Ngô Tổng Thống Muôn Năm |
Chu Tất Tiến - Khi biến cố 1963 xảy ra, cũng như những
người cùng thời vừa mới xong bậc Trung Học, còn đang phân vân trước tương lai,
tôi không có một ý thức gì về chính trị, chỉ biết ngơ ngác nhìn những sự kiện
thay đổi dồn dập xảy ra chung quanh mà không biết phản ứng như thế nào. Có lần
đang lang thang gần khu chợ Bến Thành, chợt thấy tiếng chân dồn dập, tiếng
người gọi nhau í ới, tôi nhìn lại thì thấy một nhóm chừng hơn hai chục thanh
niên nam nữ áo trắng học sinh chạy xớn xác tản ra khắp ngã đường, tay vẫn còn
cầm vài cái biểu ngữ nhầu nát. Cũng có lần, tôi chứng kiến một cuộc biểu tình
ngồi trên đường Lê Lợi gồm mấy vị tu sĩ Phật Giáo và nhiều người thanh niên
khác.
Cảnh sát bao vòng tròn trong im lặng, không có hành động gì, trong khi đó thì một bà trung niên cầm loa tay hô khẩu hiệu um trời. Hò la một lúc thì bà tiến đến gần một anh cảnh sát, giật mũ anh ném xuống đất. Người cảnh sát lẳng lặng cúi xuống nhặt, phủ bụi, và đội lại lên đầu. Rồi thời gian sau, chán những cuộc biểu tình, xuống đường lan rộng làm rối loạn sinh hoạt cả thành phố, tôi bỏ đi khỏi thành phố, xuống miền Tây làm việc cho qua một thời khủng hoảng.
Cảnh sát bao vòng tròn trong im lặng, không có hành động gì, trong khi đó thì một bà trung niên cầm loa tay hô khẩu hiệu um trời. Hò la một lúc thì bà tiến đến gần một anh cảnh sát, giật mũ anh ném xuống đất. Người cảnh sát lẳng lặng cúi xuống nhặt, phủ bụi, và đội lại lên đầu. Rồi thời gian sau, chán những cuộc biểu tình, xuống đường lan rộng làm rối loạn sinh hoạt cả thành phố, tôi bỏ đi khỏi thành phố, xuống miền Tây làm việc cho qua một thời khủng hoảng.
Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết, tôi xúc động
và buồn bã vì trong ký ức non trẻ của tôi, bài hát “Ai bao năm từng lê gót nơi
quê người” mà tôi thường hát trước giờ vào học vẫn âm hưởng trong tôi, và hình
ảnh vị Tổng Thống hiền hòa nhìn nghiêng trong một khung hình bầu dục hiện lên
trên màn hình trước giờ chiếu phim trong các rạp xi-nê đã hiện diện trong tôi
như hình ảnh một anh hùng dân tộc, người đã cứu chúng tôi ra khỏi miền Bắc Cộng
Sản, đã cho chúng tôi an cư trên miền đất mới đầy Tự Do và no ấm.
Khi trở về Saigon, tôi thấy không khí ngột ngạt dễ sợ. Trong khu
tôi ở, thỉnh thoảng có nhiều người lạ mặt đeo kính đen lảng vảng, và nếu tôi có
buột mồm hỏi về chuyện đảo chánh hồi trước, thì người bên cạnh vội “suỵt” tôi,
không cho nói nữa. Không khí Saigon hồi đó rất căng thẳng, nhất là tại các khu
Bắc Kỳ di cư như Tân Sơn Nhất, Gò Vấp, Xóm Mới.. đâu đâu cũng có những kẻ đeo
kính đen đi chầm chậm trên các ngõ hẻm, liếc ngang liếc dọc… Trong khi đó, thì
nhật báo Saigon lại phát tài với những bài chửi chế độ cũ tan nát. Nhiều chuyện
dài kể về thâm cung bí sử của họ Ngô. Tôi nhớ có đọc nhiều câu chuyện kể y như
thật về cách làm tình của Bà Nhu với Tướng Đôn, với những cận vệ của bà, và với
Đại Sứ Mỹ. Những tường thuật thật lâm ly, làm người đọc có cảm tưởng là tác giả
đang nằm dưới gầm giường bà Nhu nên chứng kiến thật rõ những cử chỉ, lời nói
dâm đãng của bà, không sót một chi tiết nào.
