Trong các
bài gọi là “thuyết pháp trên Paltalk” của “pháp sư” Giác Đức chưa bao giờ ông
dám nhắc đến chuyện “tam bảo điền, Tam bảo nô” đã có từ thời nhà Lý và mấy trăm
năm sau đã bị dẹp tan bởi Tể tướng Lê Quý Ly.
Ông Giác Đức chỉ nhắc lại chuyện ông có liên hệ làm tình báo và gián điệp với cơ quan tình báo nước ngoài như CIA chẳng hạn. Rõ ràng ông Giác Đức là loại Thùng Rỗng nên Kêu To, chứ nếu là loại “Tình Báo Thật” thì ông sống để bụng và chết đem theo những điều ông đã biết. Và chắc chắn không có một tay tổ tình báo nào lại đem chuyện nghề nghiệp của mình đi nói oang oang trên hệ thống Chatting (Paltalk) bao giờ cả. Ông Giác Đức nên mở tầm mắt ra mà nhớ một điều: Tình Báo, Gián Điệp họ là những Anh Hùng là Tinh Hoa của một Dân Tộc (bất cứ gián điệp, tình báo của dân tộc nào). Vì họ thành công không ai biết, thất bại và chết cũng không ai hay. Họ thật sự hy sinh thân xác cũng như tình riêng của họ để mong được phục vụ cho tổ quốc họ. Cho nên chỉ có các bậc Thánh mới xử dụng họ được. Hơn nửa người Á Châu văn hóa của họ là:“Trọng Anh Hùng”. Đó là Tình Báo và Gián Điệp, chứ không phải đi “săn tin” cho người, rồi vênh váo úp úp, mở mở tự cho mình là: “làm việc cho CIA”, lần sau ông Giác Đức nên nói rằng: “tôi làm việc Với CIA, chứ không làm việc Cho CIA”, thì đó mới là việc làm của “tình báo” có ý nghĩa vậy!.
Ông Giác Đức chỉ nhắc lại chuyện ông có liên hệ làm tình báo và gián điệp với cơ quan tình báo nước ngoài như CIA chẳng hạn. Rõ ràng ông Giác Đức là loại Thùng Rỗng nên Kêu To, chứ nếu là loại “Tình Báo Thật” thì ông sống để bụng và chết đem theo những điều ông đã biết. Và chắc chắn không có một tay tổ tình báo nào lại đem chuyện nghề nghiệp của mình đi nói oang oang trên hệ thống Chatting (Paltalk) bao giờ cả. Ông Giác Đức nên mở tầm mắt ra mà nhớ một điều: Tình Báo, Gián Điệp họ là những Anh Hùng là Tinh Hoa của một Dân Tộc (bất cứ gián điệp, tình báo của dân tộc nào). Vì họ thành công không ai biết, thất bại và chết cũng không ai hay. Họ thật sự hy sinh thân xác cũng như tình riêng của họ để mong được phục vụ cho tổ quốc họ. Cho nên chỉ có các bậc Thánh mới xử dụng họ được. Hơn nửa người Á Châu văn hóa của họ là:“Trọng Anh Hùng”. Đó là Tình Báo và Gián Điệp, chứ không phải đi “săn tin” cho người, rồi vênh váo úp úp, mở mở tự cho mình là: “làm việc cho CIA”, lần sau ông Giác Đức nên nói rằng: “tôi làm việc Với CIA, chứ không làm việc Cho CIA”, thì đó mới là việc làm của “tình báo” có ý nghĩa vậy!.
Thời đại
văn minh tân tiến ngày nay cho chúng ta thấy các hàng “tăng lữ” (tăng và ni) của
GHPGVNTN Ấn Quang không phải là những người “tu thật”, chúng lại có nhiều tiền
bạc do thập phương “cúng dường”, nên càng rất dễ bị lôi cuốn vào con đường tà đạo,
dâm dục. Có lẽ vì cửa Phật thánh thiện thiêng liêng mầu nhiệm nên khi bọn ma, bọn
quỷ giả vờ tu hành, chúng đã mau chóng hiện nguyên hình với các tính nết ma quỷ,
dâm ô, ham tiền bạc, ham dâm dục và tham lam vô kể, chúng tham lam hơn bất cứ
người phàm tục nào. Tăng ni trọc đầu Cộng sản của GHPGVNTNAQ chuyển tiền ở Mỹ về
Việt Nam mua nhà cửa, mua ruộng đất để có thể xây “chùa” làm nơi trú ẩn hòng
che dấu quá khứ công an Cộng sản của chúng, lỡ khi có biến thì chúng cũng sẽ biến
các “chùa” này trở thành các căn cứ tiền đồn chống lại lực lượng Quốc Gia.
Tương tự như chúng đã làm vào năm 1968 ở Việt Nam nói chung và ở Huế (miền
Trung) nói riêng. Sau này khi tiêu diệt xong bọn Việt Gian Cộng sản, các chính
quyền Quốc Gia cần phải điều tra tường tận những tội ác, làm tiền, dâm dục, hủ
hóa, nằm vùng và hoạt động công an trọc đầu Cộng sản của tập thể cư sĩ, tăng ni
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang” và các tổ chức ngoại vi của
chúng như: các “Gia Ðình Phật Tử”, “Tăng Ðoàn Bảo vệ Chánh Pháp”, “Phòng Thông
Tin Phật Giáo Paris”. Và nhất là phải bắt và dẫn độ tên Việt Gian Võ Văn Ái về
Việt Nam trị tội để làm gương cho hậu thế. Thiết nghĩ lúc đó chính quyền Pháp
nên giải giao tên lùn Võ Văn Ái cho chính quyền Quốc Gia để kết tình giao hảo với
một nước Việt Nam hoàn toàn không còn bóng dáng ma quỷ Cộng sản phá nước nửa!.
Nếu tính thì từ năm 1963 đến 1975, trong 13 năm này thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang (GHPGVNTNAQ) đã đánh phá Quốc Gia Việt Nam và Chính Quyền miền Nam bằng đủ kiểu, đủ cách. Chúng đánh bằng vũ trang phá hoại, nội chiến du kích, cầm đầu đảo chính, chúng nằm vùng và hoạt động Cộng sản cho đến khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1975 và cho đến sáng ngày 30/4/1975, các tăng ni GHPGVNTN từ Huế, Ðà Nẵng, Khánh Hòa, Ðà Lạt, Cần Thơ; những miền Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm và Ấn Quang đều cầm cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản từ Huế vào đến Sài Gòn, Cần Thơ, để chiếm miền Nam. Hình ảnh Cộng sản nội tuyến của chúng ngày nay đều có đăng tải trên hệ thống youtube.com cho nên chúng không thể chối cãi hay nói láo như thời trước đây được nửa. Sau ngày 30/4/1975, GHPGVNTNAQ đã “hiện nguyên hình” là bọn Công an Cộng sản trá hình cạo trọc đầu, hay nói đúng hơn bọn này là công cụ gián điệp, nằm vùng, đặc công Cộng sản, cực kỳ nguy hiểm cho Tổ Quốc và Quốc Gia Việt Nam.
Sau cuộc đảo chính và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết ngày 2/11/1963; lúc đó Liên Phái Phật Giáo mở cuộc họp tại chùa Xá Lợi hai ngày 31 tháng 12/1963 và 1 tháng 1/1964 để “thống nhất” thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Sau đó tăng ni công an Cộng sản xúc tiến mọi hoạt động và kế hoạch tranh đấu chính trị và bạo lực thật nhanh để cướp Chính Quyền miền Nam, chúng tính trước khi tình hình quân sự chuyển mạnh và người Mỹ có thể mang quân vào miền Nam. Đó là lý do ngày 14/1/1964, “Chủ tịch” nước Dương Văn Minh ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN. Hai ngày sau tên Việt Gian Dương văn Minh ra lệnh thả hết tù Cộng sản. Trong số này có gián điệp nằm vùng Vũ Ngọc Nhạ ở trong tổ tình báo chiến lược với bí số A-22, tên tình báo Bảy Liếm tức La Văn Liếm (gốc Tầu), chỉ huy Biệt Ðộng Nội Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Liếm là tên chỉ huy một biệt đội đặc công chuyên ám sát và phá hoại. Sau năm 1975 đảng Việt Gian Cộng sản đã “đại thắng”, cho nên các tăng ni công an trọc đầu Cộng sản của chúng không cần phải úy kỵ nửa, nên chúng công khai ra mặt làm “sư” công an trọc đầu cho chế độ. Từ đó người dân miền Nam gọi chúng là “mấy thằng công an trọc đầu quốc doanh” là vậy.
Sau ngày chúng gọi là ngày “đại thắng” 30/4/1975, GHPGVNTNAQ được coi là tổ chức đầu não, nhưng lại có thể được coi ngang bằng đảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Và “Đảng” “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” được họp đại hội 5 năm một lần giống như Ðảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Lần đầu, chúng họp đại hội kỳ I họp tại chùa Quán SứHà Nội trong hai ngày 4 và 5 tháng 11/1981 với 165 đại biểu của 22 giáo hội “Phật giáo”. Tại đại hội kỳ I này, GHPGVNTN đã “cải tạo” và tiêu diệt 21 giáo hội Phật giáo khác, và chiếm đoạt toàn bộ chùa chiền với hơn 10,000 tự viện trên toàn quốc cho đến ngày nay. Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”. Ðại hội kỳ I đã bầu Thích Ðức Nhuận làm Tăng thống, Thích Trí Thủ làm Chủ tịch. Năm 1984, Thích Trí Thủ chết, Thích Trí Tịnh thay thế. Vì tính quan trọng cần nhớ nên người viết xin lập lại đoạn trên là: Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”.
Tiện đây cũng xin nói thêm là trong vấn đề thay thế các vị chân tu và chiếm giữ chùa chiền bằng “sư” công an trọc đầu, ta phải nhắc đến “Ðại lão Hòa Thượng” Thích Minh Châu và tập thể đảng bộ Vạn Hạnh. Minh Châu và Thích Đôn Hậu đã là đảng viên Cộng sản cốt cán từ năm 1943 - 1944. Ngay từ lúc mới chân ướt chân ráo đi theo Cộng sản, thì đám này chúng đã không thể bỏ qua Phật giáo. Sau đó Minh Châu được cử đi Ấn Ðộ học về Phật giáo (xin đọc giả chú ý là gần đây có một số “nhà chùa” và một số “sư” … công an đang sống ở Mỹ này lại sang Ấn Độ làm “công quả”, như là giúp xây giếng nước cho dân Ấn Độ ..v.v... Tại sao họ không giúp người nghèo khổ ở Mỹ này mà lại sang Ấn Độ !? Hỏi tức là trả lời vậy). Một số khoảng 15 nghìn tên sau này chúng gởi qua Tây Tạng để “tu học” về Phật Giáo vào năm 1984. Trong kế hoạch trường kỳ này chúng rất uyển chuyển, các cán bộ công an phản gián của đảng sẽ tùy tiện cạo đầu làm sư. Các chùa chiền sẽ trở thành trụ sở hoạt động bí mật và ngoại vi của đảng Cộng sản trước đây, bây giờ và sau này. Người Quốc Gia Việt Nam nên biết rõ vấn đề này và không được lãng quên.
Vì có công lớn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cho nên GHPGVNTNAQ đã trở thành một thứ “quốc giáo” và là một tổ chức ngoại vi trung kiên với đảng Cộng sản, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc. Để phòng ngừa khi đảng Cộng sản không nắm vững quyền hành hoặc có thể bị toàn dân lật đổ như liên bang Nga trong thập niên 1990. Khi đế quốc Cộng sản Liên Xô sụp đổ, thì GHPGVNTN Ấn Quang đã chuẩn bị đưa các tên Cộng sản cao cấp lên để trở thành các “tăng thống”, “pháp sư”, “Hòa Thượng”, hoặc giả các đảng viên cao cấp nòng cốt chưa bao giờ biết cạo đầu là gì, thì nay chúng lại cạo trọc đầu giả sư, thay tên trốn trong chùa. Chùa chiền sau đó sẽ trở thành trụ sở hoạt động từ bí mật đến công khai và ngược lại, để tiếp tục trường kỳ đánh phá các chính quyền Quốc Gia cho đến khi chúng cướp lại được chính quyền. Đây là kế sách bọn chúng đã làm và đã hoàn thành.
Tưởng cũng nên nhắc lại là năm 1964, sau khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu phe đảo chánh ra lệnh cho sĩ quan tùy viên của y là đại úy Nhung hạ sát, thì lúc đó đám GHPGVNTN Ấn Quang công khai ra mặt để đánh chiếm miền Nam. Ðúng lúc này Thích Minh Châu trở về nước và thành lập Viện đại học Vạn Hạnh. Viện đại học Vạn Hạnh được gọi là đảng bộ đảng Cộng sản Vạn Hạnh với Nguyễn Trực làm “chính ủy”. Ðến năm 1970, Ðoàn Viết Hoạt và vợ là Trần Thị Thức từ Mỹ, về Hoạt mới làm Phó Viện trưởng (đảng bộ) Vạn Hạnh và Thích Minh Châu làm trưởng. Viện Ðại học Vạn Hạnh đã mau chóng trở thành cơ sở huấn luyện cán bộ Cộng sản. Cuối năm 1974, Thích Minh Châu và Nguyễn Trực đã có thể báo cáo ra Trung Ương Cục Miền Nam rằng chúng đã chuẩn bị xong 1 sư đoàn đặc công Vạn Hạnh với hơn 6,000 khẩu súng các loại và đạn dược với hơn 7,000 sinh viên và thanh niên “phật tử”. Sư đoàn đặc công này được huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu trong thành phố, chúng sẽ bắn vào sau lưng quân đội Việt Nam Cộng Hòa để tiếp tay khi bộ đội Cộng sản miền Bắc tiến công đánh vào thành phố Sài Gòn.
Nếu tính thì từ năm 1963 đến 1975, trong 13 năm này thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang (GHPGVNTNAQ) đã đánh phá Quốc Gia Việt Nam và Chính Quyền miền Nam bằng đủ kiểu, đủ cách. Chúng đánh bằng vũ trang phá hoại, nội chiến du kích, cầm đầu đảo chính, chúng nằm vùng và hoạt động Cộng sản cho đến khi miền Nam sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong hai tháng 3 và 4 năm 1975 và cho đến sáng ngày 30/4/1975, các tăng ni GHPGVNTN từ Huế, Ðà Nẵng, Khánh Hòa, Ðà Lạt, Cần Thơ; những miền Vạn Hạnh, Vĩnh Nghiêm và Ấn Quang đều cầm cờ Phật giáo ra đón bộ đội Cộng sản từ Huế vào đến Sài Gòn, Cần Thơ, để chiếm miền Nam. Hình ảnh Cộng sản nội tuyến của chúng ngày nay đều có đăng tải trên hệ thống youtube.com cho nên chúng không thể chối cãi hay nói láo như thời trước đây được nửa. Sau ngày 30/4/1975, GHPGVNTNAQ đã “hiện nguyên hình” là bọn Công an Cộng sản trá hình cạo trọc đầu, hay nói đúng hơn bọn này là công cụ gián điệp, nằm vùng, đặc công Cộng sản, cực kỳ nguy hiểm cho Tổ Quốc và Quốc Gia Việt Nam.
Sau cuộc đảo chính và Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết ngày 2/11/1963; lúc đó Liên Phái Phật Giáo mở cuộc họp tại chùa Xá Lợi hai ngày 31 tháng 12/1963 và 1 tháng 1/1964 để “thống nhất” thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Sau đó tăng ni công an Cộng sản xúc tiến mọi hoạt động và kế hoạch tranh đấu chính trị và bạo lực thật nhanh để cướp Chính Quyền miền Nam, chúng tính trước khi tình hình quân sự chuyển mạnh và người Mỹ có thể mang quân vào miền Nam. Đó là lý do ngày 14/1/1964, “Chủ tịch” nước Dương Văn Minh ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN. Hai ngày sau tên Việt Gian Dương văn Minh ra lệnh thả hết tù Cộng sản. Trong số này có gián điệp nằm vùng Vũ Ngọc Nhạ ở trong tổ tình báo chiến lược với bí số A-22, tên tình báo Bảy Liếm tức La Văn Liếm (gốc Tầu), chỉ huy Biệt Ðộng Nội Thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Liếm là tên chỉ huy một biệt đội đặc công chuyên ám sát và phá hoại. Sau năm 1975 đảng Việt Gian Cộng sản đã “đại thắng”, cho nên các tăng ni công an trọc đầu Cộng sản của chúng không cần phải úy kỵ nửa, nên chúng công khai ra mặt làm “sư” công an trọc đầu cho chế độ. Từ đó người dân miền Nam gọi chúng là “mấy thằng công an trọc đầu quốc doanh” là vậy.
