng Hòa” nữa.
Mãi sang tới  thời Tổng Thống Richard Nixon đắc cử, cơ sở Cộng Sản  ở miền Nam bị dội bom vài trận nên Hà Nội không dám đòi rõ rệt như vậy nữa, nhưng vì biết Quốc Hội (Lập pháp) thuộc đảng Dân Chủ có quyền thắt túi tiền không cho Tổng Thống (Hành pháp) thuộc đảng Cộng Hòa gây chiến tranh để rút quân về bằng mọi giá nên Hà Nội cứ vừa đánh vừa đàm chờ Nixon ra khỏi Tòa Bạch Ốc.
Nổi bậc trong đảng Dân Chủ là Thượng Nghị sĩ George McGovern đại diện Tiểu bang South Dakota. Ông nổi danh vì là người ngồi cả 20 năm trong Quốc hội Mỹ mà là người đầu tiên lên tiếng chống chiến tranh Việt Nam. Ông tuyên bố rằng Mỹ không đem tiền của, sinh mạng con dân đi chết cho một chế độ tham nhũng! Do đó McGovern được đảng Dân Chủ chọn tranh ghế Tổng Thống với đương kim Tổng Thống Richard Nixon năm 1972, tức nhiệm kỳ hai mà Võ Nguyên Giáp viết chỉ vài chữ nơi trang 9 của hồi ký “Điện Biên Phủ Trên Không”.
McGovern được cả hai vợ chồng Bill và Hillary Clinton phụ tá rất đắc lực trong chiến dịch tranh cử nầy.  Mặc dù ông tố cáo chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không xứng đáng để ủng hộ và tuyên bố sẽ rút quân khỏi Đông Dương nếu ông đắc cử. Nhưng George McGovern lại thất cử quá nặng nề với số phiếu cử tri đoàn quá ít, chưa hề xảy ra trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ:
McGovern chỉ thắng phiếu ở quận Columbia-DC và Boston tiểu bang Massachusetts –nơi bản địa của TNS John Kerry, hiện là Bộ trưởng Ngoại giao thế bà Hillary Clinton—cả hai đều dưới triều đương kiêm Tổng Thống Barack Obama.
                                                    XXXXXX
Trở lại “Điện Biên Phủ Trên Không”. Y như chiến thuật của  Hồ Chí Minh -Võ Nguyên Giáp trong trận 55 ngày Điện Biên Phủ để ngồi vào bàn hội nghị Geneve 1954, Hoa Kỳ muốn VNCH phải thắng để lấy ưu thế tại bàn hội nghị Paris, Nixon phải cho hai lần oanh tạc CSVN năm 1972.  
 Lần thứ nhất là Chiến dịch Linebacker I để trừng phạt Bắc Việt gây ra “Mùa hè đỏ lửa”, mà chính Võ Nguyên Giáp cũng nhìn nhận và còn nói rõ mục đích trong  “Điện Biên Phủ Trên Không”,  rằng:
“Đặc biệt , từ tháng 5 năm 1972, để gây sức ép với ta trên bàn đàm phán, Níchxơn ra lệnh mở chiến dịch không quân Lainơbếchcơ, (tiền vệ) dùng B.52 trút hàng trăm ngàn tấn bom hòng ngăn chận sự chi viện mạnh mẽ của miền Bắc cho miền Nam .” (ĐBPTK,  tr.11).
Vậy có phải Nixon có công cứu vãn VNCH không? Vì sự sụp đổ của miền Nam đã do Quốc Hội Mỹ, đảng Dân Chủ sẳn sàng dâng cho Cộng Sản lâu rồi, điển hình là TNS George McGovern cùng tháng 5 năm 1972 đó trong mùa vận động tranh cử đã thẳng thừng tuyên bố bỏ rơi Đông Dương.
Vậy  mà Nixon dám mở Chiến dịch Linebacker I, (Lainơbếchcơ) dùng B-52 yểm trợ VNCH không sợ bị dân chúng Mỹ tức QH Mỹ sợ tốn kém-- vì có quyền nắm ngân sách-- mà bỏ phiếu truất ghế Tổng Thống (bằng nhiều cách) và phong trào phản chiến –trong đó có Hillary và Bill Clinton--đang lên cao khi cuộc đầu phiếu Tổng thống chỉ còn 6 tháng nữa thôi, tức tháng 11 năm 1972. Thật sự là một can đảm phi thường để giúp đồng minh VNCH, không sợ mất ghế Tổng Thống!