Lại có chuyện ông Diệm và bà em dâu tình tứ với nhau, chuyện ông
Diệm đi chơi bời mặc dầu ông Diệm là đồng tính luyến ái….Có một tờ báo nào đã
viết ông Diệm bị hoạn! Kinh hoàng nhất là chuyện ông Diệm giết người không gớm
tay, từng lê máy chém đi khắp nơi, gặp đâu chém đấy, cả ngàn mạng vô tội! Nhưng
người đao phủ đáng gờm nhất chính là ông Cẩn. Theo bài báo, thì đằng sau nhà
ông Cẩn có một vườn cam, mà dưới mỗi gốc cam là xác một Phật Tử, do đó, cam của
ông Cẩn ngọt lạ lùng! Rồi những hầm nhốt người bất đồng chính kiến, hầm giam
dưới lòng đất của Thảo Cầm Viên đầy đầu lâu, xương cốt…Cứ theo mấy tờ báo Loạn
thời đó, thì quả thật, gia đình họ Ngô là những kẻ tử thù của Dân Tộc, cần phải
tru di tam tộc!
Điều lạ lùng, là cá nhân tôi, khi đọc những bài báo láo lếu đó,
lại dửng dưng như không, và còn nghĩ ngược lại nữa. Tôi khinh ghét những tác
giả đó. Có lẽ vì sự thổi phồng quá đáng đã gây nên phản ứng ngược với những ai
có chút suy nghĩ.
Rồi thời gian trôi qua.. Tôi chứng kiến những vụ lật đổ nhau,
tranh dành chức chưởng, gây nên xáo trộn nặng nề về kinh tế. Mới hôm trước còn
là Thủ Tướng, Quốc Trưởng, Quốc Vụ Khanh, Bộ Trưởng.. mà ngày hôm sau đã ra
tòa, hoăc bị đẩy đi xa. Đất nước xáo trộn kinh hoàng. Saigon cứ chứng kiến
những cuộc xuống đường lộn xộn như những kẻ chạy đèn trên sân khấu Hồ Quảng.
Căng thẳng nhất là lần học sinh, sinh viên đòi Nguyễn Khánh phải bỏ Hiến Chương
Vũng Tàu cho ông ta đời đời kiếp kiếp làm Vua.
Hôm đó, tôi có tham dự, và thấy rõ Nguyễn Khánh, với bộ râu dê,
cầm tờ Hiến Chương vừa cười vừa xé trước mặt sinh viên. Từ lâu, tôi vẫn khinh
bỉ nhân vật này, vì đã nghe kể một lần ông ta tổ chức nhẩy đầm ở truồng tại Đà
Lạt, bị bà vợ lên bắt gặp, Nguyễn Khánh vù lên máy bay bỏ chạy.
Và biết bao sự kiện thanh toán lẫn nhau, Tôn Giáo tấn công lẫn
nhau..làm cho dân chúng chán nản tột cùng. Riêng tôi, thì thất vọng não nề, khi
biết Việt Cộng đã nhân cơ hội Tướng Tá giành giật chức vụ, bỏ ngỏ mặt trận, xóa
Ấp Chiến Lược, nên đồng loạt tấn công những trận lớn, công đồn đả viện, với vũ
khí nặng làm quân Cộng Hòa lao đao. Đài phát thanh báo tin chiến trường, với
những bản báo cáo đếm xác ta, xác địch, mỗi ngày đưa ra một con số lớn hơn..