Sau ngày chúng gọi là ngày “đại thắng” 30/4/1975, GHPGVNTNAQ được coi là tổ chức đầu não, nhưng lại có thể được coi ngang bằng đảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Và “Đảng” “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất” được họp đại hội 5 năm một lần giống như Ðảng Cộng sản và Mặt Trận Tổ Quốc. Lần đầu, chúng họp đại hội kỳ I họp tại chùa Quán SứHà Nội trong hai ngày 4 và 5 tháng 11/1981 với 165 đại biểu của 22 giáo hội “Phật giáo”. Tại đại hội kỳ I này, GHPGVNTN đã “cải tạo” và tiêu diệt 21 giáo hội Phật giáo khác, và chiếm đoạt toàn bộ chùa chiền với hơn 10,000 tự viện trên toàn quốc cho đến ngày nay. Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”. Ðại hội kỳ I đã bầu Thích Ðức Nhuận làm Tăng thống, Thích Trí Thủ làm Chủ tịch. Năm 1984, Thích Trí Thủ chết, Thích Trí Tịnh thay thế. Vì tính quan trọng cần nhớ nên người viết xin lập lại đoạn trên là: Tất cả các vị Chân Tu bị đuổi ra khỏi chùa và về nhà tu tại gia và vĩnh viễn không được có chùa. Đọc giả nên nhớ cho một điều bất di bất dịch rằng: Dưới chế độ Cộng sản (bất kỳ Cộng sản nước nào) không ai có quyền lập chùa nếu không phải do đảng ra lệnh. Không ai có quyền mở trường dạy học ngoài đảng. Trước đây và bây giờ Cộng sản vẫn vậy và không có gì thay đổi cả. Tất cả chùa chiền đều do cán bộ “sư” công an trọc đầu quản lý, hay gọi là “giám tự”.
Tiện đây cũng xin nói thêm là trong vấn đề thay thế các vị chân tu và chiếm giữ chùa chiền bằng “sư” công an trọc đầu, ta phải nhắc đến “Ðại lão Hòa Thượng” Thích Minh Châu và tập thể đảng bộ Vạn Hạnh. Minh Châu và Thích Đôn Hậu đã là đảng viên Cộng sản cốt cán từ năm 1943 - 1944. Ngay từ lúc mới chân ướt chân ráo đi theo Cộng sản, thì đám này chúng đã không thể bỏ qua Phật giáo. Sau đó Minh Châu được cử đi Ấn Ðộ học về Phật giáo (xin đọc giả chú ý là gần đây có một số “nhà chùa” và một số “sư” … công an đang sống ở Mỹ này lại sang Ấn Độ làm “công quả”, như là giúp xây giếng nước cho dân Ấn Độ ..v.v... Tại sao họ không giúp người nghèo khổ ở Mỹ này mà lại sang Ấn Độ !? Hỏi tức là trả lời vậy). Một số khoảng 15 nghìn tên sau này chúng gởi qua Tây Tạng để “tu học” về Phật Giáo vào năm 1984. Trong kế hoạch trường kỳ này chúng rất uyển chuyển, các cán bộ công an phản gián của đảng sẽ tùy tiện cạo đầu làm sư. Các chùa chiền sẽ trở thành trụ sở hoạt động bí mật và ngoại vi của đảng Cộng sản trước đây, bây giờ và sau này. Người Quốc Gia Việt Nam nên biết rõ vấn đề này và không được lãng quên.
Vì có công lớn trong công cuộc tiến chiếm miền Nam của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cho nên GHPGVNTNAQ đã trở thành một thứ “quốc giáo” và là một tổ chức ngoại vi trung kiên với đảng Cộng sản, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc. Để phòng ngừa khi đảng Cộng sản không nắm vững quyền hành hoặc có thể bị toàn dân lật đổ như liên bang Nga trong thập niên 1990. Khi đế quốc Cộng sản Liên Xô sụp đổ, thì GHPGVNTN Ấn Quang đã chuẩn bị đưa các tên Cộng sản cao cấp lên để trở thành các “tăng thống”, “pháp sư”, “Hòa Thượng”, hoặc giả các đảng viên cao cấp nòng cốt chưa bao giờ biết cạo đầu là gì, thì nay chúng lại cạo trọc đầu giả sư, thay tên trốn trong chùa. Chùa chiền sau đó sẽ trở thành trụ sở hoạt động từ bí mật đến công khai và ngược lại, để tiếp tục trường kỳ đánh phá các chính quyền Quốc Gia cho đến khi chúng cướp lại được chính quyền. Đây là kế sách bọn chúng đã làm và đã hoàn thành.
Tưởng cũng nên nhắc lại là năm 1964, sau khi Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị Trung tướng Dương văn Minh cầm đầu phe đảo chánh ra lệnh cho sĩ quan tùy viên của y là đại úy Nhung hạ sát, thì lúc đó đám GHPGVNTN Ấn Quang công khai ra mặt để đánh chiếm miền Nam. Ðúng lúc này Thích Minh Châu trở về nước và thành lập Viện đại học Vạn Hạnh. Viện đại học Vạn Hạnh được gọi là đảng bộ đảng Cộng sản Vạn Hạnh với Nguyễn Trực làm “chính ủy”. Ðến năm 1970, Ðoàn Viết Hoạt và vợ là Trần Thị Thức từ Mỹ, về Hoạt mới làm Phó Viện trưởng (đảng bộ) Vạn Hạnh và Thích Minh Châu làm trưởng. Viện Ðại học Vạn Hạnh đã mau chóng trở thành cơ sở huấn luyện cán bộ Cộng sản. Cuối năm 1974, Thích Minh Châu và Nguyễn Trực đã có thể báo cáo ra Trung Ương Cục Miền Nam rằng chúng đã chuẩn bị xong 1 sư đoàn đặc công Vạn Hạnh với hơn 6,000 khẩu súng các loại và đạn dược với hơn 7,000 sinh viên và thanh niên “phật tử”. Sư đoàn đặc công này được huấn luyện và chuẩn bị chiến đấu trong thành phố, chúng sẽ bắn vào sau lưng quân đội Việt Nam Cộng Hòa để tiếp tay khi bộ đội Cộng sản miền Bắc tiến công đánh vào thành phố Sài Gòn.
Quả đúng như vậy; sáng ngày 30/4/1975, Thích Minh Châu, Nguyễn Trực, Ðoàn Viết
Hoạt và toàn bộ ban giảng huấn Ðại Học (đảng bộ) Vạn Hạnh đã cầm đầu sư đoàn đặc
công với hơn 6,000 khẩu súng với hơn 7,000 sinh viên cùng với một số cán bộ
“sư” công an trọc đầu Cộng sản. Chúng đeo băng đỏ nơi cánh tay, và cầm cờ Phật
giáo lên tận ngã tư Bảy Hiền đón quân đội Cộng sản vào chiếm Sài Gòn. Đoàn Viết
Hoạt và vợ là Trần Thị Thức hiện nay vẫn đang sống ung dung tại vùng Hoa Thịnh
Đốn. Sau này Hoạt và vợ cũng sẽ phải được dẫn độ về Việt Nam để trả lời những
việc chúng đã làm. Thiết nghĩ cơ quan anh ninh của Mỹ cũng đã biết rất rõ về vợ
chồng Đoàn Viết Hoạt, nhưng họ để yên cũng có lý do của họ. Khi Cộng sản Bắc Việt
vào tiến chiếm Sài Gòn thì không khí tại (đảng bộ) đại học Vạn Hạnh, miền Vĩnh
Nghiêm và chùa Ấn Quang lúc này vui như ngày Tết, với các “sư” công an trọc đầu
Cộng sản đeo súng kè kè, mặt mũi đằng đằng sát khí, canh gác, canh giữ khắp
nơi, và mở đường, dẫn đường cho bộ đội Cộng sản vào chiếm đóng các cơ sở, cũng
như các trọng điểm hành chính, quân sự, ngân hàng quan trọng trong thành phố
Sài Gòn.
Sau đại hội kỳ I ngày 4 và 5/11/1981, của GHPGVNTN Ấn Quang, 21 giáo hội Phật giáo khác bị “cải tạo” để thống nhất làm một. Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu và toàn băng “đảng bộ Vạn Hạnh” đã đào tạo và cung cấp cho GHPGVNTN Ấn Quang khoảng 20 ngàn sư công an để làm “giám tự”, chúng chiếm giữ hơn 10,000 chùa chiền toàn quốc. Các vị Chân Tu của 21 giáo hội đều bị đuổi về nhà tu tại gia (như trên có nói), ngày nay một số các vị Chân Tu này họ vẫn còn sống đâu đó trong nước Việt Nam. Từ thời điểm đó đến nay đã đúng 30 năm, bọn “sư công an trọc đầu Cộng sản” đã mở ra nhiều chiến dịch nhằm xóa bỏ tên “công an trọc đầu” với người Việt tị nạn Cộng sản ở hải ngoại. Cho nên bọn “sư” công an Cộng sản trọc đầu Ấn Quang tung ra những tên mới lạ như Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Trí Lực, Thích Hạnh Ðức, Thích Huệ Ðăng, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban ..v.v... bọn này đều là “sư” trọc đầu công an, và chúng còn có một cái tên khác nửa là “công an giám tự nhà chùa” do Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu thuộc đảng bộ Vạn Hạnh đào tạo và kiểm soát .
Sau đại hội kỳ I ngày 4 và 5/11/1981, của GHPGVNTN Ấn Quang, 21 giáo hội Phật giáo khác bị “cải tạo” để thống nhất làm một. Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu và toàn băng “đảng bộ Vạn Hạnh” đã đào tạo và cung cấp cho GHPGVNTN Ấn Quang khoảng 20 ngàn sư công an để làm “giám tự”, chúng chiếm giữ hơn 10,000 chùa chiền toàn quốc. Các vị Chân Tu của 21 giáo hội đều bị đuổi về nhà tu tại gia (như trên có nói), ngày nay một số các vị Chân Tu này họ vẫn còn sống đâu đó trong nước Việt Nam. Từ thời điểm đó đến nay đã đúng 30 năm, bọn “sư công an trọc đầu Cộng sản” đã mở ra nhiều chiến dịch nhằm xóa bỏ tên “công an trọc đầu” với người Việt tị nạn Cộng sản ở hải ngoại. Cho nên bọn “sư” công an Cộng sản trọc đầu Ấn Quang tung ra những tên mới lạ như Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh, Thích Trí Lực, Thích Hạnh Ðức, Thích Huệ Ðăng, Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban ..v.v... bọn này đều là “sư” trọc đầu công an, và chúng còn có một cái tên khác nửa là “công an giám tự nhà chùa” do Thích Minh Châu, Thích Quảng Ðộ, Thích Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu thuộc đảng bộ Vạn Hạnh đào tạo và kiểm soát .
Vân Anh
xin xem tiếp bài 2
Bài 2
Từ sau ngày 30/4/1975 bọn (đảng) Việt Gian Cộng sản đã chuẩn bị, cũng như soạn thảo những kế hoạch rất tinh vi, để chúng thành lập một chế độ sắc máu khác là: dùng hẳn bọn “công an trọc đầu” để thay thế hệ thống “công an Cộng sản”. Nói một cách khác là chúng dùng lý luận na ná giống “phật giáo” thay thế lý thuyết Cộng sản, để “đoàn ngũ hóa” tư tưởng người dân Việt vốn câm thù Cộng sản đến tận xương tuỷ, nhất là người dân miền Bắc. Đây là một kế sách trường kỳ mà bọn (đảng) Việt Gian Cộng sản chúng đã tốn nhiều năm cũng như hàng nghìn chuyên viên về tôn giáo, hàng nhiều chục tỷ đô la để nghiên cứu và thực hiện cho bằng được kế sách này. Nói một cách đúng hơn là chúng dùng các nhân sự “công an trọc đầu” (“công an trọc đầu” chúng là những đảng viên trung kiên trong nghành công an của Việt Gian Cộng sản, nhưng chúng được đào tạo nhiều năm về phật học để cạo đầu giả sư) để thay thế đám “công an Cộng sản”[(“công an Cộng sản” là những thành phần công an thường, nghĩa là thành phần công an nhưng không được đào tạo thêm kiến thức về nghiệp vụ để len lỏi vào phật giáo). Chúng ta phải hiểu rõ ở điểm này để phân biệt đám “công an trọc đầu” và “công an Cộng sản” khác nhau ở điểm nào. Người viết nhớ lại trước đây dân miền Nam có lưu truyền câu nói: “Nhất Đĩ Nhì Sư” thì có lẽ cũng rất hợp để chỉ đến đám “công an trọc đầu” này chăng?!)]. Chúng muốn biến tư tưởng của Phật Giáo để thay thế lý thuyết Cộng sản và chúng dự tính rằng kế hoạch này sẽ cứu sống chế độ Việt Gian cũng như nhân sự Cộng sản. Vì chúng đoán trước rằng lý thuyết Cộng sản Marxist Leninist trước hay sau gì cũng phải bị vứt vào xọt rác, vì sự tiến hóa của xã hội con người và thế giới này sẽ không còn cái gọi là lý thuyết “quái thai, quái đản” Cộng sản nửa!.
Tư tưởng dẫn hành động!. Vì hiểu như vậy cho nên chúng làm như vậy để chúng có thể thoát nạn nếu trong tương lai Việt Nam có một cuộc Cách Mạng bạo lực dẫn đến lật đổ chế độ Việt Gian Cộng sản của chúng, thì bọn “công an trọc đầu” chúng vẫn còn tồn tại vì chiếc áo “cà sa” và một mớ lý thuyết Marxist Leninist trộn lẫn tôn giáo, thì đương nhiên chúng sẽ sống để tiếp tục lừa bịp và lường gạt với cái “đầu trọc” của chúng. Những nhân sự công an trọc đầu Cộng sản này sẽ tiếp tục hoạt động, chúng sẽ dùng tôn giáo như một lợi khí để đánh phá các Chính Quyền Quốc Gia như chúng đã từng làm trong thời Đệ Nhất (và Nhị) Cộng Hòa và cho đến khi chúng có thể cướp được chính quyền. Hoặc giả các chính quyền non trẻ vì yếu kém về mặt tư tưởng và có thể “điều đình” để chia quyền với chúng.
Và một tiên đoán của chúng nữa là thế giới Tây phương nhất là Âu Châu (Cộng sản) sẽ phải ủng hộ chúng và làm đối lập chính trị để ép người Quốc Gia phải nhượng bộ vì quyền lợi kinh tế, thương mại. Chúng ta thấy bọn Việt Gian Cộng sản luôn luôn bán rẻ quyền lợi của Quốc Gia để cho đảng (Cộng sản) của chúng được tồn tại với quyền hành. Như vậy trong trường hợp Tây phương ủng hộ cho bọn GHPGVNTN-AQ làm đối lập chính trị, thì chúng sẽ tách “giáo hội” của chúng ra và để cho một nhóm ủng hộ “dân chủ đa nguyên kiểu Cộng sản” trong “diễn biến hòa bình” ra mặt hoạt động. Như thế thì bọn Việt Gian Cộng sản cũng như bọn công an trọc đầu vẫn ở bên trong nắm quyền điều hành, nhưng chỉ có khác là chúng thay thế cái tên Việt Gian Cộng sản, sang “dân chủ đa nguyên Cộng sản” hay một cái tên khác cho bớt đi màu máu gian ác Việt Gian Cộng sản của chúng.
Trước đây và bây giờ thì thế giới này ai ai cũng biết là: GHPGVNTN-AQ vẫn trung kiên gắn bó với đảng Việt gian Cộng sản và là một tổ chức ngoại vi hàng đầu của đảng Việt Gian Cộng sản từ mấy chục năm qua. Vậy làm sao các chính phủ Tây phương (không cộng sản) nhất là Hoa Kỳ họ lại không biết!? Và các ác thế lực kể cả đám Mỹ Gian có muốn giúp bọn Việt Gian xóa bỏ cái tên Việt Gian, thì chúng nó làm sao có thể xóa được?. Các bài được viết ra từ nhiều năm qua cho đến nay cũng chính là bản án tử hình cho các tên “công an trọc đầu”, các đồng chí văn nô phản tỉnh giả vờ, các tên bồi bút cò mồi, các tên đối lập cuội giả vờ chống đảng, các tên chuyên làm tay sai cho bọn phản dân hại nước Việt Gian Cộng sản, thì tất nhiên chúng sẽ phải chết theo đảng Việt Gian của chúng, khi cuộc cách mạng bạo lực nổ ra trong thời gian không xa tới đây!.