Còn trận thứ nhì là  Chiến dịch Linebacker II . Đây là chiến dịch oanh tạc của không quân nhằm vào Bắc Việt  trong giai đoạn chót của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam từ 18-12 tới 29-12-1972 để chấm dứt chiến thuật vừa đánh vừa đàm kéo dài chiến tranh, nhưng không hề có “Trải thảm B52 tại thủ đô Hà Nội” trong 12 ngày mùa Giáng Sinh như tuyên truyền.
Chuyên viên “vừa đánh vừa đàm” của Hồ Chí Minh tại hội nghị Paris là Lê Đức Thọ.  Vì kết quả bầu cử Tổng thống tháng 11 năm 1972 là Nixon thắng lớn (nên “còn ở lại Nhà Trắng” như Gíáp viết) chứ không phải George McGovern như CS mong đợi, nên Lê Đức Thọ bỏ họp bay về Hà Nội để kéo dài,  tìm mưu khác.
Biết vậy, Nixon phải ra tối hậu thư để buộc Hà Nội trở lại bàn hội nghị Paris để tiếp tục. Trong hồi ký “Điện Biên Phủ Trên Không”, Võ Nguyên Giáp có viết rõ:
 “Chiều ngày 18 tháng 12 năm 1972, chiếc chuyên cơ BH195 đưa anh Lê Đức Thọ đáp xuống sân bay Gia Lâm lúc 16 giờ 45 phút. Cũng khoảng thời gian ấy,  Níchxơn  gửi công hàm như một tối hậu thư, hạn trong 72 giờ ta phải trở lại bàn đàm phán theo những điều kiện của Mỹ.”  (Điện Biên Phủ Trên Không, tr. 13).
Chiến dịch Linebacker I và II (Lainơbếchcơ) có nghĩa  gì?
Theo ĐBPTK, Tiểu tựa: Đánh thắng B.52 của Trung tướng Hoàng Văn Khánh (trích): “Ngày 9 tháng 5 năm 1972-ngày Mỹ thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng-đánh dấu sự mở đầu một chiến dịch mới, mang tên Lainơbếchcơ, ta gọi là “Lainơbếchcơ I”. Tên nầy được các hãng thông tin tin phương Tây dịch nghĩa khá sát và hóm hỉnh là “cứu bóng trước khung thành”. Đúng là khung thành Việt Nam hóa” đang bị nghiêng ngả, cần có một hành động để cứu nguy.” (ĐBPTK, tr. 118)
Cò sau đây là nghĩa của Linebacker II:
“Thế là chỉ trong vòng mười ngày, Mỹ đã ba lần gửi công hàm cho ta. Lần đầu ngày 18 tháng 12 năm 1972 với lời lẽ láo xược. Lần thứ hai, ngày 22 tháng 12, tuy còn ra vẽ cứng nhưng cũng đã núng thế. Còn lần thứ ba thì rõ ràng là cầu xin.
Ta đang ở thế mạnh, thế thắng, nhưng ta đầy thiện chí vì chúng ta bao giờ cũng mong muốn hòa bình. Chính phủ ta chấp nhận lời yêu cầu của họ và hẹn gặp nhau tại Pari ngày 8 tháng 1 năm 1973 ….” (ĐBPTK, tr. 166)
Vậy là, Võ Nguyên Giáp và phe Cộng Sản cho rằng mình thắng, còn Nixon và sử sách Hoa Kỳ chứng minh là Cộng Sản thua.  Sự thật là Nixon không muốn dồn chó điên tận chân tường, chúng biết lợi dụng áp lực của Đảng Dân Chủ trong Quốc Hội và nhóm truyền thông phản chiến xuyên tạc; nên mỗi khi thấy dội bom vừa đủ thắng, cơ sở quân sự và kho vũ khí đã bị hủy diệt thì Nixon điện thoại cho Hà Nội, “mời” trở lại Paris thì sẽ ngưng dội bom như ĐBPTK nhìn nhận.  
Bởi vậy khi  Nixon cho ngưng dội bom ba ngày trước cuối tháng 12 năm 1972 thì Lê Đức Thọ phải lẹ lẹ tới Paris tiếp tục dự hội nghị và ký Hiệp định ngưng bắn kèm điều kiện trao đổi tù binh ngày 27 tháng 1 năm 1973.
 Tuy hiệp định Paris bất lợi cho VNCH, nhưng Nixon đem được hàng trăm tù binh Mỹ về, trong đó --có John McCain—như lời hứa với dân Mỹ khi tranh cử với McGovern năm 1972 là “sẽ rút quân về, nhưng về trong danh dự”.