Từ những sự kiện như thế, trí óc ngây thơ với chính trị của một
thanh niên mới lớn đã dần dần trở thành dầy dạn. Tôi tự lắp ráp lại những sự
việc xảy ra từ 1954 đến 1963, rồi giai đoạn kế tiếp, để nhận ra rằng chính Tổng
Thống Diệm mới thực sự là một Anh Hùng Dân Tộc, người đã bị bức tử bởi bầy tôi
hèn hạ, tham tiền, chối thầy, giết chủ.
Nhớ lại những ngày chiến dịch Bình Xuyên, hình ảnh Tổng Thống
Ngô Đình Diệm ôm Đại Tá Dương Văn Minh rồi thăng cấp tại mặt trận, hình ảnh
Tổng Thống thảo luận trên phóng đồ hành quân mà Nguyễn Khánh đứng cung kính
nghe lệnh, tự dưng, tôi muốn phẫn nộ vì tâm địa phản trắc của con người. Nếu
không có Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu vẫn chỉ là tên lính khố vàng, Minh, Khánh
vẫn là những tên lính Tây…
Nếu không có TT Ngô Đình Diệm, thì sòng bài khổng lồ Đại Thế
Giới vẫn còn là nơi giết hại bao gia đình, các khu Bình Khang vẫn đầy dẫy trong
Saigon, nơi điếm đĩ, ma cô lượn lờ như những thây ma đầy phố. Đêm đêm, các chủ
nhà hàng, tiệm ăn, tiệm buôn vẫn phập phồng lo sợ chờ tiếng gõ cửa của tay chân
bộ hạ Bẩy Viễn, Bình Xuyên, với cái đinh 10 phân trong tay, đòi tiền mãi lộ,
nếu không muốn cái đinh dài kia xuyên qua óc. Những tên chỉ huy Cảnh Sát lại là
những tên cướp có quyền uy thấu trời, có sòng bài, ổ đĩ riêng mà không quyền
lực nào dám đụng tới. Các Tướng chỉ huy quân đội đa số là “bồi Tây”, nói tiếng
Việt không rành, miệng ngậm xì gà, tay chống ba toong, bụng đầy bơ Tây, không
có chút tinh thần Việt Nam nào.
Và tại miền Tây, những chúa tể hùng cứ một phương, Năm Lửa, Ba
Cụt, Nguyễn Bình… là những ông Con Trời, đặt ra luật lệ riêng, bắt dân phục vụ
như nô lệ. Miền Nam ruộng thẳng cánh cò bay vẫn còn những tên Hương Quản, Hương
Cả… có quyền hành hạ dân như chó, ngựa…Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tay trác
tuyệt, đã đương đầu một lúc với hàng vạn thù trong, giặc ngoài. Một mặt thì lo
dẹp loạn Sứ Quân, thâu hồi quyền lực vào chính phủ trung ương để vãn hồi trật
tự quốc gia, mặt khác lo an sinh cho dân chúng, cải tổ hệ thống tiền tệ, thuế
khóa, xây dựng một nền văn hóa Dân Tộc, hỗ trợ cho các chương trình Bình Dân
Giáo Dục, dạy chữ và dạy nghề, thêm chương trình Công Dân Giáo Dục vào học
đường để dân chúng cùng tiến bộ, văn minh.
Quan trọng nhất là cải tiến Trường Hành Chánh do Tây Thực dân
xây dựng từ 1952, biến thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo một lớp
viên chức đầu Tỉnh, đầu Quận, và các Trưởng Ty mọi ngành theo quỹ đạo Việt Nam,
thay đổi các viên chức từng quen với lề lối Tây cổ điển bằng các chuyên viên
tốt nghiệp từ Mỹ về. Từ đó, người dân không còn sợ công chức hơn cha mẹ nữa.
Với hệ thống hành chánh mới cải tổ, thủ tục hành chánh đã giúp dân chúng thỏa
mãn mọi nhu cầu trong đời sống hàng ngày một cách tốt đẹp.