Dân Tộc Việt Nam không thể khoan hồng các tên được nêu ra trên và dưới đây (dù cho chúng đã chết) chúng là thứ Việt Gian Cộng sản nguy hiểm, lưu manh, giảo quyệt, gian trá, độc ác và khốn nạn nhất. Các “đồng chí” Việt Gian Cộng sản phải bị toàn dân Việt Nam tiêu diệt không thể khác!. Ngày nay khi các “đồng chí” thấy cái chết sẽ đến nơi thì mới ăn năn hối hận có lẽ đã muộn!. Toàn dân Việt chúng tôi cần phải tiêu diệt bọn cầm đầu Việt Gian Cộng sản, bọn tư bản đỏ, bọn “sư công an trọc đầu” ở trong và ngoài nước. Nhưng quan trọng không kém là các tên “sư” “công an trọc đầu” ở hải ngoại nhất là các tên đang sống tại Hoa Kỳ, đang hoạt động đắc lực cho bọn Việt Gian Cộng sản như:
HT (Hòa Thượng) Thích Huyền Quang; HT Thích Quảng Độ; TT (Thượng Tọa) Thích Quảng Liên; Thích Thái Hòa; Thích Thiện Hạnh; Thích Thanh Tứ; Thích Chơn Thành; Thích Nguyên Đạt; Thích Nguyên Trí; Thích Hộ Giác; Thích Chánh Lạc; Thích Quảng Ba; HT Thanh Cát; HT Thích Mãn Giác (đã chết); HT Thích Giác Nhiên; HT Thích Đức Niệm (đã chết); Thích Trí Chơn, Thích Huyền Dung, HT Thích Chánh Lạc; HT Thích Chơn Thành; Thích Quãng Thanh; HT Thích Nguyên Đạt; Thích Pháp Châu; HT Thích Hạnh Đạo; TT Thích Nhật Minh; TT Thích Phước Thuận; TT Thích Tín Nghĩa; TT Thích Minh Mẫn;Thích Pháp Châu; TT Thích Nguyên Siêu; HT Thích Thiện Hương; Thích Chơn Trí đổi pháp danh là Thích Nguyên Siêu; HT Thích Thuyền Ấn, TT Thích Minh Tuyên, Thích Minh Nguyên, HT Thiền sư Thích Nhất Hạnh, TT Thích Quãng Thanh; TT ThíchViên Lý, TT Thích Minh Dung; TT Thích Hạnh Tuấn; TT Thích Chơn Trí; TT Thích Giác Đẳng; TT Thích MinhTồn; TT Thích Giác Sĩ; Pháp Sư Thích Giác Đức; TT Thích Trí Lãng; TT Thích Vân Đàm; TT Thích Minh Hồi; TT Thích Thông Niệm; ĐĐ (Đại Đức) Thích Tâm Tường; TT Thích Minh Tuyên; TT Thích Minh Trí; HT Thích Đạo Quang; TT Thích Giác Sơn; TT Thích Vân Đàm; TT Thích Minh Nguyên; TT Thích Minh Tuyên ..v.v…
Các “sư nữ” thì có: Ni Sư Nữ Như Hòa; Ni Sư Nữ Ni Hoa Tâm; Ni Sư Như Ngọc; Ni Sư Như Nguyện; Ni cô Tịnh Nguyện; Sư cô Diệu Hạnh; Sư cô Diệu Cảnh; Sư cô Diệu Hằng; Sư cô Diệu Chơn; Sư cô Diệu Ninh; Sư cô Diệu Ngộ; Ni sư Diệu Từ; Ni sư Diệu Hương; Ni cô Diệu Ngọc; Ni cô Diệu Tánh; Ni cô Quãng Tâm tức Ni cô Đàm Hương, Ni Cô Liên Nhẫn ..v.v…
Nếu đọc giả để mắt đến các tên “công an trọc đầu” từ những năm sau năm 1975 cho đến nay, đọc giả sẽ thấy các tên “công an trọc đầu” nhất là tên Thích Quảng Ðộ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ của đảng bộ Vạn Hạnh được đề cao với hải ngoại là những người có học, có bằng cấp ở Hoa Kỳ, để gây uy tín “trí thức” cho GHPGVNTN-AQ. Ban tuyên huấn tôn giáo hải ngoại cũng không quên tạo ra cảnh tượng bịp bợm rằng: Trí Siêu và Tuệ Sỹ bị Cộng sản “xử tử hình” nhưng không có lý do và cũng không chết. Chúng hô hoán rằng bị “tù” (kiểu Đoàn Viết Hoạt) mấy chục năm nhưng không ai thấy chúng ở tù bao giờ. Để rồi cuối cùng vài năm trước đây hai tên này đã “đăng ký” lấy vợ và giả từ cuộc đời “tuyệt thực chống đảng”. Tóm lại chúng giả vờ chứ chúng không hề hoạt động gì gọi là chống Cộng để đến nỗi bị tử hình, hay bị tù như chúng đã từng bịp bợm nói láo trong nhiều năm qua.
link (Đoàn viết Hoạt-nón tai bèo-VN “Con đường tiến đến dân chủ…)
VG Đoàn Viết Hoạt thăm Ba Lan năm 1999. vợ VG Trần Thị Thức cùng tháp tùng. Hình chụp với tổng thống Ba Lan đương nhiệm Aleksander Kwaśniewski.
Cộng sản gian ngoan ở điểm chúng vẫn sống nhăn, vẫn làm việc, vẫn bóp méo lịch sử, vẫn bình an vô sự. Nhưng mồm thổi lửa của chúng thì hô hoán rằng chúng bị tử hình “oan”, bị xử án “oan” và bị xử tù “oan”, mà thật ra không có gì xảy ra cho các tên công an trọc đầu này cả!. Nhưng có điều khôi hài nhất là bọn nằm vùng và bọn cò mồi của bọn cán bộ Cộng sản trọc đầu cũng như có tóc ở hải ngoại, vẫn trơ tráo trắng trợn tung hô, tâng bốc và đề cao rằng đó là những nhà “tranh đấu” nhân quyền, những người “giám” dấn thân tranh đấu với Cộng sản!. Chúng tưởng như vậy là đã đánh lừa được người hải ngoại phải tôn vinh bọn ngu dốt nhưng tham lam này, và các chính khách người Mỹ (chứ không phải Mỹ Gian) phải đổi hướng chính sách, chính trị để o bế bọn Việt Gian Cộng sản. Nếu chúng ta để ý thì chúng ta sẽ thấy bộ máy tuyên truyền báo chí Cộng sản và tuyên vận Cộng sản ở hải ngoại loan truyền những chuyện bịa đặt này. Nhưng ở trong nước hoàn toàn yên lặng, người dân không ai nghe thấy những tên Quảng Ðộ, Huyền Quang, Võ Văn Ái, Ðoàn Viết Hoạt ..v.v.. và các “sư” là ai?. Chúng nghĩ rằng chúng gây “uy tín” và “tiếng tăm” với hải ngoại để tạo một cái “vốn chính trị”. Cái vốn chính trị này sẽ giúp GHPGVNTN-AQ an toàn, để xóa bỏ cái tên “công an quốc doanh” hay “công an trọc đầu” và sau này người Quốc Gia sẽ không thể hỏi tội làm tay sai cho Cộng sản của chúng.
Một điểm cần phải nói trong thời điểm này là các cuộc cách mạng đã bùng nổ từ Trung Đông đang lan sang Á Châu, chính trị toàn cầu đã thay đổi. Thì sớm muộn gì chế độ tàn bạo, tàn ác Việt Gian Cộng sản cũng phải sụp đổ không thể khác. Chúng hiểu như vậy nên chúng làm ra vẻ chúng không dính líu gì đến chế độ Việt Gian Cộng sản trong nước. Và thời điểm hiện nay ở hải ngoại này không ai thấy chúng nói năng một chút gì đến tội ác của bọn Việt Gian Cộng sản, mà chúng chỉ bịp ra chuyện “Trung quốc hăm dọa sẽ tấn công Việt Nam. Vậy chúng ta (?) phải chống Trung quốc”. {(Quý đọc giả xin tìm đọc lại bài viết của Vân Anh vào ngày Dec 10th, 2010 với tựa đề: “Bắc Kinh - Hà Nội chuẩn Bị Bịp … Mỹ!” (và thế giới), đã được đăng tải trên nhiều diễn đàn điện tử. Trong bài viết vào năm ngoái Vân Anh đã đoán trước ý đồ của Bắc Kinh và Hà Nội muốn gì!. Vậy ngay thời điểm này (tháng 6 năm 2011) Hà Nội la làng là “Bắc Kinh chiếm biển, chiếm đất Việt Nam” và Bắc Kinh “hăm dọa tấn công Việt Nam” chỉ là trò hề của Hà Nội muốn chạy tội bán nước và tự đánh bóng cho chúng mà thôi. Vì muốn tiêu diệt tập đoàn Sô Vanh Bắc Kinh, thì trước nhất toàn dân Việt phải quyết tâm tiêu diệt tập đoàn Việt Gian Cộng sản bán nước. Hoặc giả phải tiêu diệt cả hai tập đoàn Việt Gian và Sô Vanh này cùng một lúc, thì đất nước mới yên bình được)}. Chúng không hề đả động gì đến vấn đề bọn Việt Gian Cộng sản đã là tay sai bán nước, bán dân cho bọn Sô Vanh Bắc Kinh, chúng đã cai trị dân Việt quá bạo tàn trong hơn hơn 60 năm qua ở miền Bắc và 36 năm qua ở miền Nam. Và bọn Việt Gian Cộng sản đội lốt tôn giáo muốn đánh lừa quốc tế và làm cho mọi người Việt trong nước cũng như hải ngoại quên hẳn các hoạt động và thành tích Cộng sản của GHPGVNTN-AQ.
Giả thử ngay bây giờ Cộng sản bị tiêu diệt, thì bọn “công an trọc đầu Cộng sản Vạn Hạnh” này có thể thoát nạn để tiếp tục hoạt động gây uy tín và lãnh đạo GHPGVNTN-AQ. Chúng tin với thành tích bịp bợm “đã” bị Cộng sản “xử tử hình”, có “thành tích” “đốt người” rồi gọi là “tự thiêu”, có “thành tích” giết hàng chục nghìn người dân Huế vô tội vào những ngày tết Mậu Thân (1968). Bọn “sư công an” cũng còn nhiều “thành tích” “được” Cộng sản “bỏ tù” và lại có tiếng tăm với hải ngoại quốc tế, thì chính quyền mới sẽ không dám hỏi tội chúng. Nhưng chúng đã nhầm to. Nhân dân trong nước đã biết rõ ràng mặt thật của chúng, và sẽ thẳng tay xử tội bọn này chứ không phải người Việt hải ngoại. Vả lại khi thời thế thay đổi, thì chính sách Hoa Kỳ, cũng như các nước có “bang giao với Hà Nội vì nhu cầu lợi nhuận”, họ cũng sẽ quay lưng bỏ rơi Hà Nội. Người Việt Nam nói chung lúc đó họ sẽ vùng lên tiêu diệt những gì dính líu đến bọn Việt Gian Cộng sản tay sai bán nước cho ngoại bang. Chúng chính là bọn nội thù của dân tộc Việt Nam vậy!.
{[Nhân đây Vân Anh cũng tin cho độc giả khắp nơi trên thế giới được rõ là: Trong tuần vào ngày 26 tháng 6, 2011. Thiếu Tá Liên Thành cựu chỉ huy Cảnh Sát Thừa Thiên - Huế đã tổ chức một buổi ra mắt cuốn sách: “Huế - Thảm Sát Mậu Thân - Tội Ác của Đảng Cộng sản Việt Nam”, quyển sách đưa ra sự thật nhầm tố cáo tội ác của tập đoàn Việt Gian Cộng sản và bọn công an trọc đầu đã can tội giết hàng chục nghìn người dân Huế vào (Tết) năm 1968. Buổi ra mắt sách được tổ chức tại thành phố Santa Ana, miền Nam California Hoa Kỳ. Quyển sách này là tang chứng hùng hồn nhất từ trước đến nay và cũng do chính tác giả (Liên Thành) là người liên hệ trực tiếp bắt và thẩm cung các tên Cộng sản nằm vùng đã nấp dưới cái tên cư sĩ hoặc màu áo “cà sa”.
Để tiện việc mua sách, quý bạn đọc cũng có thể liên lạc trực tiếp tác giả Liên thành ở số điện thoại và địa chỉ Email dưới đây:
Liên Thành
Điện Thoại: (626) 257-1057 .
Điện thư: biendongmientrung@yahoo.com
Một điều cần nói ra đây nửa là tác giả Liên Thành và một số người Việt lẫn Mỹ cũng đang thành lập một “Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam” ra tòa án Quốc Tế. Nhưng trước nhất là cần sự giúp đỡ của các cộng đồng người Việt tại Mỹ để truy tố các tên công an mặc áo thầy tu (hay cư sĩ) ra các tòa án tại Hoa Kỳ này. Ủy ban này cũng đang cần sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt tị nạn Cộng sản trên khắp thế giới, trong các công việc lớn hơn sau này!.]}
Từ năm 1945 cho đến nay bọn Việt Gian Cộng sản đã dùng hệ thống công an sắc máu và tàn bạo để cai trị người dân Việt, chúng biến cả nước Việt Nam trở thành một cái nhà tù khổng lồ. Những người dân bình thường hay phật tử thì bị “tù” trong các tổ chức trá hình phật giáo của chúng, các tổ chức này đều thuộc về Mặt Trận Tổ Quốc điều hành, chỉ đạo, hay là các tổ chức ngoại vi của Cộng sản. Chẳng hạn như: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang”, “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam”; “Tăng Ðoàn Bảo Vệ Chánh Pháp”, “Liên Hiệp Phụ Nữ”, “Việt Kiều Yêu Nước” ..v.v... Các tổ chức nhằm để “đoàn ngũ hóa” con người đều trực thuộc đảng Việt Gian Cộng sản. Các tổ chức như: “Thiếu Nhi Khăn Quàng Ðỏ”, “Thanh Niên Xung Phong”, “Hội Văn Nghệ” (rất nhiều văn nghệ sĩ tị nạn Cộng sản và vài trung tâm sản suất dĩa nhạc & DVD ở hải ngoại nay đã làm việc cho bọn Việt Gian Cộng sản trong nước cũng vì tiền!); “Hội Nhà Văn”; “Tổng Công Ðoàn Lao Ðộng”, “Hiệp Hội Báo Chí”, và rất nhiều các tổ chức phụ thuộc hay ngoại vi nhỏ hơn đều có ý đồ khép chặt người dân Việt Nam trong mọi thành phần, mọi lứa tuổi đều phải nằm trong các loại “tổ chức” do các cán bộ Việt Gian Cộng sản cầm đầu, chỉ huy, điều khiển.
Bọn công an trọc đầu chúng “điều nghiên” rất kỹ và xử dụng Đức Tin của tôn giáo để “kiểm soát và điều khiển tư tưởng” con người. Những kế sách này đã trở thành một môn khoa học tinh vi. Các cán bộ công an (trọc đầu) chỉ huy điều hành thay vì mặc đồng phục công an, thì nay các tên này chúng mặc áo “cà sa”. Chúng “hướng dẫn, dìu dắt”, hay nói cho đúng là chúng nhồi sọ các đoàn viên, đoàn sinh “phật tử”, và mồm của chúng lúc nào cũng nói những lời đạo đức giả. Những tên công an trọc đầu này chúng có tài mê hoặc mọi người khác nhất là các “đệ tử đồng đạo”; các đoàn sinh, đoàn viên “phật tử”, cho tới lúc chúng nói gì, ra lệnh gì, họ đều răm rắp nghe theo và không ai dám cưỡng lại, và cũng không thể bỏ trốn hay bỏ chạy. Nếu chỉ nhìn chúng một cách phiến diện với những danh từ, danh xưng có vẻ hiền lành “vô tội” như: “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam”, “Tăng Ðoàn Bảo vệ Chánh Pháp”, “Lực lượng cư sĩ bảo vệ Phật Giáo” ..v.v… khiến không một chính quyền nào có đủ lý do hành chính hay chính trị để cấm cản hay ngăn chặn các tổ chức “vô vị lợi” của chúng hoạt động.
xin xem tiếp bài 2
Bài 2
Từ sau ngày 30/4/1975 bọn (đảng) Việt Gian Cộng sản đã chuẩn bị, cũng như soạn thảo những kế hoạch rất tinh vi, để chúng thành lập một chế độ sắc máu khác là: dùng hẳn bọn “công an trọc đầu” để thay thế hệ thống “công an Cộng sản”. Nói một cách khác là chúng dùng lý luận na ná giống “phật giáo” thay thế lý thuyết Cộng sản, để “đoàn ngũ hóa” tư tưởng người dân Việt vốn câm thù Cộng sản đến tận xương tuỷ, nhất là người dân miền Bắc. Đây là một kế sách trường kỳ mà bọn (đảng) Việt Gian Cộng sản chúng đã tốn nhiều năm cũng như hàng nghìn chuyên viên về tôn giáo, hàng nhiều chục tỷ đô la để nghiên cứu và thực hiện cho bằng được kế sách này. Nói một cách đúng hơn là chúng dùng các nhân sự “công an trọc đầu” (“công an trọc đầu” chúng là những đảng viên trung kiên trong nghành công an của Việt Gian Cộng sản, nhưng chúng được đào tạo nhiều năm về phật học để cạo đầu giả sư) để thay thế đám “công an Cộng sản”[(“công an Cộng sản” là những thành phần công an thường, nghĩa là thành phần công an nhưng không được đào tạo thêm kiến thức về nghiệp vụ để len lỏi vào phật giáo). Chúng ta phải hiểu rõ ở điểm này để phân biệt đám “công an trọc đầu” và “công an Cộng sản” khác nhau ở điểm nào. Người viết nhớ lại trước đây dân miền Nam có lưu truyền câu nói: “Nhất Đĩ Nhì Sư” thì có lẽ cũng rất hợp để chỉ đến đám “công an trọc đầu” này chăng?!)]. Chúng muốn biến tư tưởng của Phật Giáo để thay thế lý thuyết Cộng sản và chúng dự tính rằng kế hoạch này sẽ cứu sống chế độ Việt Gian cũng như nhân sự Cộng sản. Vì chúng đoán trước rằng lý thuyết Cộng sản Marxist Leninist trước hay sau gì cũng phải bị vứt vào xọt rác, vì sự tiến hóa của xã hội con người và thế giới này sẽ không còn cái gọi là lý thuyết “quái thai, quái đản” Cộng sản nửa!.