Mỹ chỉ tiêu hủy khu quân sự và cầu, đường, còn những nơi đông dân như Hà Nội, Hồ Gươm còn y nguyên, B-52 không hề biến Hà Nội thành thời đồ đá như tuyên truyền. Vì số chết cũng chỉ trên 1000 người, con số  do chính Võ Nguyên Giáp nhìn nhận trong Điện Biên Phủ Trên Không (tr. 24, 25).
 Tuy chết dù nhiều hay ít cũng là niềm đau chung,  nhưng không thể tránh được trong chiến tranh.  Có một cánh của bệnh viện Bạch Mai bị sập, chết nhân viên, còn bệnh nhân đã được chuyển đi trước hết rồi. Sở dĩ BV Bạch Mai bị trúng bom vì tại sao Hà Nội ngu xuẩn lập bệnh viện chỉ cách khu quân sự có 200m? Phải chăng là một “ngu xuẩn” cố ý giết dân để đạt mục đích chính trị của bọn có bộ óc “Trí lùn” Cộng sản?? (Chúng tôi sẽ khai thác việc nầy ở bài sau).
Tại thủ đô Hà Nội có Viện Bảo tàng "Chiến thắng B52". Năm 2012 Việt Nam tổ chức mừng 40 năm chiến thắng  “Điện Biên Phủ Trên Không” để ghi nhớ ngày lực lượng không quân Mỹ ném bom Hà Nội và Hải phòng năm 1972 với hình ảnh trẻ em trèo trên xác máy bay B52 bị bắn rơi được trưng bày tại Viện Bảo tàng . (Nguồn: BBC, 30 tháng 12, 2012). 
Nên nhớ rằng năm 1972 thì HCM đã đi gặp thủy tổ Mác-Lê được 3 năm rồi, chỉ còn Võ Nguyên Giáp chỉ huy giàn phòng không nghênh chiến hạ B-52 lúc ấy và sau nầy viết  hồi ký “Điện Biên Phủ Trên Không” (ĐBPTK).
Dân Bắc Việt thời chiến tranh và thế hệ trẻ bây giờ nghe lại Hồ Chí Minh nói “Đế quốc Mỹ vô cớ” dội bom như vậy thì thù hận ngút trời.  Nhưng chỉ vì trong hòa đàm Paris bắt đầu từ năm 1968, Bắc Việt cứ đòi xóa bỏ chính phủ VNCH, rồi bỏ họp, kéo dài tới 1972 là 4 năm trời!
 Năm 1975 chiếm miền Nam, biết  VNCH tự do sung sướng bội lần hơn XHCN miền Bắc của Hồ Chí Minh,  vậy nên đọc bài nầy để hết hận thù Mỹ mà nhìn biết ai là kẻ thù đích thực! Kẻ thù đó phải nhờ máy bay MIG tối tân và  hỏa tiển SAM của Liên Xô  mới cầm cự nổi B-52 của Mỹ.  Nếu chỉ có “Bộ đội cụ Hồ” thì phải chịu chết thôi. Chính tướng Giáp xác nhận:
 “Đêm 27 tháng 12, Phạm Tuân lái máy bay MIG 21 bất ngờ cất cánh từ sân bay Yên Bái, hạ một B-52 trên vùng trời Tây Bắc (ĐBPTK, tr. 27)
Nixon có công giúp Việt Nam Cộng Hòa tồn tại lâu thêm trên hai năm
Phần đông người ta đều oán hận cặp Nixon-Kissinger đã “đi đêm” với Cộng sản, bỏ rơi Đồng minh VNCH, nhưng quyển “Điện Biên Phủ Trên Không” nói trái lại.
Đây, Trung tướng Lê Văn Tri, Tiểu tựa:  Tham Gia Chỉ Huy Chiến dịch  “Điện Biên Phủ Trên Không” trang 86, nói “Nixon tập trung lực lượng B52 để giúp  Chính phủ Việt Nam cộng hòa tồn tại”:   
“Ngày 13 tháng 12 năm 1972  Hội nghị Pari bế tắc do Mỹ gây ra.
 Kitxinhgiơ bay về Oasinhtơn bàn bạc với tướng Hâygơ rồi cùng đề nghị Níchxơn cho B.52 ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam.  Ngày 14 tháng 12 năm 1972  Níchxơn phê chuẩn kế hoạch sử dụng không quân chiến lược đánh dữ dội nhằm gây “hiệu quả chấn động”, ra lệnh B.52 tiến công vào cả khu vực Hà Nội—Hải Phòng. Ba ngày sau lệnh nầy phải có hiệu lực.  