Về phương diện quân đội, cũng thay dần lớp “Quan Sáu, Quan Năm,
Quan Tư, Quan Ba, Quan Hai, Quan Một” bằng Đại Tá, Trung Tá, Thiếu Tá… và cấp
Úy, chỉ huy các Hạ Sĩ Quan và binh sĩ theo đường lối mới. Tinh thần quân đội
lên cao, cho nên cuộc chiến chống Cộng, bảo vệ Tự Do đã dần dần tiến tới thành
công. Việt Cộng dần dần bị chính sách Ấp Chiến Lược làm cho tan rã. Chúng phải
rút dần vào rừng sâu, núi thẳm, không có tiếp trợ từ dân chúng. Nếu không có
ngày đảo chính 1963, có lẽ chỉ vài năm sau, Việt Nam đã thống nhất với thế
thượng phong về phía Việt Nam Cộng Hòa.
Cũng trong tình thế đó, Tổng Thống Diệm không quên ra sức củng
cố các liên lạc ngoại giao với nước ngoài, để được toàn thế giới công nhận. Cờ
Việt Nam Cộng Hòa bay khắp nơi. Tổng Thống Diệm đi đến đâu cũng được tiếp đón
với nghi lễ cao nhất dành cho quốc khách.
Sinh hoạt xã hội cũng tiến bộ. Tham nhũng bị cấm chỉ. Các sinh
hoạt vũ trường, hủ hóa cũng bị giới hạn tối đa. Dân chúng sống trong tinh thần
Dân Chủ, Văn Minh rất thoải mái. Dưới chế độ Ngô đình Diệm, với chủ trương Hữu
Sản Hóa dân chúng, đời sống dân miền Nam thật thanh bình. Chương trình Hữu sản
Hóa Taxi đã biến bao dân làm thuê thành chủ chiếc xe Taxi của mình mà không
phải làm trâu ngựa cho chủ. Những chiếc xe Taxi Renault cũ kỹ nhả khói um trời
được thay thế bằng loạt Dauphine xinh xắn. Song song với việc hữu sản hóa công
nhân, thì chương trình Người Cày Có Ruộng đã giúp bao thợ cấy trở thành người
chủ của miếng ruộng của mình. Chính phủ đã bỏ tiền ra cho các nông dân được mua
3 mẫu đất rồi trả góp khiến cho chế độ tá điền, cầy thuê bị bãi bỏ dần. Các Khu
Trù Mật đã lần lượt ra đời, mang lại cơm no áo ấm cho dân nghèo. Một khi mà
nông thôn ổn định, thì thành phố phát triển nhanh hơn.
Tôi nhớ những năm 54-63, chị tôi làm công chức, anh tôi từ Thiếu
Úy lên Trung Úy, đóng ở Long Xuyên, mẹ tôi đi buôn bán nhỏ, mà gia đình chúng
tôi sống thoải mái, đầy đủ tiện nghi, không bao giờ nghe phàn nàn về vật giá,
muốn ăn phở, uống bia thì ra tiệm lúc nào cũng được. Ngoài ra, mẹ tôi còn để
dành được khá nhiều, tiền anh tôi gửi về thì cất để dành đám cưới cho anh. Đó
là những ngày huy hoàng nhất cho miền Nam, kể cả hơn một triệu người Bắc di cư
đã dần dần có cơ ngơi đầy đủ như ở quê nhà.
Trong những ngày bận rộn vô cùng ấy, Tổng Thống Diệm lại vẫn đi
thăm dân chúng, hỏi thăm từng người xem đời sống có khá không. Ông rất ghét
những kẻ xu nịnh lấy điểm, chỉ biết dàn cảnh lấy lòng cấp trên. Có lần, ông đến
một khu trù mật, thấy trồng chuối đầy hai bên đường, nhưng lá chuối thì héo.
Ông tiến thẳng đến, cầm hai tay lắc lắc thân chuối, thấy nhẹ, ông nhổ ngay lên.
Hóa ra, tay tỉnh trưởng xu nịnh ra lệnh cho trồng gấp rút chuối để lấy lòng
Tổng Thống, không ngờ ông phát giác ra được, tay tỉnh trưởng mất chức ngay.