Tư tưởng dẫn hành động!. Vì hiểu như vậy cho nên chúng làm như vậy để chúng có thể thoát nạn nếu trong tương lai Việt Nam có một cuộc Cách Mạng bạo lực dẫn đến lật đổ chế độ Việt Gian Cộng sản của chúng, thì bọn “công an trọc đầu” chúng vẫn còn tồn tại vì chiếc áo “cà sa” và một mớ lý thuyết Marxist Leninist trộn lẫn tôn giáo, thì đương nhiên chúng sẽ sống để tiếp tục lừa bịp và lường gạt với cái “đầu trọc” của chúng. Những nhân sự công an trọc đầu Cộng sản này sẽ tiếp tục hoạt động, chúng sẽ dùng tôn giáo như một lợi khí để đánh phá các Chính Quyền Quốc Gia như chúng đã từng làm trong thời Đệ Nhất (và Nhị) Cộng Hòa và cho đến khi chúng có thể cướp được chính quyền. Hoặc giả các chính quyền non trẻ vì yếu kém về mặt tư tưởng và có thể “điều đình” để chia quyền với chúng.
Và một tiên đoán của chúng nữa là thế giới Tây phương nhất là Âu Châu (Cộng sản) sẽ phải ủng hộ chúng và làm đối lập chính trị để ép người Quốc Gia phải nhượng bộ vì quyền lợi kinh tế, thương mại. Chúng ta thấy bọn Việt Gian Cộng sản luôn luôn bán rẻ quyền lợi của Quốc Gia để cho đảng (Cộng sản) của chúng được tồn tại với quyền hành. Như vậy trong trường hợp Tây phương ủng hộ cho bọn GHPGVNTN-AQ làm đối lập chính trị, thì chúng sẽ tách “giáo hội” của chúng ra và để cho một nhóm ủng hộ “dân chủ đa nguyên kiểu Cộng sản” trong “diễn biến hòa bình” ra mặt hoạt động. Như thế thì bọn Việt Gian Cộng sản cũng như bọn công an trọc đầu vẫn ở bên trong nắm quyền điều hành, nhưng chỉ có khác là chúng thay thế cái tên Việt Gian Cộng sản, sang “dân chủ đa nguyên Cộng sản” hay một cái tên khác cho bớt đi màu máu gian ác Việt Gian Cộng sản của chúng.
Trước đây và bây giờ thì thế giới này ai ai cũng biết là: GHPGVNTN-AQ vẫn trung kiên gắn bó với đảng Việt gian Cộng sản và là một tổ chức ngoại vi hàng đầu của đảng Việt Gian Cộng sản từ mấy chục năm qua. Vậy làm sao các chính phủ Tây phương (không cộng sản) nhất là Hoa Kỳ họ lại không biết!? Và các ác thế lực kể cả đám Mỹ Gian có muốn giúp bọn Việt Gian xóa bỏ cái tên Việt Gian, thì chúng nó làm sao có thể xóa được?. Các bài được viết ra từ nhiều năm qua cho đến nay cũng chính là bản án tử hình cho các tên “công an trọc đầu”, các đồng chí văn nô phản tỉnh giả vờ, các tên bồi bút cò mồi, các tên đối lập cuội giả vờ chống đảng, các tên chuyên làm tay sai cho bọn phản dân hại nước Việt Gian Cộng sản, thì tất nhiên chúng sẽ phải chết theo đảng Việt Gian của chúng, khi cuộc cách mạng bạo lực nổ ra trong thời gian không xa tới đây!.
Dân Tộc Việt Nam không thể khoan hồng các tên được nêu ra trên và dưới đây (dù cho chúng đã chết) chúng là thứ Việt Gian Cộng sản nguy hiểm, lưu manh, giảo quyệt, gian trá, độc ác và khốn nạn nhất. Các “đồng chí” Việt Gian Cộng sản phải bị toàn dân Việt Nam tiêu diệt không thể khác!. Ngày nay khi các “đồng chí” thấy cái chết sẽ đến nơi thì mới ăn năn hối hận có lẽ đã muộn!. Toàn dân Việt chúng tôi cần phải tiêu diệt bọn cầm đầu Việt Gian Cộng sản, bọn tư bản đỏ, bọn “sư công an trọc đầu” ở trong và ngoài nước. Nhưng quan trọng không kém là các tên “sư” “công an trọc đầu” ở hải ngoại nhất là các tên đang sống tại Hoa Kỳ, đang hoạt động đắc lực cho bọn Việt Gian Cộng sản như:
HT (Hòa Thượng) Thích Huyền Quang; HT Thích Quảng Độ; TT (Thượng Tọa) Thích Quảng Liên; Thích Thái Hòa; Thích Thiện Hạnh; Thích Thanh Tứ; Thích Chơn Thành; Thích Nguyên Đạt; Thích Nguyên Trí; Thích Hộ Giác; Thích Chánh Lạc; Thích Quảng Ba; HT Thanh Cát; HT Thích Mãn Giác (đã chết); HT Thích Giác Nhiên; HT Thích Đức Niệm (đã chết); Thích Trí Chơn, Thích Huyền Dung, HT Thích Chánh Lạc; HT Thích Chơn Thành; Thích Quãng Thanh; HT Thích Nguyên Đạt; Thích Pháp Châu; HT Thích Hạnh Đạo; TT Thích Nhật Minh; TT Thích Phước Thuận; TT Thích Tín Nghĩa; TT Thích Minh Mẫn;Thích Pháp Châu; TT Thích Nguyên Siêu; HT Thích Thiện Hương; Thích Chơn Trí đổi pháp danh là Thích Nguyên Siêu; HT Thích Thuyền Ấn, TT Thích Minh Tuyên, Thích Minh Nguyên, HT Thiền sư Thích Nhất Hạnh, TT Thích Quãng Thanh; TT ThíchViên Lý, TT Thích Minh Dung; TT Thích Hạnh Tuấn; TT Thích Chơn Trí; TT Thích Giác Đẳng; TT Thích MinhTồn; TT Thích Giác Sĩ; Pháp Sư Thích Giác Đức; TT Thích Trí Lãng; TT Thích Vân Đàm; TT Thích Minh Hồi; TT Thích Thông Niệm; ĐĐ (Đại Đức) Thích Tâm Tường; TT Thích Minh Tuyên; TT Thích Minh Trí; HT Thích Đạo Quang; TT Thích Giác Sơn; TT Thích Vân Đàm; TT Thích Minh Nguyên; TT Thích Minh Tuyên ..v.v…
Các “sư nữ” thì có: Ni Sư Nữ Như Hòa; Ni Sư Nữ Ni Hoa Tâm; Ni Sư Như Ngọc; Ni Sư Như Nguyện; Ni cô Tịnh Nguyện; Sư cô Diệu Hạnh; Sư cô Diệu Cảnh; Sư cô Diệu Hằng; Sư cô Diệu Chơn; Sư cô Diệu Ninh; Sư cô Diệu Ngộ; Ni sư Diệu Từ; Ni sư Diệu Hương; Ni cô Diệu Ngọc; Ni cô Diệu Tánh; Ni cô Quãng Tâm tức Ni cô Đàm Hương, Ni Cô Liên Nhẫn ..v.v…
Nếu đọc giả để mắt đến các tên “công an trọc đầu” từ những năm sau năm 1975 cho đến nay, đọc giả sẽ thấy các tên “công an trọc đầu” nhất là tên Thích Quảng Ðộ, Thích Trí Siêu, Thích Tuệ Sỹ của đảng bộ Vạn Hạnh được đề cao với hải ngoại là những người có học, có bằng cấp ở Hoa Kỳ, để gây uy tín “trí thức” cho GHPGVNTN-AQ. Ban tuyên huấn tôn giáo hải ngoại cũng không quên tạo ra cảnh tượng bịp bợm rằng: Trí Siêu và Tuệ Sỹ bị Cộng sản “xử tử hình” nhưng không có lý do và cũng không chết. Chúng hô hoán rằng bị “tù” (kiểu Đoàn Viết Hoạt) mấy chục năm nhưng không ai thấy chúng ở tù bao giờ. Để rồi cuối cùng vài năm trước đây hai tên này đã “đăng ký” lấy vợ và giả từ cuộc đời “tuyệt thực chống đảng”. Tóm lại chúng giả vờ chứ chúng không hề hoạt động gì gọi là chống Cộng để đến nỗi bị tử hình, hay bị tù như chúng đã từng bịp bợm nói láo trong nhiều năm qua.
link (Đoàn viết Hoạt-nón tai bèo-VN “Con đường tiến đến dân chủ…)
VG Đoàn Viết Hoạt thăm Ba Lan năm 1999. vợ VG Trần Thị Thức cùng tháp tùng. Hình chụp với tổng thống Ba Lan đương nhiệm Aleksander Kwaśniewski.
Cộng sản gian ngoan ở điểm chúng vẫn sống nhăn, vẫn làm việc, vẫn bóp méo lịch sử, vẫn bình an vô sự. Nhưng mồm thổi lửa của chúng thì hô hoán rằng chúng bị tử hình “oan”, bị xử án “oan” và bị xử tù “oan”, mà thật ra không có gì xảy ra cho các tên công an trọc đầu này cả!. Nhưng có điều khôi hài nhất là bọn nằm vùng và bọn cò mồi của bọn cán bộ Cộng sản trọc đầu cũng như có tóc ở hải ngoại, vẫn trơ tráo trắng trợn tung hô, tâng bốc và đề cao rằng đó là những nhà “tranh đấu” nhân quyền, những người “giám” dấn thân tranh đấu với Cộng sản!. Chúng tưởng như vậy là đã đánh lừa được người hải ngoại phải tôn vinh bọn ngu dốt nhưng tham lam này, và các chính khách người Mỹ (chứ không phải Mỹ Gian) phải đổi hướng chính sách, chính trị để o bế bọn Việt Gian Cộng sản. Nếu chúng ta để ý thì chúng ta sẽ thấy bộ máy tuyên truyền báo chí Cộng sản và tuyên vận Cộng sản ở hải ngoại loan truyền những chuyện bịa đặt này. Nhưng ở trong nước hoàn toàn yên lặng, người dân không ai nghe thấy những tên Quảng Ðộ, Huyền Quang, Võ Văn Ái, Ðoàn Viết Hoạt ..v.v.. và các “sư” là ai?. Chúng nghĩ rằng chúng gây “uy tín” và “tiếng tăm” với hải ngoại để tạo một cái “vốn chính trị”. Cái vốn chính trị này sẽ giúp GHPGVNTN-AQ an toàn, để xóa bỏ cái tên “công an quốc doanh” hay “công an trọc đầu” và sau này người Quốc Gia sẽ không thể hỏi tội làm tay sai cho Cộng sản của chúng.
Một điểm cần phải nói trong thời điểm này là các cuộc cách mạng đã bùng nổ từ Trung Đông đang lan sang Á Châu, chính trị toàn cầu đã thay đổi. Thì sớm muộn gì chế độ tàn bạo, tàn ác Việt Gian Cộng sản cũng phải sụp đổ không thể khác. Chúng hiểu như vậy nên chúng làm ra vẻ chúng không dính líu gì đến chế độ Việt Gian Cộng sản trong nước. Và thời điểm hiện nay ở hải ngoại này không ai thấy chúng nói năng một chút gì đến tội ác của bọn Việt Gian Cộng sản, mà chúng chỉ bịp ra chuyện “Trung quốc hăm dọa sẽ tấn công Việt Nam. Vậy chúng ta (?) phải chống Trung quốc”. {(Quý đọc giả xin tìm đọc lại bài viết của Vân Anh vào ngày Dec 10th, 2010 với tựa đề: “Bắc Kinh - Hà Nội chuẩn Bị Bịp … Mỹ!” (và thế giới), đã được đăng tải trên nhiều diễn đàn điện tử. Trong bài viết vào năm ngoái Vân Anh đã đoán trước ý đồ của Bắc Kinh và Hà Nội muốn gì!. Vậy ngay thời điểm này (tháng 6 năm 2011) Hà Nội la làng là “Bắc Kinh chiếm biển, chiếm đất Việt Nam” và Bắc Kinh “hăm dọa tấn công Việt Nam” chỉ là trò hề của Hà Nội muốn chạy tội bán nước và tự đánh bóng cho chúng mà thôi. Vì muốn tiêu diệt tập đoàn Sô Vanh Bắc Kinh, thì trước nhất toàn dân Việt phải quyết tâm tiêu diệt tập đoàn Việt Gian Cộng sản bán nước. Hoặc giả phải tiêu diệt cả hai tập đoàn Việt Gian và Sô Vanh này cùng một lúc, thì đất nước mới yên bình được)}. Chúng không hề đả động gì đến vấn đề bọn Việt Gian Cộng sản đã là tay sai bán nước, bán dân cho bọn Sô Vanh Bắc Kinh, chúng đã cai trị dân Việt quá bạo tàn trong hơn hơn 60 năm qua ở miền Bắc và 36 năm qua ở miền Nam. Và bọn Việt Gian Cộng sản đội lốt tôn giáo muốn đánh lừa quốc tế và làm cho mọi người Việt trong nước cũng như hải ngoại quên hẳn các hoạt động và thành tích Cộng sản của GHPGVNTN-AQ.
Giả thử ngay bây giờ Cộng sản bị tiêu diệt, thì bọn “công an trọc đầu Cộng sản Vạn Hạnh” này có thể thoát nạn để tiếp tục hoạt động gây uy tín và lãnh đạo GHPGVNTN-AQ. Chúng tin với thành tích bịp bợm “đã” bị Cộng sản “xử tử hình”, có “thành tích” “đốt người” rồi gọi là “tự thiêu”, có “thành tích” giết hàng chục nghìn người dân Huế vô tội vào những ngày tết Mậu Thân (1968). Bọn “sư công an” cũng còn nhiều “thành tích” “được” Cộng sản “bỏ tù” và lại có tiếng tăm với hải ngoại quốc tế, thì chính quyền mới sẽ không dám hỏi tội chúng. Nhưng chúng đã nhầm to. Nhân dân trong nước đã biết rõ ràng mặt thật của chúng, và sẽ thẳng tay xử tội bọn này chứ không phải người Việt hải ngoại. Vả lại khi thời thế thay đổi, thì chính sách Hoa Kỳ, cũng như các nước có “bang giao với Hà Nội vì nhu cầu lợi nhuận”, họ cũng sẽ quay lưng bỏ rơi Hà Nội. Người Việt Nam nói chung lúc đó họ sẽ vùng lên tiêu diệt những gì dính líu đến bọn Việt Gian Cộng sản tay sai bán nước cho ngoại bang. Chúng chính là bọn nội thù của dân tộc Việt Nam vậy!.
{[Nhân đây Vân Anh cũng tin cho độc giả khắp nơi trên thế giới được rõ là: Trong tuần vào ngày 26 tháng 6, 2011. Thiếu Tá Liên Thành cựu chỉ huy Cảnh Sát Thừa Thiên - Huế đã tổ chức một buổi ra mắt cuốn sách: “Huế - Thảm Sát Mậu Thân - Tội Ác của Đảng Cộng sản Việt Nam”, quyển sách đưa ra sự thật nhầm tố cáo tội ác của tập đoàn Việt Gian Cộng sản và bọn công an trọc đầu đã can tội giết hàng chục nghìn người dân Huế vào (Tết) năm 1968. Buổi ra mắt sách được tổ chức tại thành phố Santa Ana, miền Nam California Hoa Kỳ. Quyển sách này là tang chứng hùng hồn nhất từ trước đến nay và cũng do chính tác giả (Liên Thành) là người liên hệ trực tiếp bắt và thẩm cung các tên Cộng sản nằm vùng đã nấp dưới cái tên cư sĩ hoặc màu áo “cà sa”.