Níchxơn phái tướng Hâygơ sang Sài Gòn để thông báo cho Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu với nội dung như sau: “Mỹ tập trung lực lượng không quân –kể cả B.52—lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam để oanh tạc miền Bắc từ ngày 18 tháng 12 năm 1972, nhằm gây áp lực buộc Chính phủ Bắc Việt phải trở lại bàn hòa đàm Pari với thế yếu, tạo thuận lợi cho Chính phủ Việt Nam cộng hòa tồn tại”.
Tên Nixon tự nhiên vang lừng ở cả hai nước Mỹ-Việt trong năm 2012
Cựu ứng cử viên George McGovern  tạ thế ngày 21 tháng 10 năm 2012, thọ 90 tuổi  (19.7.1922---21.10. 2012).
Dịp nầy, báo chí Mỹ, các đài truyền hình như ABC, cứ mỗi 5,10 phút là loan tin McGovern tạ thế, rồi chiếu cảnh vận động tranh cử năm 1972,  có lời bà vợ  tỏ ý tin tưởng sẽ là đệ nhất phu nhân, lời ứng cử viên McGovern tuyên bố kế hoạch ngưng chiến tranh của ông với những tràng pháo tay hoan hô vang vội của đảng Dân Chủ.
 Loan tin McGovern từ trần nhiều mà TV nhắc tới Nixon cũng không ít, vì  con số phiếu Tổng Thống Nixon tái đắc cử lớn nhất trong trên 200 năm lập quốc, là tới 520 phiếu cử tri đoàn (trong khi chỉ cần 270 phiếu là thắng cử); còn George McGovern chỉ có 17 phiếu! 
Ngày 21.10.2012 và cà tuần sau đó, cứ mỗi 5, 10 phút là TV, Radio Mỹ ầm ỉ những lời tuyên bố lẫn con số phiếu đắc cử “vĩ đại” của Nixon!
Nêu chi tiết như vậy để ta thấy người Mỹ tuy theo chủ nghĩa cá nhân, nhưng họ rất trọng danh dự của đất nước. Họ không chịu chính trị gia đầu hàng Cộng Sản vô điều kiện, nên Nixon cũng hứa “sẽ rút quân về, nhưng về trong danh dự” là thắng phiếu to lớn không ngờ.
Vậy là tên người chết 18 năm trước mang tên Richard M. Nixon (22.4.1994--2012) được lôi ra vang rền vì đối thủ chính trị McGovern mới vừa chết ở Mỹ.
Còn ở Việt Nam, chính Đoàn Văn Toại, nguyên Chủ tịch sinh viên Việt Nam cũng cho biết Đại tướng Công An Mai Chí Thọ (2007 –1922) em của Lê Đức Thọ (1911-1990)  cũng ca ngợi Nixon có thể là một vĩ nhân còn Hồ Chí Minh là Quỷ dữ, nhưng thắng trận vì Hồ kiểm soát được tư tưởng người dân:
“ Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tố chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh - những nhà trí thức ưu tú - và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”. (Trích: Đoàn Văn Toại, Thổn thức cho Việt Nam).
Từ đầu bài, ta thấy  bức thư ngỏ 'vô tiền khoáng hậu’ đề ngày 9/12/2015 của 127 nhân sỹ, trí thức, cựu lãnh đạo trung cao cấp từng chống Mỹ và VNCH ở Việt Nam như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, ông Nguyễn Mạnh Can, nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Huỳnh Tấn Mẫm (nguyên Chủ tịch sinh viên Việt Nam cùng  Đoàn Văn Toại đốt xe Mỹ…) gởi cho Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN nhận định chủ nghĩa Mác – Lênin đã sai lầm: "Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin …..”
Còn Mỹ xâm lược Việt Nam? Cũng sai bét. Lịch sử chứng minh: ngày 7/12/1941, hạm đội hải quân Mỹ đóng tại Trân Châu Cảng, Hawaii bị Nhật Bản tấn công bất ngờ, lôi Mỹ tham chiến tranh. Và phải dội hai trái bom nguyên tử trên đất Nhật năm 1945 khiến  Nhật hoàng phải đầu hàng vô điều kiện, chấm dứt thế chiến thứ hai.  Nhưng Mỹ chẳng những không xâm chiếm Nhật mà còn giúp Nhật xây dựng trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì sau Mỹ.
 Ước mong Việt Nam xóa bỏ hận thù Mỹ và càng có nhiều thư ngỏ như ngày 9/12/2015 với nội dung đòi ném bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin để làm thành trận “Điện Biên Phủ Trên Không” dội bom B52 trải thảm phơi bày tội ác của quỷ dữ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản với dân tộc Việt Nam và thế giới.

Ngày 20 tháng 12 năm 2012

 Nguyễn Việt Nữ

No comments:

Post a Comment