Tính ông rất thẳng. Nghe kể lại là có lần ông ra Vũng Tầu, nghỉ
ngơi ở Bạch Dinh Vũng Tầu, nhìn qua cửa sổ về phía biển, thấy một rừng mai do
Bảo Đại trồng rất đẹp nhưng lại chắn tầm nhìn ra biển. Ông chỉ cười nói “rừng
mai này che mất tầm nhìn ra biển”. Tay Thị Trưởng Vũng Tầu nghe thấy, muốn lấy
điểm với Tổng Thống, nên ra lệnh chặt hết rừng mai. Lần sau, khi Tổng Thống đến
nghỉ ở Bạch Dinh thì không thấy rừng mai nữa. Ông tìm hiểu và biết được lý do,
nên nổi cơn thịnh nộ, gọi Thị Trưởng, và khi thấy tay nịnh bợ kia vừa bước vào,
Tổng Thống chụp ngay cái gạt tàn thuốc ném vào mặt và quát: “Ai cho mi phá cái
di tích lịch sử đó?” Dĩ nhiên, sau đó, thì có Thị Trưởng mới, nhưng rừng hoa
mai mãi mãi không còn.
Cũng theo Nhật Ký Đỗ Thọ, tùy viên (Phật Giáo) của Tổng Thống,
thì trong một lần kinh lý Trà Vinh, trước khi máy bay đáp xuống phi trường,
Tổng Thống đột nhiên thấy trưng toàn cờ Công Giáo! Ông cũng nổi giận ghê gớm,
cầm gậy đập ầm ầm xuống sàn phi cơ và nói: “Ai cho nó trưng cờ Công Giáo? Tỉnh
này toàn là Phật Giáo mà?” Rồi ông ra lệnh cho máy bay bay vòng vòng chờ dẹp
hết cờ Công Giáo đi, ông mới chịu cho đáp xuống. Tay Tỉnh Trưởng nịnh bợ đó dĩ
nhiên là chịu một phen mắng mỏ, nếu không có Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục năn
nỉ, nhận lỗi là đã ra lệnh cho Tỉnh Trưởng thi hành, thì ông Tỉnh đó đã bay
chức.
Hồi đó, có một số cấp Tá vì muốn nịnh Tổng Thống nên đã cải đạo
sang Công Giáo, những tưởng phen này thăng chức. Nhưng rồi, nghe nói, những vị
đó đã uổng công, vì Tổng Thống có tính ghét ai nịnh bợ, nên không chiếu cố đến
ai mới vào đạo Công Giáo cả. Khi biết tin một vị linh mục thân thiết với Tổng
Thống đã lợi dụng sự quen biết này mà lớn lối với các cấp Sĩ Quan khác, Tổng
Thống đã ra lịnh cấm ông linh mục này vào dinh cho đến khi vị linh mục này năn
nỉ, xin lỗi và hứa không tái phạm nữa, ông mới được phép vào, nhưng cũng chỉ
trong phạm vi giới hạn.
Cũng vì tính tình liêm khiết, cương trực đó, cũng như sự tận
tình phục vụ đất nước mà Tổng Thống Diệm đã được thế giới kính nể. Tổng Thống
Eishenhower đã gọi ông là “Miracle Man” và đã đón tiếp ông, một lãnh tụ Á Châu
nhỏ bé, tận phi cơ. Khi Tổng Thống Diệm đi xe hơi vào thủ đô, ông đã được đón
tiếp bằng hàng triệu triệu những bông hoa giấy từ mọi Bin-đinh, cửa hàng của
thủ đô Hoa Kỳ. Điều muốn nói là tính ông ngay thẳng, không sợ người bạn Khổng
Lồ và cũng là Ân Nhân của mình, nên mỗi khi bắt tay người Mỹ, ông cứ để thẳng
tay xuống, bắt người Mỹ cao kều kia phải cúi đầu trước ông. Nhiều tấm hình chụp
các chính khách Hoa Kỳ cúi thấp người trước một ông Tổng Thống thấp bé vẫn còn
lưu trữ tại Quốc Hội Mỹ.