Để tiện việc mua sách, quý bạn đọc cũng có thể liên lạc trực tiếp tác giả Liên thành ở số điện thoại và địa chỉ Email dưới đây:
Liên Thành
Điện Thoại: (626) 257-1057 .
Điện thư: biendongmientrung@yahoo.com
Một điều cần nói ra đây nửa là tác giả Liên Thành và một số người Việt lẫn Mỹ cũng đang thành lập một “Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam” ra tòa án Quốc Tế. Nhưng trước nhất là cần sự giúp đỡ của các cộng đồng người Việt tại Mỹ để truy tố các tên công an mặc áo thầy tu (hay cư sĩ) ra các tòa án tại Hoa Kỳ này. Ủy ban này cũng đang cần sự giúp đỡ của cộng đồng người Việt tị nạn Cộng sản trên khắp thế giới, trong các công việc lớn hơn sau này!.]}
Từ năm 1945 cho đến nay bọn Việt Gian Cộng sản đã dùng hệ thống công an sắc máu và tàn bạo để cai trị người dân Việt, chúng biến cả nước Việt Nam trở thành một cái nhà tù khổng lồ. Những người dân bình thường hay phật tử thì bị “tù” trong các tổ chức trá hình phật giáo của chúng, các tổ chức này đều thuộc về Mặt Trận Tổ Quốc điều hành, chỉ đạo, hay là các tổ chức ngoại vi của Cộng sản. Chẳng hạn như: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang”, “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam”; “Tăng Ðoàn Bảo Vệ Chánh Pháp”, “Liên Hiệp Phụ Nữ”, “Việt Kiều Yêu Nước” ..v.v... Các tổ chức nhằm để “đoàn ngũ hóa” con người đều trực thuộc đảng Việt Gian Cộng sản. Các tổ chức như: “Thiếu Nhi Khăn Quàng Ðỏ”, “Thanh Niên Xung Phong”, “Hội Văn Nghệ” (rất nhiều văn nghệ sĩ tị nạn Cộng sản và vài trung tâm sản suất dĩa nhạc & DVD ở hải ngoại nay đã làm việc cho bọn Việt Gian Cộng sản trong nước cũng vì tiền!); “Hội Nhà Văn”; “Tổng Công Ðoàn Lao Ðộng”, “Hiệp Hội Báo Chí”, và rất nhiều các tổ chức phụ thuộc hay ngoại vi nhỏ hơn đều có ý đồ khép chặt người dân Việt Nam trong mọi thành phần, mọi lứa tuổi đều phải nằm trong các loại “tổ chức” do các cán bộ Việt Gian Cộng sản cầm đầu, chỉ huy, điều khiển.
Bọn công an trọc đầu chúng “điều nghiên” rất kỹ và xử dụng Đức Tin của tôn giáo để “kiểm soát và điều khiển tư tưởng” con người. Những kế sách này đã trở thành một môn khoa học tinh vi. Các cán bộ công an (trọc đầu) chỉ huy điều hành thay vì mặc đồng phục công an, thì nay các tên này chúng mặc áo “cà sa”. Chúng “hướng dẫn, dìu dắt”, hay nói cho đúng là chúng nhồi sọ các đoàn viên, đoàn sinh “phật tử”, và mồm của chúng lúc nào cũng nói những lời đạo đức giả. Những tên công an trọc đầu này chúng có tài mê hoặc mọi người khác nhất là các “đệ tử đồng đạo”; các đoàn sinh, đoàn viên “phật tử”, cho tới lúc chúng nói gì, ra lệnh gì, họ đều răm rắp nghe theo và không ai dám cưỡng lại, và cũng không thể bỏ trốn hay bỏ chạy. Nếu chỉ nhìn chúng một cách phiến diện với những danh từ, danh xưng có vẻ hiền lành “vô tội” như: “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam”, “Tăng Ðoàn Bảo vệ Chánh Pháp”, “Lực lượng cư sĩ bảo vệ Phật Giáo” ..v.v… khiến không một chính quyền nào có đủ lý do hành chính hay chính trị để cấm cản hay ngăn chặn các tổ chức “vô vị lợi” của chúng hoạt động.
Sở dĩ người viết phải trình bày rườm rà như trên để quý bạn đọc (trẻ) có thể
tránh những cạm bẫy của bọn ma giáo công an trọc đầu, và nếu không thì rất nhiều
người trẻ tuổi sống và lớn lên ở hải ngoại không có một chút gì kinh nghiệm về
các tên công an trọc đầu. Quý bạn sẽ bị mắc vào các ổ lưới nhện đỏ của chúng.
Các phụ huynh dễ tính (đa phần vì bận rộn với công việc làm ăn ở cái xứ vật chất,
máy móc này) vô tình khuyến khích con em gia nhập các đoàn thể, tổ chức với
danh xưng có vẻ hiền lành, vô hại như trên. Nhưng một khi đã mắc vào mạng lưới
nhện đỏ và bị chúng “đoàn ngũ hóa” (là hình thức nô lệ tân thời), thì bản tính
cá nhân cũng thay đổi rất nhanh. Các đảng viên, đoàn viên, hội viên, tín đồ, phật
tử đều có thể mau chóng trở thành những kẻ cuồng tín, quá khích, say mê, bị mê
hoặc và không còn suy nghĩ sáng suốt. Các bậc phụ huynh vì thờ ơ không chú ý,
đã có thể để con em của mình cho bọn ma quỷ công an trọc đầu lợi dụng. Và khi
quý vị biết ra thì có lẽ đã quá muộn. Các chính quyền của các quốc gia sở tại
cũng nên ghi nhớ những tổ chức nêu trên để các lực lượng có cách đối phó, khi
các vấn đề phức tạp “sẽ xảy ra” chính ngay trên đất nước của quý vị. Nhắc lại
là “Sẽ Xảy Ra”.
Nếu nói đến các tổ chức, thì tổ chức gọi là: “Phật Tử” được thành lập rất nhiều. Ta có thể kể ra đây điển hình một số đơn vị “Gia Đình Phật Tử” (GĐPT) như: “GÐPT Long Hoa”, “GÐPT miền Thiện Minh”, “GÐPT miền Quảng Ðức”, “GÐPT Chánh Pháp”, GÐPT Chánh Tín, GÐPT Pháp Bảo, GÐPT Pháp Hoa, GÐPT Ấn Quang, GÐPT Vạn Hạnh ..v.v... Và nhiều nữa không kể hết ra trong một bài viết ngắn này được. Tư nhiều năm qua các đơn vị GÐPTVN đã trở thành một mạng lưới nhện giăng bủa khắp nước Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới để thu gom các thanh, thiếu niên, thiếu nhi phật tử, để giáo dục, nhồi sọ, tẩy não và huấn luyện chúng trở thành những “phật tử” có tinh thần hăng say, cuồng tín và sẵn sàng “tử” (chết) vì “giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất” (GHPGVNTN!). Nếu thống kê thì các đơn vị và đoàn viên GÐPTVN tại Việt Nam hiện nay là 2,560 đơn vị và 450,000 đoàn viên, 291,000 đoàn sinh. Tại Âu Châu 132 đơn vị, 10,570 đoàn viên và 1,890 đoàn sinh. Tại Canada 40 đơn vị, 1,650 đoàn viên và 1,700 đoàn sinh. Tại Úc Châu 60 đơn vị, 1,860 đoàn viên và 1,990 đoàn sinh. Tại Hoa Kỳ 580 đơn vị, 68,850 đoàn viên và 61,500 đoàn sinh. Tổng cộng có 3,372 đơn vị và 172,655 huynh trưởng GÐPT tại Việt Nam và trên thế giới (xin đọc giả nhớ cho là con số thống kê trên đây chưa hẳn đúng lắm, và có thể con số tăng thêm hay cũng có thể giảm đi bớt vì các nhu cầu hoạt động của các tổ chức này. Một điều mà không ai để ý đặt câu hỏi là: “do đâu mà các tổ GĐPTVN này đã phát triễn một cách quá nhanh như vậy). Đây cũng là một bằng chứng các đơn vị của tổ chức gọi là “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” (GÐPTVN) thuộc GHPGVNTN vẫn được bọn Việt Gian Cộng sản hiện nay cho phép hoạt động công khai trong nước, trong Mặt Trận Tổ Quốc, trong vấn đề đào tạo thanh, thiếu niên phật tử trở thành một thứ cán bộ Cộng sản trá hình kiểu mới.
Nhân đây người viết cũng xin mở một dấu ngoặc để nói về “Gia Đình Phật Tử” (GĐPT). Từ trước đến nay các “cư sĩ công an” đã lầm lẫn khi khoe rằng: “vào năm 1935 ông Lê Đình Thám đã tổ chức và lập ra “gia đình phật tử”, cho đến năm 1969 thì ông Thám qua đời”. Thật ra thì Lê Ðình Thám là một cán bộ Cộng sản loại trung kiên, Thám từng là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Liên Khu 5 của Cộng sản Việt Minh. Từ năm 1945 Việt Gian Cộng sản đã tổ chức Gia Ðình Phật Tử được rập khuôn theo tổ chức hướng đạo. Hướng Đạo ngày xưa thì bao gồm luôn cả gia đình, anh chị em của các thanh, thiếu niên hướng đạo. Sau năm 1975 đảng Cộng sản tổ chức lại “giáo hội Phật Giáo Cứu Quốc” và “Gia Ðình Phật Tử - Việt Nam” (có thêm chữ Việt Nam). Nhìn vào thì người ta tưởng rằng: “Cộng sản cho tự do tín ngưỡng”. Nhưng không phải như vậy, Cộng sản chỉ dùng Phật giáo và Phật tử làm chiêu bài và thực chất của chúng thì các cán bộ công an giả làm tăng, ni để lãnh đạo “đoàn ngũ hóa”, và điều khiển lèo lái tinh thần, tư tưởng của các gia đình phật tử và thanh, thiếu niên Phật tử.
Nếu bạn đọc nào đã được đọc cuốn sách “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” (GÐPTVN) (do Hà Nội ấn hành), thì các bạn sẽ thấy chúng công khai khoe ra mục đích chính của chúng là: “đoàn ngũ hóa” các gia đình và thanh thiếu niên phật tử để đưa họ vào những mục tiêu chính trị và đấu tranh đổ máu cho chúng”. Chúng bịa ra những gương tranh đấu, tự thiêu, thánh tử đạo với những tên như: Nhất Chi Mai, Quách thị Trang, Thích Tiêu Diểu, Thích Thanh Tuệ, Thích Nguyên Hương, ni cô Diệu Quang, Thích Thiện Mỹ, Thích Quang Hương ..v.v.. của thời trước năm 1975 mà chúng gọi là “tranh đấu”, chúng phá hoại, đánh phá chính quyền quốc gia từ 1963 đến 1975, để cho thanh, thiếu niên phật tử tiêm nhiễm và noi theo mong làm một thứ “anh hùng Cộng sản” hay các “công an thánh tử đạo”!. Cũng trong cuốn sách này, bọn “công an trọc đầu” và “cư sĩ công an” chúng công khai tôn vinh những khuôn mặt Cộng sản sắc máu như: (Thích) Tố Liên, Ðôn Hậu, Minh Châu, Nhất Hạnh, Trí Quang, Trí Thủ, Huyền Quang, Thiện Hoa, Tâm Giác, Trí Tịnh, Thiện Minh, Thiện Siêu ... Chúng gọi giai đoạn 1963-1975 (mà “GHPGVNTNAQ” đã nằm vùng đánh phá các chính quyền quốc gia miền Nam và đón Cộng sản vào chiếm miền Nam năm 1975), là: “Thời Kỳ Dấn Thân và Tái Ổn Ðịnh 1963-1975”. Chính Lê Ðình Thám đã khoe và đội “thầy” Thích Trí Quang Phạm Văn Bồng lên tận mây.
{[Bác sĩ Lê Ðình Thám có một người con trai tên là Lê Ðình Duyên làm dân biểu Việt Nam Cộng Hòa. Một người con trai khác tên là Lê Ðình Luân. Trước 1975, ông Lê Đình Luân là Đại tá Phòng Nhì (Quân Báo) trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 30/4/1975, khi cộng sản vào chiếm Sài Gòn, ông Luân hiểu sự tàn bạo dã man của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, ông Lê Đình Luân đã tự tử, nhưng ông được các binh sĩ dưới quyền của ông cứu sống. Sau đó như hàng triệu người; ông Luân bị Cộng sản bắt đi Tù Cải Tạo. Cũng trong năm này Lê Ðình Thám đã từ Bắc vào “tiếp thu” Viện Pasteur ở Sài Gòn. Đến năm 1977, biết con mình ở tù ông Thám đến trại tù cải tạo thăm con trai là ông Lê Đình Luân.
Bài 2B
Khi biết có bố (Lê Đình Thám) đến thăm; thì ông Luân một người căm thù và kinh tởm Cộng sản, ông Luân đã ra gặp bố mình. Khi thấy mặt bố (Lê Ðình Thám), ông Luân quỳ xuống lạy ông Thám 3 lạy và nói với ông Lê Đình Thám rằng: “Tôi lạy ông 3 lạy để trả ân nghĩa tình Cha, Con và cũng 3 lạy này là để đoạn tuyệt với ông từ đây. Và từ nay trở đi, ân tình gián đoạn mỗi người một ngả, xem như tôi và ông không còn liên hệ gia đình gì nửa!”. Nói xong; ông Luân quay lưng đi vào trong trại. Nếu chịu nhận là cha con, thì một cán bộ Cộng sản cao cấp như Lê Ðình Thám có thể bảo lãnh cho ông Luân được về sớm. Nhưng Đại tá Luân đã không hèn, và không thèm cái thứ ân huệ Cộng sản đó, dù đó là bố đẻ ra ông Luân. Ðại tá Luân đã bị Cộng sản giam cầm khoảng 15 năm và đã qua Mỹ theo chương trình H.O. Từ khi sang Mỹ cho đến nay, không biết hiện nay ông Luân như thế nào!. (Nếu ông Lê Đình Luân còn sống thì người viết chân thành chúc ông Luân và gia quyến được bình an). Nhưng các con ông Luân đều thành danh. (Chuyện của Đại tá Lê Đình Luân sau này có một đám bịp dựng lại câu chuyện này và gán câu chuyện này cho anh cựu Đại úy “nhà văn quân đội” họ Phan. Nhưng tiếc thay anh “nhà văn quân đội” họ Phan tư cách đã hèn thì làm sao có đủ khí khái của một kẻ Sỉ, một Quân Nhân như ông Luân?
Đến mãi năm 1998 thì GHPGVNTNAQ mới “đẻ” ra được cái tên “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” (GĐPTVN) và đưa lên nhóm này lên sân khấu chính trị hải ngoại. Ðảng Việt Gian Cộng sản và GHPGVNTNAQ sẽ dùng “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” như một tổ chức chính trị “có tí ti màu sắc “phật giáo”. Nhưng thời thế đã thay đổi quá nhanh vào những năm cuối thập niên 90’s, sau khi “chủ nghĩa bách chiến bách thắng Mác Lê Nin” ở Nga sụp đổ, ngay cả đảng Việt Gian Cộng sản cũng đã hết quyền hành để lừa bịp, thì làm sao bọn công an trọc đầu còn có thể chỉ huy được ai?!, và chúng không thể thi hành được bất cứ âm mưu, thủ đoạn chính trị “có tí ti màu sắc phật giáo” nào. Trong khi đó thì tên “công an trọc đầu” Trí Quang Phạm Văn Bồng và tập thể “công an” trong cái gọi là: “GHPGVNTNAQ” đã có tham vọng đặt một nền “tôn giáo công an trị” trên đất nước Việt Nam, mà chúng gọi đó là: “xây dựng một triều đại giống như nhà Lý ở thế kỷ 11”. (Bài trước người viết có nói đến và ngày nay thỉnh thoảng bạn đọc cũng thấy chúng đã nhắc đi nhắc lại trên các hệ thống diễn đàn điện tử này). Nhưng bọn “sư” công an Cộng sản này chúng đã tham lam, ngu dốt, thì làm sao chúng có thể biết “tu” là gì!, mà chúng đòi bắt chước các tăng sĩ nhà Lý?!.
Nếu nói đến các tổ chức, thì tổ chức gọi là: “Phật Tử” được thành lập rất nhiều. Ta có thể kể ra đây điển hình một số đơn vị “Gia Đình Phật Tử” (GĐPT) như: “GÐPT Long Hoa”, “GÐPT miền Thiện Minh”, “GÐPT miền Quảng Ðức”, “GÐPT Chánh Pháp”, GÐPT Chánh Tín, GÐPT Pháp Bảo, GÐPT Pháp Hoa, GÐPT Ấn Quang, GÐPT Vạn Hạnh ..v.v... Và nhiều nữa không kể hết ra trong một bài viết ngắn này được. Tư nhiều năm qua các đơn vị GÐPTVN đã trở thành một mạng lưới nhện giăng bủa khắp nước Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới để thu gom các thanh, thiếu niên, thiếu nhi phật tử, để giáo dục, nhồi sọ, tẩy não và huấn luyện chúng trở thành những “phật tử” có tinh thần hăng say, cuồng tín và sẵn sàng “tử” (chết) vì “giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất” (GHPGVNTN!). Nếu thống kê thì các đơn vị và đoàn viên GÐPTVN tại Việt Nam hiện nay là 2,560 đơn vị và 450,000 đoàn viên, 291,000 đoàn sinh. Tại Âu Châu 132 đơn vị, 10,570 đoàn viên và 1,890 đoàn sinh. Tại Canada 40 đơn vị, 1,650 đoàn viên và 1,700 đoàn sinh. Tại Úc Châu 60 đơn vị, 1,860 đoàn viên và 1,990 đoàn sinh. Tại Hoa Kỳ 580 đơn vị, 68,850 đoàn viên và 61,500 đoàn sinh. Tổng cộng có 3,372 đơn vị và 172,655 huynh trưởng GÐPT tại Việt Nam và trên thế giới (xin đọc giả nhớ cho là con số thống kê trên đây chưa hẳn đúng lắm, và có thể con số tăng thêm hay cũng có thể giảm đi bớt vì các nhu cầu hoạt động của các tổ chức này. Một điều mà không ai để ý đặt câu hỏi là: “do đâu mà các tổ GĐPTVN này đã phát triễn một cách quá nhanh như vậy). Đây cũng là một bằng chứng các đơn vị của tổ chức gọi là “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” (GÐPTVN) thuộc GHPGVNTN vẫn được bọn Việt Gian Cộng sản hiện nay cho phép hoạt động công khai trong nước, trong Mặt Trận Tổ Quốc, trong vấn đề đào tạo thanh, thiếu niên phật tử trở thành một thứ cán bộ Cộng sản trá hình kiểu mới.
Nhân đây người viết cũng xin mở một dấu ngoặc để nói về “Gia Đình Phật Tử” (GĐPT). Từ trước đến nay các “cư sĩ công an” đã lầm lẫn khi khoe rằng: “vào năm 1935 ông Lê Đình Thám đã tổ chức và lập ra “gia đình phật tử”, cho đến năm 1969 thì ông Thám qua đời”. Thật ra thì Lê Ðình Thám là một cán bộ Cộng sản loại trung kiên, Thám từng là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Liên Khu 5 của Cộng sản Việt Minh. Từ năm 1945 Việt Gian Cộng sản đã tổ chức Gia Ðình Phật Tử được rập khuôn theo tổ chức hướng đạo. Hướng Đạo ngày xưa thì bao gồm luôn cả gia đình, anh chị em của các thanh, thiếu niên hướng đạo. Sau năm 1975 đảng Cộng sản tổ chức lại “giáo hội Phật Giáo Cứu Quốc” và “Gia Ðình Phật Tử - Việt Nam” (có thêm chữ Việt Nam). Nhìn vào thì người ta tưởng rằng: “Cộng sản cho tự do tín ngưỡng”. Nhưng không phải như vậy, Cộng sản chỉ dùng Phật giáo và Phật tử làm chiêu bài và thực chất của chúng thì các cán bộ công an giả làm tăng, ni để lãnh đạo “đoàn ngũ hóa”, và điều khiển lèo lái tinh thần, tư tưởng của các gia đình phật tử và thanh, thiếu niên Phật tử.
Nếu bạn đọc nào đã được đọc cuốn sách “Gia Đình Phật Tử Việt Nam” (GÐPTVN) (do Hà Nội ấn hành), thì các bạn sẽ thấy chúng công khai khoe ra mục đích chính của chúng là: “đoàn ngũ hóa” các gia đình và thanh thiếu niên phật tử để đưa họ vào những mục tiêu chính trị và đấu tranh đổ máu cho chúng”. Chúng bịa ra những gương tranh đấu, tự thiêu, thánh tử đạo với những tên như: Nhất Chi Mai, Quách thị Trang, Thích Tiêu Diểu, Thích Thanh Tuệ, Thích Nguyên Hương, ni cô Diệu Quang, Thích Thiện Mỹ, Thích Quang Hương ..v.v.. của thời trước năm 1975 mà chúng gọi là “tranh đấu”, chúng phá hoại, đánh phá chính quyền quốc gia từ 1963 đến 1975, để cho thanh, thiếu niên phật tử tiêm nhiễm và noi theo mong làm một thứ “anh hùng Cộng sản” hay các “công an thánh tử đạo”!. Cũng trong cuốn sách này, bọn “công an trọc đầu” và “cư sĩ công an” chúng công khai tôn vinh những khuôn mặt Cộng sản sắc máu như: (Thích) Tố Liên, Ðôn Hậu, Minh Châu, Nhất Hạnh, Trí Quang, Trí Thủ, Huyền Quang, Thiện Hoa, Tâm Giác, Trí Tịnh, Thiện Minh, Thiện Siêu ... Chúng gọi giai đoạn 1963-1975 (mà “GHPGVNTNAQ” đã nằm vùng đánh phá các chính quyền quốc gia miền Nam và đón Cộng sản vào chiếm miền Nam năm 1975), là: “Thời Kỳ Dấn Thân và Tái Ổn Ðịnh 1963-1975”. Chính Lê Ðình Thám đã khoe và đội “thầy” Thích Trí Quang Phạm Văn Bồng lên tận mây.
{[Bác sĩ Lê Ðình Thám có một người con trai tên là Lê Ðình Duyên làm dân biểu Việt Nam Cộng Hòa. Một người con trai khác tên là Lê Ðình Luân. Trước 1975, ông Lê Đình Luân là Đại tá Phòng Nhì (Quân Báo) trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 30/4/1975, khi cộng sản vào chiếm Sài Gòn, ông Luân hiểu sự tàn bạo dã man của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, ông Lê Đình Luân đã tự tử, nhưng ông được các binh sĩ dưới quyền của ông cứu sống. Sau đó như hàng triệu người; ông Luân bị Cộng sản bắt đi Tù Cải Tạo. Cũng trong năm này Lê Ðình Thám đã từ Bắc vào “tiếp thu” Viện Pasteur ở Sài Gòn. Đến năm 1977, biết con mình ở tù ông Thám đến trại tù cải tạo thăm con trai là ông Lê Đình Luân.
Bài 2B
Khi biết có bố (Lê Đình Thám) đến thăm; thì ông Luân một người căm thù và kinh tởm Cộng sản, ông Luân đã ra gặp bố mình. Khi thấy mặt bố (Lê Ðình Thám), ông Luân quỳ xuống lạy ông Thám 3 lạy và nói với ông Lê Đình Thám rằng: “Tôi lạy ông 3 lạy để trả ân nghĩa tình Cha, Con và cũng 3 lạy này là để đoạn tuyệt với ông từ đây. Và từ nay trở đi, ân tình gián đoạn mỗi người một ngả, xem như tôi và ông không còn liên hệ gia đình gì nửa!”. Nói xong; ông Luân quay lưng đi vào trong trại. Nếu chịu nhận là cha con, thì một cán bộ Cộng sản cao cấp như Lê Ðình Thám có thể bảo lãnh cho ông Luân được về sớm. Nhưng Đại tá Luân đã không hèn, và không thèm cái thứ ân huệ Cộng sản đó, dù đó là bố đẻ ra ông Luân. Ðại tá Luân đã bị Cộng sản giam cầm khoảng 15 năm và đã qua Mỹ theo chương trình H.O. Từ khi sang Mỹ cho đến nay, không biết hiện nay ông Luân như thế nào!. (Nếu ông Lê Đình Luân còn sống thì người viết chân thành chúc ông Luân và gia quyến được bình an). Nhưng các con ông Luân đều thành danh. (Chuyện của Đại tá Lê Đình Luân sau này có một đám bịp dựng lại câu chuyện này và gán câu chuyện này cho anh cựu Đại úy “nhà văn quân đội” họ Phan. Nhưng tiếc thay anh “nhà văn quân đội” họ Phan tư cách đã hèn thì làm sao có đủ khí khái của một kẻ Sỉ, một Quân Nhân như ông Luân?
Đến mãi năm 1998 thì GHPGVNTNAQ mới “đẻ” ra được cái tên “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” (GĐPTVN) và đưa lên nhóm này lên sân khấu chính trị hải ngoại. Ðảng Việt Gian Cộng sản và GHPGVNTNAQ sẽ dùng “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” như một tổ chức chính trị “có tí ti màu sắc “phật giáo”. Nhưng thời thế đã thay đổi quá nhanh vào những năm cuối thập niên 90’s, sau khi “chủ nghĩa bách chiến bách thắng Mác Lê Nin” ở Nga sụp đổ, ngay cả đảng Việt Gian Cộng sản cũng đã hết quyền hành để lừa bịp, thì làm sao bọn công an trọc đầu còn có thể chỉ huy được ai?!, và chúng không thể thi hành được bất cứ âm mưu, thủ đoạn chính trị “có tí ti màu sắc phật giáo” nào. Trong khi đó thì tên “công an trọc đầu” Trí Quang Phạm Văn Bồng và tập thể “công an” trong cái gọi là: “GHPGVNTNAQ” đã có tham vọng đặt một nền “tôn giáo công an trị” trên đất nước Việt Nam, mà chúng gọi đó là: “xây dựng một triều đại giống như nhà Lý ở thế kỷ 11”. (Bài trước người viết có nói đến và ngày nay thỉnh thoảng bạn đọc cũng thấy chúng đã nhắc đi nhắc lại trên các hệ thống diễn đàn điện tử này). Nhưng bọn “sư” công an Cộng sản này chúng đã tham lam, ngu dốt, thì làm sao chúng có thể biết “tu” là gì!, mà chúng đòi bắt chước các tăng sĩ nhà Lý?!.
Một số phật tử và cư sĩ trong giai đoạn 1963-1975 và cho đến ngày nay cũng
không hiểu những thủ đoạn độc ác, nham hiểm, lưu manh của bè lũ cán bộ Việt
Gian Cộng sản chúng đang ẩn núp dưới chiếc áo cà sa và tự xưng là: tăng ni
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang” và các giáo hội, các tổ chức
phụ thuộc. Hi vọng rằng sau 1975 và ngày nay, mọi người phật tử, cư sĩ thuần
thành đã sáng suốt và hiểu rằng: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Ấn
Quang và các tổ chức phụ thuộc do cán bộ Cộng sản dựng lên và núp dưới chiêu
bài Phật giáo để hoạt động Cộng sản, đoàn ngũ hóa người Việt trong mục đích
đánh phá tổ quốc và dân tộc Việt Nam cũng như áp đặt độc tài tôn giáo, “tam bảo
nô công an trị tân thời” lên đầu người dân Việt Nam thật thà, chân chất. Chúng
không bao giờ thay đổi bản chất Cộng sản của chúng. Chúng trá hình dưới hình thức
“Ðạo Phật” thánh thiện, với các danh xưng có vẻ hiền lành của Phật giáo. Chúng
muốn biến toàn thể Phật tử hiền lành thành các Ðảng viên Cộng sản sắc máu của
chúng, để tiếp tục khống chế người dân Việt dưới bàn tay sắt công an trị tân thời
này!.
Quý đọc giả không nên để bọn công an Cộng sản đoàn ngũ hóa con em chúng ta dưới bất cứ một danh hiệu gì và hiền lành đến đâu. Gia nhập vào tổ chức “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” cũng như các tổ chức “tôn giáo” khác, thì sẽ có ngày con cháu chúng ta cũng sẽ làm vật hy sinh, cuồng tín và đánh phá lại ngay Quốc Gia Dân Tộc của mình. Nhất là các bạn trẻ chúng ta không nên làm “thánh tử đạo”, cho những mục đích chính trị bá láp của đám “GHPGVNTN Cộng sản”. Dân tộc và chính quyền Việt Nam sau này đương nhiên không thể để cho bọn Việt Gian Cộng sản tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, dưới bất kỳ danh xưng nào. Các đảng viên cộng sản nào hiện nay không tin thì cứ đợi một thời gian nửa xem sao cho biết!. Đầu thế kỷ 21 này thế giới đã và đang đổi thay, ngay cả các quốc gia cho là văn minh như Hoa Kỳ này cũng phải có những cuộc cách mạng âm thầm để đổi thay từ bên trong và thay đổi từ bên trên xuống. Cho nên mọi hoạt động về chính trị và tôn giáo trong nước Việt Nam sau này phải có sự minh bạch, rõ ràng. Không thể và không có sự mập mờ, úp úp, mở mở của bọn ma quỷ công an trọc đầu ẩn núp ở trong chùa, dấu kín trong lớp áo thầy tu, hay cà sa, hay trong bất cứ tổ chức với danh xưng “hiền lành” nào, cũng phải bị toàn dân Việt Nam tiêu diệt tận gốc.
Trong nước Việt Nam tự do và độc lập sau này người ta sẽ chú trọng và ngăn cấm mọi hình thức “đoàn ngũ hóa” để kiểm soát và điều khiển tư tưởng các thanh thiếu niên, thiếu nhi. Một điều quan trọng trong Hiến Pháp của một nước Việt Nam sau này là cấm ngặt mọi hình thức đoàn ngũ hóa trói buộc các công dân Việt Nam ở mọi lứa tuổi cho các mục đích chính trị, đảng phái, giáo hội, và quan trọng là sự chia rẽ sự đoàn kết dân tộc. Ðoàn ngũ hóa người dân cũng có nghĩa là nô lệ hóa theo kiểu “Tam Bảo Nô tân thời” mà bài trước người viết đã có nói sơ qua (Vân Anh-“Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô” (2). Bởi vì họ xưng danh các tổ chức, giáo hội, đảng phái, thường như một phương tiện quyền lực khổng lồ để đè bẹp các cá nhân (Hoành Nô) nhỏ bé, và nếu Chính Quyền không bảo vệ người dân, thì ai sẽ là người đứng ra để bảo vệ họ trước những quyền lực khổng lồ kia ?!. Công dân Việt Nam các bạn phải hiểu rằng không nên nhẹ dạ gia nhập bất cứ các tổ chức tôn giáo, giáo hội, hội đoàn, đảng phái nào có tính cách bó buộc và “hoành nô” các bạn. Vì khi đã vào những tổ chức này thì các bạn không thể nào rút chân ra được nửa. Các đoàn viên, hội viên hay đảng viên sau khi gia nhập, các bạn sẽ bị mê hoặc đến cuồng tín, các bạn sẽ bị dụ dỗ, bị ép buộc phải làm những việc sai trái với ý muốn, trái với lương tâm, nguy hiểm cho bản thân, làm hại người khác và sẽ bị mang tội phản bội tổ quốc, phản bội dân tộc. Và nhất là lý thuyết Cộng sản thì chúng chẳng có một gốc rễ gì trên mảnh đất Việt Nam cả, và chúng đã phá nước, phá nhà như mấy mươi năm qua mọi người đều nhìn thấy rất rõ!.
Mỗi công dân Việt Nam sau này từ bé đến lớn đều phải được hoàn toàn tự do trong một quốc gia độc lập, không bị trói buộc vào trong bất cứ một tổ chức hay hội đoàn nào có tính cách độc quyền, độc tài, chuyên chế và bịp bợm. Người Việt Nam không cho phép và không chấp nhận bất cứ ai “đoàn ngũ hóa” và “nô” lệ họ để thành những đàn bò dễ bảo hay thành những đám đông cuồng tín, để trở thành những lợi khí hầu phục vụ cho các mục đích chính trị đen tối, bẩn thỉu của những tên ma đầu, lưu manh, tham tiền, tham vật chất, tham dâm dục, tham quyền lực nhưng lại núp dưới những lớp áo thầy tu đạo đức hay núp dưới bóng các tôn giáo thánh thiện.