Việc ông chịu ơn người Mỹ nhưng không chấp nhận Mỹ đóng vai trò
“cha, chú” của mình đã thể hiện trong nhiều cơ hội, nhất là việc ông không chịu
cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam ào ạt. Theo suy nghĩ của ông đã được nói với các
cộng sự viên, thì một khi người Mỹ cho lính vào ào ạt, thì Việt Nam sẽ mất đi
chính nghĩa chống Cộng. Do đó, ông luôn cự tuyệt việc Mỹ yêu cầu cho đổ quân
thêm vào, chỉ cho có một số lượng giới hạn các cố vấn quân, dân sự Mỹ mà thôi.
Điều đó làm cho Kenedy tức giận, và đã cho soạn chính sách “thay ngựa giữa
dòng”, nhưng Đại Sứ Mỹ Frederick Nolting cương quyết không chịu, vì sau một
thời gian làm việc với Tổng Thống Diệm, Đại Sứ Nolting đã nhận thấy ông Diệm là
người yêu nước thật sự đáng kính. Khi bị Nhà Trắng ép buộc, Nolting đã từ chức,
và Kenedy lập tức cử ngay một chuyên viên đảo chính là Cabot Lodge sang để tính
chuyện lật đổ Diệm. Âm mưu này, Tổng Thống Diệm biết rõ, nhưng không sợ.
Tôi còn nhớ đã nghe thấy trong một lần họp Quốc Hội Lưỡng Viện,
có sự hiện diện của Cabot Lodge, Tổng Thống Diệm đã đọc một bài diễn văn dài,
đại khái nói là “Có một người bạn của chúng ta ở bên kia bờ đại dương xa lắc,
nhưng lại cứ muốn lèo lái chúng ta theo ý của bạn đó. Chúng ta cương quyết
không để cho chuyện đó xảy ra…” Nghe tới đó, Cabot Lodge hậm hực đứng dậy và ra
về.
Cabot đã từng thử thách Tổng Thống Diệm bằng cách yêu cầu Tổng
Thống đến phi trường Tân Sơn Nhất tiễn đưa 6 thi hài lính Mỹ chết trận về nước.
Tổng Thống từ chối, nói “sinh mạng của người Mỹ đáng quý, nhưng vì tôi không
đến tiễn đưa linh cữu của các binh sĩ của tôi được, thì tại sao tôi lại phải
tiễn đưa hài cốt lính Mỹ về nước?” Cabot đòi phải có Ngoại Trưởng Việt thay
thế. Tổng Thống không nhận lời và cũng không từ chối. Khi Cabot đứng chờ ở phi
trường rất lâu mà không thấy ai đại diện Việt Nam đến, ông ta nổi nóng, đọc một
bài diễn văn dài, đổ tội cho Việt Nam là vô ơn, bạc bẽo. Từ đó, mà Cabot mới
tiến hành gấp rút việc đảo chánh Tổng Thống Diệm, để thực hiện việc đổ quân
tràn lan vào Việt Nam.
Theo cuốn “The Ambassador” viết dưới tên một nhà văn Mỹ lạ, mà
người ta biết là tên hiệu của Cabot Lodge, vì đó là cuốn tự thuật lại vai trò
của một Đại Sử Mỹ trong suốt quá trình đảo chính Tổng Thống Diệm, thì tác giả
cho biết, “Diệm là người liêm khiết, sống thanh bần, và món xa xỉ duy nhất mà
Diệm xài là một điếu xì gà, ngoài ra, ông chỉ nằm giường phản gỗ không có nệm,
đầu giường có một bàn quỳ đọc kinh, trên tưởng có treo một hình Thánh Giá đơn
sơ.