Tất cả mọi công dân Việt Nam, nhất là giới thanh niên, thanh nữ, thiếu niên, thiếu nhi, đều phải được tự do học hỏi, phát triển trong tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Xã hội phải thống quy dưới một hình thái xã hội có lý tưởng, có phương châm, có tổ chức và có quy tắc, nghĩa là phải có một kế hoạch dân chủ hay là một dân chủ xã hội hóa. Và quan trọng là “Dân Chủ” phải gồm các điều kiện toàn dân trực tiếp, tập trung và chân thực, thì Dân Chủ ấy mới có thể vững chắc được. Vậy Dân Chủ không có nghĩa là Rỗng Tuếch như chúng ta đã thấy từ trước đến nay!!!. Mọi kỳ thị và phân biệt chủng tộc, phân biệt tôn giáo, phân biệt địa phương (Bắc, Trung, Nam) đều phải được hoàn toàn xóa bỏ. Từ bậc trung học trở lên các học sinh, sinh viên đều phải học những bộ môn giáo dục thiết thực đến đời sống lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn và quan trọng trong việc xây dựng nền tảng gia đình. Các bậc trung học trở lên, mỗi tuần đều phải có giờ học về triết học, lý thuyết các tôn giáo, đường lối tu tập khác nhau của mỗi tôn giáo lớn. Các môn khoa học siêu hình, khoa học tâm linh để phát triển cơ thể và trí tuệ hướng về để Phục Vụ Con Người, cho nên tự ngàn xưa văn hóa Việt là Văn Hóa Thờ Người. Phải Học, Hiểu và Biết cho rõ sự khác biệt giữa các tôn giáo thiêng liêng và các giáo hội, giáo quyền do những người phàm tục đặt ra các giáo điều, giáo luật. Phải phân biệt rõ ràng thế nào là tông giáo, thế nào là tông quyền. Thế nào là đạo làm người quân tử, thế nào là kẻ tiểu nhân. Thế nào là người Quốc Gia Chân Chính, biết yêu quê hương đất nước, yêu dân tộc!. Cũng như thế nào là bọn Việt Gian Cộng sản bán nước, gian xảo, gian ác, giảo quyệt, tàn ác, bịp bợm, lật lọng.
Vân Anh
Xin xem tiếp bài 3
Bài 3
Ngày 22nd tháng 6; bài 1) được viết ra. Ngày 24th tháng 6; bài 2) được viết ra. Thì hôm qua thứ Hai ngày 27th tháng 6; bà Ngoại trưởng Hillary Clinton tại văn phòng chính của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cho công bố bản phúc trình về “tệ trạng buôn người năm 2011 trên thế giới”. Trong bản phúc trình này có thể nói rằng đây là lần đầu tiên trong hơn ba thập niên qua (hơn 30 năm qua hay là tính từ năm 1975 - 2011), người ta mới thấy một Ngoại trưởng Hoa Kỳ mạnh mẽ lên tiếng chỉ đích danh bọn cầm quyền Việt Gian Cộng sản là bọn Buôn Người. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng xác định rõ ràng rằng: “nhóm cầm quyền Việt Nam chưa hề điều tra một công ty “xuất khẩu lao động” nào về tình trạng buôn người, trong đó phần lớn là công ty quốc doanh hoặc hợp doanh với bọn cầm quyền Hà Nội nắm đa số cổ phần”.
Cũng trong bản phúc trình lần này bộ Ngoại Giao, Hoa Kỳ tiếp tục đặt bọn cầm quyền Hà Nội trong danh sách cần theo dõi, vì bọn cầm quyền hiện nay tại Việt Nam không chứng tỏ được quyết tâm phòng và chống nạn buôn người, nhất là buôn lao động, cũng như bán “Lao Nô” sang các nước khác, mà Vân Anh có nói rõ qua tựa đề của bài viết này Là: “Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô”. Và chúng còn buôn bán “nô lệ” qua nhiều hình thức khác mà người viết chưa tiện nêu ra đây. Vì chúng sẽ thay đổi cách thức “làm ăn”, thì sẽ rất khó cho các chính quyền sở tại hỏi tội chúng trong nay mai.
Toàn bộ bản phúc trình này cho thấy tập đoàn Cộng sản Việt Nam nói nhiều mà không thực hiện. Các nỗ lực “phòng và chống” buôn người có được công bố, nhưng thực chất chỉ là làm cho có lệ. Chẳng hạn, tháng 3 vừa qua (hay là từ đầu tháng 3 năm 2011) Hà Nội đã thông qua đạo luật “phòng chống buôn người”, nhưng “đạo luật” này không đề ra biện pháp trừng trị thủ phạm. Vì sao?!. Dễ hiểu! vì các thủ phạm buôn bán các “nô lệ, nô tì” hầu hết là các đảng viên cao cấp của đảng Việt Gian Cộng sản đang ngồi xổm trên luật, thì làm sao bọn cầm quyền bên dưới dám trừng trị chúng!. Và cuối cùng bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ kết luận: “nhà cầm quyền Hà Nội không cung cấp thông tin để chứng minh các báo cáo rằng; giới thẩm quyền đã truy tố và trừng trị những thủ phạm buôn bán lao động, lao nô trong nhiều năm qua. Do đó, Việt Nam phải bị đặt vào trong “Danh Sách Cần Theo Dõi” lần hai trong hai năm liền.”
Đi kèm với quyết định đưa Việt Nam vào trong danh sách “Cần Theo Dõi”, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra 12 điểm cảnh cáo cho bọn cầm quyền Việt Nam rằng:
1) - Bổ túc luật chống buôn người với luật, lệ và cơ chế cho phù hợp; để bảo đảm rằng luật hình sự ngăn cấm và trừng trị mọi hình thức buôn người!.
2) - Truy tố những kẻ liên can đến buôn bán người lao động, tuyển mộ người với mục đích lao động cưỡng bức, hoặc lường gạt trong việc tuyển người.
3) - Nhận diện các công nhân lao động (xuất cảnh lao động) đã bị cưỡng bức lao động và bảo đảm rằng họ được cung cấp các dịch vụ dành cho họ là các nạn nhân.
4) - Triển khai các thể thức với mục đích trên và huấn luyện cho các giới chức về các thể thức này, kể cả những chỉ dấu về lao động cưỡng bức chẳng hạn, như việc tịch thu sổ thông hành bởi chủ sử dụng lao động hay bởi môi giới.
5) - Tăng cường các nỗ lực để bảo vệ các công nhân xuất cảnh qua những giác thư thỏa thuận với các quốc gia tiếp nhận người, gồm các điều khoản bảo vệ người lao động Việt Nam.
6) - Truy tố hình sự và trừng trị các cơ quan tuyển người được nhà cầm quyền Hà Nội cấp giấy hoạt động, và những môi giới không có giấy phép hoạt động, nhưng đã can dự vào việc lường gạt hay đã thu các khoản phí một cách phi pháp để đưa người Việt Nam đi sang nước ngoài lao động.
7) - Thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng công nhân không bị (nhà cầm quyền Cộng sản) hăm doạ hay trừng trị vì họ đã phản đối điều kiện lao động hay rời bỏ nơi làm việc.
8) - Tăng khả năng cho các công nhân để qua luật pháp và đòi đền bù xứng đáng cho tình trạng bị (bọn Cộng sản) buôn sức lao động của họ.
9) - Tường trình về những nỗ lực lớn hơn trong việc hợp tác chặt chẽ với các chính quyền tiếp nhận người lao động, để điều tra và truy tố các vụ buôn người, đặc biệt là các vụ buôn bán người lao động.
10) - Cải thiện sự phối hợp liên ngành, liên quốc gia trong các nỗ lực chống nạn buôn người.
11) - Cải thiện việc thu thập dữ kiện và chia sẻ dữ kiện về truy tố tội buôn người, đặc biệt là trong các vụ truy tố liên quan đến vấn đề lao động; và
12) - Thực hiện cũng như hỗ trợ cho một chiến dịch nâng cao ý thức cho mọi người, mọi giới về nạn chống buôn người nhắm vào các khách mua vui trong việc mua bán hay làm nô lệ tình dục.
Bản báo cáo của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trên đây cũng đã được hệ thống đài TV Cable News Network (CNN) phát đi vào lúc 3:00 giờ chiều ngày 27 tháng 6 năm 2011.
Như vậy nhìn chung là: Hoa Kỳ đã quyết định và theo dõi “kế sách” buôn người của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cũng như bọn công an trọc đầu đã xử dụng “nô tì” trong các nơi chúng gọi là: “Viện”, “Chùa”. Theo một bản “báo cáo” của “sở điền địa” vùng Maryland cho biết như sau: [(“ ….. chỉ có vài cô “mặc áo lam” (ám chỉ các “cán bộ giả Ni”) từ khoảng tuổi 30 đến 35, đã tậu khoảng 600 (Sáu Trăm không phải Sáu Mươi) mẫu đất, để họ xây lên 3 cái “Bảo Tháp”; lập ra một cái “nghĩa địa” và xây lên một ngôi “chùa”. Và ngôi “chùa” này được mang tên là “chùa B ”)]. Tóm lại bọn công an trọc đầu này chúng biết một mà không biết hai, và cái “ngu” của chúng là chúng đã cướp tiền xương máu, mồ hôi của người dân Việt Nam trong nước rồi tẩu tán sang Hoa Kỳ (và các nước) để mua bất động sản (xây chùa, dựng tượng) ở nhiều quốc gia trên thế giới này. Chúng mở “chùa” cũng là một cơ sở buôn bán và chuyển ngân của chúng. Một số người đang làm việc cho thành phố nói trên có cho biết: “Chùa” này cũng là một cơ sở kinh doanh “nấu” “bán” và phân phối về các món “ăn chay”, các món “chay” ở đây đã được nấu lên đến 200 món ăn khác nhau.
Quý đọc giả nên biết rằng các món “ăn chay” nấu rất cầu kỳ và vô cùng nghệ thuật và phải có tay nghề rất cao mới có thể nấu được các món “chay” này!. Ví dụ các món “chay” như: “bún bò Huế chay”; “sườn xào xả ớt chay”; “cá kho tộ chay”; “thịt heo quay chay”; “phở áp chảo chay”; “xá xíu chay”; “mì quảng tôm cua chay” ..v.v… và như trên có nói là khoảng 200 món “chay” như vậy; và tất cả phải nấu bằng đậu phụ (tàu hủ ky). Nhưng từ mùi vị, chất béo đều phải giống như các món ăn Mặn. Chỉ riêng tên gọi cho các món ăn “chay” ở trên thôi; chúng ta có thể thấy các tên “ni, sư” này là đám Công An 100% chúng chuyên ăn mặn, và chúng chỉ cạo đầu mặc vào chiếc áo Cà Sa để che mắt thiên hạ thế thôi!. Cái “khẩu nghiệp ăn” của chúng còn vọng tưởng quá nặng; thì làm sao chúng có thể “tu” hay “hành” cho được?!. Điểm quan trọng cần phải nêu ra đây nửa là, hệ thống các nhà “chùa” (của Vẹm Bắc Kinh và Hà Nội) còn vướn thêm một tội nửa: “thiết lập hệ thống (nấu và phân phối) buôn bán thực phẩm (Food Franchise) mà không phải qua sở kiểm soát lương thực, thực phẩm Hoa Kỳ”.
Câu hỏi nửa đặt ra là các “ni” trong tuổi “con nít” này; thì tiền ở đâu ra để cho vài cô “ni” có tiền mà tậu (mua) đến những 600 mẫu đất?!. Nếu chính quyền Maryland đòi xem giấy chứng nhận về tài sản trước kia ở đâu đến, thì các cô “ni” này sẽ trả lời ra sao?!. Theo luật hiện hành của Mỹ, thì tiền mặt và tài sản của bất cứ từ đâu. Nếu không thể chứng minh bằng giấy tờ, thì xem như số tài sản đó được làm ra từ nguồn lợi bất chính và trốn thuế, các khoản tiền này phải bị tịch thu và xung vào công quỷ của thành phố, của tiểu bang hoặc liên bang. Nếu là “tiền quyên góp” của “bá tánh”; thì các cô “ni” này có phải chứng minh bằng giấy tờ?. Nhưng hầu hết các chính quyền tiểu bang cũng như liên bang Mỹ, từ nhiều năm qua họ đã không đòi hỏi bất cứ loại giấy tờ gì liên quan đến bất động sản của các “nhà chùa” của Vẹm ở Mỹ này!. Tại sao? tại vì chưa đến lúc họ hỏi (tội) thế thôi. Để đến khi họ “hỏi” (tội) thì bọn công an trọc đầu này cũng khó mà “bưng” (bê) cả cái “chùa” để chạy đi nơi khác. Nhưng cho dù có “chạy”, thì các “Ni” của “chú ba” cũng thừa quyền lực để “triệu hồi” các tên “tăng không chấp hành nội quy” đúng mức. Và sau đó các tên này có thể bị trả về Hà Nội để trị tội đã bị “địch” hủ hóa.
Như vậy thì nhắm mắt người ta cũng thừa biết là nhóm “Ni Nhân Dân Tình Báo Sở” đang điều hành đám công an trọc đầu của Hà Nội ở hải ngoại, chứ không phải chính thức Hà Nội hay mấy anh công an trọc đầu trong nước. Hóa ra từ mấy thập niên qua người ta mới biết là các em “Ni” được đào tạo rất kỹ và được Bắc Kinh ưu ái gởi sang nước ngoài từ nhiều ngã đường khác nhau, nhưng tụ điểm là “gặp nhau ở Mỹ” để …. mở “chùa”. Nếu bạn đọc nào để mắt đến chuyện vừa nói ở trên, thì bạn đọc sẽ thấy: “bồ tát” Đôn Hậu đã từng ăn nằm bên Tàu nhiều năm và nói sỏi tiếng Tàu; “bồ tát” Quảng Độ xuất bản cuốn “Phật Quang Đại Tự Điển dầy 18 nghìn trang, nhà in ở Đài Loan và “bồ tát” cũng đã ăn nằm bên Tàu quá lâu, nên cuối cùng “thánh tăng” Quảng Độ chỉ “xuất bản” được có 7 nghìn trang, còn 11 nghìn trang kia không biết “ngài thánh tăng” vứt đi đâu mất tiêu; “bồ tát” Quảng Độ (Đặng Phúc Tuệ) cũng đã đi về Bắc Kinh như đi chợ, nhiều lần trong nhiều năm. Các “bồ tát” trên đây có lẽ cũng đã “mọc rễ” rất to ở bên Tàu cũng không có gì là lạ. “Phật tử kiêm cư sĩ kiêm thiền sĩ” Võ Văn Ái (cùng cô vợ bé người Anh cao lêu nghêu) cũng đã ăn nằm bên Tàu nhiều lần, Ái cũng vừa từ Tàu sang lại Pháp cách nay không lâu. Riêng “phật tử kiêm cư sĩ kiêm thiền sĩ” Võ Văn Ái cùng cô vợ bé người Anh của Ái, thì người viết không hiểu nổi là: “Ái và vợ bé của Ái đang làm việc cho ai?!”. Này nhé! Ái là dân Pháp gốc Việt, vợ Bé của Ái là dân Anh nói tiếng Việt, tháng 5 vừa qua Võ Văn Ái được các “dân biểu” nước Ý “anh minh vĩ đại” “vinh danh” và tặng giải thưởng cho Ái. Ái cũng là bạn thân của các “cư sĩ huynh trưởng phật tử” ở rải rác trong các nhà “chùa” hiện nay tại Hoa Kỳ. Vậy đố các “đồng chí trọc đầu” đang ở Việt Nam, có biết “phát ngôn viên” của “viện hóa đạo” Võ Văn Ái đang làm việc cho ai? và có lợi gì?!. Nếu phải kể ra các tên công an trọc đầu cũng như có tóc người Việt đã nhiều năm ăn nằm bên Tàu, thì thiết nghĩ vài trang giấy này có lẽ không thể ghi đủ hết tên của bọn chúng ra đây.
Điều này không lạ đối với những người đã hiểu biết nhiều về bọn Việt Gian bán nước. Chúng bán bất cứ cái gì đã có trên đất nước Việt Nam, miễn sao chúng vẫn ngồi xổm trên quyền hành và pháp luật, để chúng tiếp tục thẳng tay vơ vét công sức cũng như tài sản của người dân nhiều hơn nửa. Nhưng của thiên thì phải trả cho địa. Tiền phi nghĩa chúng đang “đầu tư bất động sản” ở Mỹ này rồi cũng sẽ không có cánh mà bay đi, rồi chúng cũng sẽ trắng tay và còn có thể vào tù khi sách lược của Mỹ thay đổi. Hà Nội cũng nên học thêm chữ “ngờ” về sách lược của Mỹ đối với Hà Nội. Hà Nội cũng nên học chữ “ngờ” đối với chính sách ngoại giao hoàn toàn đã thay đổi của Hoa Kỳ, khi bà Ngoại trưởng Clinton đã “signal” cho Hà Nội rằng: Các anh (Hà Nội) đến lúc nên kiếm một nơi nào đó để “retire” đi là vừa, và cái “signal” đó là bản báo cáo “buôn người” của Hà Nội ở trên đã là giấy “báo tử” cho Hà Nội rồi cũng nên. Chúng ta cũng nên chờ xem các tay được gọi bằng một cái tên rất kêu, đó là “dòng chính” của Hà Nội. Các tay này đã len lỏi vào trong guồng máy của Mỹ và đã làm việc “hữu hiệu” đến đâu!!!. Hay cũng chỉ để làm “ông chủ” ở các nơi chỉ chuyên chuyện “cởi truồng để bưng Cà Phê”, hoặc “cởi truồng để nhảy (stripper) trong các quán “cà phê” tại những vùng đông người Việt cư ngụ như: Nam và Bắc tiểu bang California chẳng hạn.