Diệm không thích ăn uống linh đình, món ăn mà Diệm vẫn hay ăn
thường là món cá kho Huế và rau cải mà thôi.” Cuốn này cũng kể lại sự liên hệ
giữa Tổng Thống và cô em dâu rất khô khan. Có lần Tổng Thống đã đuổi bà Nhu ra
khỏi cuộc họp, và nói “Chỗ này không phải là chỗ của thím!”, bà Nhu phải len
lén đi ra vì bà vẫn luôn kính sợ Tổng Thống và chưa bao giờ dám trái lệnh anh
chồng. Cũng trong cuốn này, Đại Sứ Mỹ đã tưởng trình lên Kenedy những điều căng
thẳng giữa Tổng Thống Diệm và người Mỹ, nhất là sau sự việc Phật Giáo miền
Trung có bàn tay của CIA nhúng vào mà Diệm vẫn khăng khăng không chịu nước lép
với Mỹ, rồi Đại Sứ đã xin chỉ thị sau cùng. Sau khi biết chắc rằng không thể
lung lạc được Diệm, Bạch Cung đã gửi bức điện vẻn vẹn có mấy chữ nhưng lại là
lưỡi dao của đao phủ thủ, kết thúc tính mạng của một gia đình Tổng Thống cũng
như số phận của dân Việt: “Nuôi một con chim mà nó không hót theo ý chủ, thì
nuôi để làm gì”
(What was the use of raising a bird that did not sing as the
owner ordered?”)
Nhận được lệnh này, Cabot Lodge đã bật đèn xanh cho nhóm tướng
lãnh ham tiền làm phản và Tổng Thống Diệm đã bị giết chỉ vì tính cương trực của
một người yêu nước, hoàn toàn không phải bị giết vì vụ Phật Giáo.
Theo Cụ Cao Xuân Vỹ, tính yêu nước và tinh thần dân tộc đã theo
Tổng Thống Diệm đến giây phút cuối. Khi bọn phản tướng tấn công vào dinh, Cụ
Cao Xuân Vỹ đã đề nghị Tổng Thống ra lệnh cho những đơn vị trung thành tấn công
bọn phản, nhưng Tổng Thống cương quyết không chịu. Tổng Thống quát: “Lấy quân
đội dẹp quân đội thì còn chính nghĩa gì?” Cụ Vỹ nài nỉ, “nếu không dẹp bọn
phản, thì không lẽ để tụi nó giết mình sao?” Tổng Thống quát lần này to hơn:
“Chết thì đã sao?”
Và như thế, một vị anh hùng Dân Tộc đã ngã xuống, cho Tổ Quốc
tồn vinh. Điều đau lòng nhất chắc Tổng Thống Diệm mang đi khi ông lìa trần là
mối lo Cộng Sản thôn tính miền Nam. Trước ngày đảo chánh chừng một tháng, ông
đã nói với các tướng lãnh ở Tổng Tham Mưu rằng “chế độ này còn nhiều khuyết
điểm, nhưng nếu sụp đổ, thì miền Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng Sản”.
Điều đó, quả thực đã xảy ra như lời tiên liệu. Sau khi Tổng
Thống Diệm mất, miền Nam rơi vào tình trạng hỗn quân, loạn quan, rồi chế độ độc
tài, tham nhũng của Thiệu ra đời, lệ thuộc hoàn toàn vào viện trợ của ngoại
bang, cho nên khi quân ngoại quốc và Mỹ rút đi, thì nước Việt hoàn toàn bị
nhuộm đỏ. Giờ đây lại sắp mất vào tay Trung Cộng.
Dân Việt Nam đã hơn 4000 năm kiêu hùng với những chiến công lừng
danh thế giới, bây giờ chỉ còn là nhóm thỏ con bên cạnh những con thú ăn thịt
đồng loại là Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đang khúm núm dâng thỏ cho con
cọp đói Trung Cộng. Mối nhục này biết đến thế hệ nào mới trả được ? Thật đau
lòng cho lịch sử Việt Nam.
Nhân ngày giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm sắp đến, chúng tôi, những
người Việt Nam biết ơn Người, xin kính dâng lên Người một đóa hoa lòng, nguyện
xin Đấng Tối Cao cho linh hồn Người Anh Hùng Dân Tộc được yên nghỉ ngàn thu.
Chu Tất Tiến. 26 tháng 10 năm 2013
No comments:
Post a Comment