Thiết nghĩ các văn phòng của bộ Tư Pháp của các tiểu bang này phải có những biện pháp mạnh tay để trừng trị các tên “ma cô, đầu trâu, mặt ngựa”; đã bày trò “tồi bại và vô luân” nói trên trong các cộng đồng người Việt. Các cơ quan công quyền của bộ Tư Pháp Hoa Kỳ phải chứng tỏ Uy Quyền và Liêm Chính của nước Mỹ; và cũng để làm gương cho các sắc dân khác trên nước Mỹ bây giờ và sau này. Thì tình trạng “bắt buộc” những cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê” phải được chấm dứt ngay lập tức. Nghĩa là phải giam tù các tên “đầu nậu, chủ chốt” liên quan đến các đường dây buôn dâm, bán dâm với các hình thức “quán cà phê khiêu dâm” này, chứ không chỉ “phạt vạ” bằng hiện kim. Nếu bộ Tư Pháp cũng như các cơ quan an ninh Hoa Kỳ không thể làm được như vậy, thì “uy quyền” luật pháp của nước Mỹ sẽ bị thách đố và xem thường, đời sống tươi đẹp của xã hội Hoa Kỳ xem như không còn giá trị gì nửa.
Những điều Vân Anh viết ra ở trên!. Nếu đúng với Chân Giá Trị trong tinh thần của đất nước văn minh Hoa Kỳ này, thì Hiến Pháp và Luật Pháp của Hoa Kỳ phải được áp dụng một cách triệt để và phải công khai thi hành cho đến nơi đến chốn. Hoa Kỳ phải chứng tỏ là một nước lớn; văn minh để dẫn đạo các nước nhỏ với các giá trị cao đẹp của nước Mỹ, của đất nước Hiệp Chủng Quốc, mà thế giới hiện nay hầu hết họ đều nhìn vào để ngưỡng mộ và đi theo. Vì phải bảo vệ những giá trị cao đẹp của Hoa Kỳ, nên nước Mỹ không thể có những cảnh các cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê”, trong các khu cộng đồng người Việt. Nhưng nếu quý vị đang điều hành các cơ quan an ninh Hoa Kỳ, nếu muốn hiểu tường tận về vấn đề “mãi dâm, khiêu dâm” (ma túy) kiểu này, thì quý vị nên tìm hỏi “Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và hiện nay là nhóm Việt Tân”. Vì trước đây và bây giờ nhóm này chúng đã điều hành tất cả các đường dây mãi dâm cũng như chuyển ngân rửa tiền và ma tuý (bản báo cáo của cơ quan FBI ở San Francisco có nói rõ vấn đề này. Nên không có chuyện nói oan cho nhóm Mặt trận Hoàng Cơ Minh và Việt Tân) sang Hoa Kỳ, với sự phối hợp bọn Việt Gian Cộng sản trong nước, để đoàn ngũ hoá cũng như đánh phá cộng đồng người Việt tị nạn và đánh phá xã hội Hoa Kỳ bằng ma túy và mãi dâm. Vấn nạn buôn dâm, bán dâm, chuyển ngân rửa tiền, cung cấp ma túy và nay là điều hành tổ chức “cởi truồng khiêu dâm” trong khoảng 40 quán cà phê ở miền Nam California; và hàng vài chục “quán cà phê cởi truồng” ở miền Bắc California cũng như nhiều nơi có đông người Việt cư ngụ ở nhiều tiểu bang khác trên nước Mỹ. Các cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê”, họ chỉ là những nạn nhân đáng thương. Mọi điều hành và đưa các cô gái này từ Việt Nam sang Mỹ hay các nước khác “bưng cà phê”, “nhảy thoát y” (stripper), hay hành nghề “mãi dâm”, đều do nhân sự của nhóm “Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và nay là bọn đầu trâu mặt ngựa Việt Tân cũng như bọn công an trong nước trực tiếp điều hành và điều động. Vì đây là một nguồn lợi lớn cho chúng và nhiều mối lợi khác không tiện nên ra đây.
Cuộc chiến tranh 1865 của Hoa Kỳ là một cuộc chiến tranh Thần Thánh đã vì lòng yêu thương và nghĩa Công Đạo (chứ không phải cuộc “Nội Chiến” - Civil War - như nhiều người lầm tưởng), thì không thể nào ngày hôm nay nước Mỹ đã vì một chút tư lợi, vị kỷ mà quên đi công sức của tiền nhân đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ những lý tưởng cao đẹp cho đất nước này được tồn tại đến ngày hôm nay. Những người lãnh đạo đất nước Hoa Kỳ văn minh này không thể để cho những cảnh “buôn bán cà phê trần truồng”, khiêu dâm dục; hỗn loạn xảy ra cho xã hội Hoa Kỳ này như thế được. Các cơ quan “văn phòng Đạo Đức” của tiểu bang cũng như liên bang (Office of Ethic - State & Fed); Ủy ban Đạo đức của bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (U.S Ethic Department), các Ủy ban Đạo đức của Quốc Hội Hoa Kỳ (Office of Congressional Ethic - OCE) ..v.v.., cần phải ra lệnh điều tra để tìm bắt cho được những kẻ chủ mưu, bày ra các trò “buôn bán cà phê trần truồng”, “mãi dâm”, “ma túy” như đã nói ở trên. Cần phải chấm dứt và chấm dứt ngay bây giờ các sách lược phá hoại nhắm vào văn hóa và dân chúng Hoa Kỳ này.
Văn hóa và văn minh là một trong những điều mà các nhà làm văn hóa Đông hay Tây phải thấu hiểu một cách tường tận, để sau này những nghiên cứu này phải được đưa vào các hệ thống học đường với những kế sách xây dựng đất nước (thế giới) sau này. Riêng các học sinh, sinh viên Việt Nam sau này sẽ phải học và nghiên cứu tập quán, tục lệ truyền thống và nền văn minh cổ xưa của giòng giống Tiểu và Đại Bách Việt và của các sắc tộc địa phương. Cần phải hiểu tại sao Việt Nam lại có truyền thống thờ cúng tổ tiên! (thờ Người, không phải thờ Phật). Truyền thống thờ Người này có phải là mê tín dị đoan như một số người hàm hồ kết luận hay không?. Giòng giống Bách Việt cần phải duy trì và tiếp tục truyền thống thờ cúng tổ tiên (thờ Người) đã có từ hơn 5,000 (5 ngàn năm) trước, truyền thống này người Bách Việt đã có lâu hơn tất cả các tôn giáo đương thời. Học sinh và sinh viên cần phải học hỏi về luật lệ, luật quốc gia và các thứ luật và giáo lý, giáo luật riêng biệt của các đảng phái và các tông giáo.
Cần tìm hiểu tại sao những luật lệ của các “tông giáo”, (không phải quốc gia), đặt ra lại có thể trói buộc những công dân Việt Nam trong vòng nô lệ tinh thần, tâm linh và bóc lột tiền bạc cũng như công sức, thân xác của họ từ nhiều thế kỷ qua. Như hệ thống “tam bảo nô” là một thí dụ điển hình!. Cần phải tìm hiểu tại sao những người cũng mang giòng máu Việt Nam lại có thể trở thành những kẻ nội xâm, nội thù, tàn phá dân tộc, đánh phá tổ quốc Việt Nam một cách không thương tiếc?!. Cần phải tìm hiểu tổ chức chính trị theo các kiểu độc tài đảng phái công an trị, độc tài tôn giáo công an trị, độc tài tham nhũng công an trị. Tại sao các chế độ độc tài phải áp dụng hệ thống công an trị dưới nhiều hình thức và danh xưng, danh hiệu khác nhau?. Cần tìm hiểu tại sao quốc gia mình (hay bất cứ quốc gia nào) phải cần có luật pháp để bảo vệ công dân và các quyền lợi, quyền tự do của công dân. Cần tìm hiểu về các loại chính trị khác nhau. Cần hiểu rõ là tại sao bọn Việt Gian Cộng sản hoạt động chính trị, nhưng chúng lại luôn luôn núp dưới bóng các tông giáo.
Cần tìm hiểu nhiều về lịch sử; về các hình thức xâm lăng đất đai thuộc địa của các thế kỷ trước, tại sao họ lại chủ yếu xâm lăng tinh thần và tín ngưỡng, xâm lăng vào trong tâm não của người dân hiền lành và các thanh thiếu niên. Cần phải giáo dục học sinh và sinh viên hiểu rõ thế nào là đời sống dân chủ, tự do trong tinh thần yêu quê hương, tổ quốc, nòi giống Bách Việt. Tại sao phải kính trọng quyền tự do, dân chủ và tư hữu của người khác.
Cần tìm hiểu tại sao những tên chính trị gia hoạt đầu, mị dân, những tên tham lam ngu dốt lại núp bóng tông giáo để thành lập các “giáo phái chính trị”?. Chúng chỉ nhằm nô lệ hóa, trói buộc con người về nhiều mặt thương mại, kinh tế ..v.v... Chúng bắt tín đồ, đảng viên, phật tử đóng góp tiền tài, sức lực, nô lệ tinh thần và tâm linh, trong khi chúng vẫn vổ ngực hô to dân chủ, bình đẳng tự do với mục đích bịp bợm. Bọn ma đầu, ma giáo “sư” công an trọc đầu, công an cư sĩ chỉ giỏi bịp bợm, những người đang bị Cộng sản kềm kẹp nên ít học và ít suy nghĩ. Khi dân trí tiến bộ và văn minh như những người Việt hải ngoại (khắp nơi) hiện nay; thì bọn ma đầu, ma giáo quốc doanh không thể bịp bợm được nửa. Như vậy chỉ cần phân tích và xử dụng một giai đoạn lịch sử trong 2 thế kỷ 19 và 20 để giáo dục cho học sinh và sinh viên Việt Nam, cũng đủ cho các học sinh, sinh viên Việt Nam có sự hiểu biết sâu rộng về chính trị đa diện và vạch trần sự tàn ác, gian ngoan, hiểm độc của các cuộc xâm lăng tinh thần, xâm lăng thực dân thuộc địa, ngoại xâm và nội thù của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cũng như bè lũ nội thù công an trọc đầu, công an cư sĩ của GHPGVNTNAQ và các tổ chức phụ thuộc ngoại vi trong Mặt Trận Tổ Quốc của Cộng sản.
Học đường và các trường đại học phải tổ chức mở rộng các buổi tranh luận, đấu lý, phân tích giữa các nhóm sinh viên, học sinh về tự do, dân chủ, tôn giáo và nhiều đề tài khác, nhất là phải kể rõ cũng như đưa ra tài liệu, tang chứng về tội ác của tập đoàn Việt Gian Cộng sản trong hơn 60 năm qua trên mảnh đất Việt Nam như thế nào!. Nên đặt câu hỏi tại sao các đoàn thể, đảng phái, tổ chức, giáo hội lại có thể cướp mất quyền tự do dân chủ của người dân Việt bằng cách “đoàn ngũ và nô lệ hóa” họ?. Như đã nói “đoàn ngũ hóa” cũng là một hình thức “nô lệ hóa” và cầm tù con người trong những luật lệ nhỏ hẹp, chứ không phải luật lệ của quốc gia?. Cần phải tranh luận về khả năng lãnh đạo của các tổ chức, đảng phái, cá nhân, nhận tiền bạc và hậu thuẫn từ bên ngoài để khuynh đảo quốc gia, dân tộc và để cướp đi quyền tự do dân chủ của dân Việt qua nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Như vậy khi người dân Việt được giáo dục đầy đủ và có kiến thức tối thiểu về nhiều lãnh vực khác nhau, thì các thanh, thiếu niên (nhi) sẽ trở thành những công dân sống trong tự do dân chủ với thông minh, sáng suốt, hiểu rõ phải trái, hiểu rõ sự thật của nhiều vấn đề. Họ sẽ có đức tin thật trong sáng và thánh thiện nơi các vị Thần, Thánh thiêng liêng mà họ thờ lạy tôn kính. Họ sẽ không bị mắc vào vòng mê tín, dị đoan và nhất là không tin theo những tên ma quỷ, ma giáo Việt Gian Cộng sản núp dưới bóng tông giáo và ẩn nấp sau lưng các vị Chân Sư, Chân tu.
Tín ngưỡng và đức tin là đời sống riêng tư của mỗi người. Mỗi nhà mỗi người và mọi người đều có quyền lựa chọn bất cứ tôn giáo nào họ muốn khi đến tuổi trưởng thành. Không ai, kể cả chính quyền hoặc người hôn phối có quyền xâm phạm đức tin và tín ngưỡng riêng tư của mỗi cá nhân. Không ai có quyền dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc công dân Việt phải tham gia vào bất cứ giáo hội hay tổ chức tôn giáo nào có tính cách “đoàn ngũ hóa, nô lệ hóa” người dân Việt. Cũng không ai có quyền dùng xảo ngôn, xảo ngữ để lừa gạt bịp bợm, lung lạc, lợi dụng thanh thiếu niên và công dân nước Việt Nam về mặt tiền bạc, cũng như dùng quyền lực tôn giáo để thao túng chính trị và làm nhiễu loạn xã hội. Mỗi người Việt Nam đều có quyền sống tự do. Không có tôn giáo, cá nhân hay bất cứ đảng phái, phe nhóm nào được quyền xâm phạm tự do cá nhân của công dân Việt Nam. Tất cả các tổ chức, hội đoàn nào muốn xin phép hoạt động phải được đặt thành vấn đề là có mục đích và dụng ý “đoàn ngũ hóa, nô lệ hóa” người dân Việt hay không?. Phải có quy chế và cam kết rõ ràng về danh xưng, danh hiệu, điều lệ, cương lĩnh cho mọi hình thức như khi ra báo chí, phát thanh, truyền thông, lập hội, lập đảng chính trị và lập giáo hội. Mỗi người không có quyền tự đặt tên, hoặc xử dụng những danh xưng to tát, bất xứng và lố bịch để khiến cho người khác tự nhiên phải xưng hô, xưng tụng mình với các danh hiệu đầy lố lăn cao ngạo.
Ngày nay có những tên bịp bợm, tham lam như quỷ, chúng vừa mới cạo đầu, mặc áo cà sa mà khiến cho những bậc trưởng thượng lớn tuổi phải kính cẩn kêu mình là “Tăng thống”; “Đại lão Hòa thượng”; “Hòa thượng; “thượng tọa”, “đại đức”, và “thưa thầy xưng con” với những tên bất xứng. Nếu không có những biện pháp phòng ngừa ngay từ đầu thì một số người háo danh sẽ làm cho cả xã hội bị “loạn danh xưng”. Ðến đâu người ta sẽ chỉ thấy “đức nầy, ngài nọ, chư tôn” kia, “phật sống”, “thánh sống” ..v.v… Tất cả những người dùng tên các danh nhân, anh hùng liệt sĩ trong lịch sử để đặt tên cho con cái một cách hỗn láo với tiền nhân, với tổ tiên với người trưởng thượng đều phải bị phạt vạ hay phạt tù và không được làm giấy khai sinh. Tất cả những người, trong và ngoài các tổ chức tôn giáo, đảng phái, tự đặt tên cho mình những danh hiệu, danh xưng có tính cách cao ngạo, phạm thượng đều không được chính quyền các cấp thị thực. Những danh xưng bịp bợm hay cao ngạo bất xứng với đều phải đóng một khoản tiền phạt đặc biệt và rất nặng.
Quý đọc giả không nên để bọn công an Cộng sản đoàn ngũ hóa con em chúng ta dưới bất cứ một danh hiệu gì và hiền lành đến đâu. Gia nhập vào tổ chức “Gia Ðình Phật Tử Việt Nam” cũng như các tổ chức “tôn giáo” khác, thì sẽ có ngày con cháu chúng ta cũng sẽ làm vật hy sinh, cuồng tín và đánh phá lại ngay Quốc Gia Dân Tộc của mình. Nhất là các bạn trẻ chúng ta không nên làm “thánh tử đạo”, cho những mục đích chính trị bá láp của đám “GHPGVNTN Cộng sản”. Dân tộc và chính quyền Việt Nam sau này đương nhiên không thể để cho bọn Việt Gian Cộng sản tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, dưới bất kỳ danh xưng nào. Các đảng viên cộng sản nào hiện nay không tin thì cứ đợi một thời gian nửa xem sao cho biết!. Đầu thế kỷ 21 này thế giới đã và đang đổi thay, ngay cả các quốc gia cho là văn minh như Hoa Kỳ này cũng phải có những cuộc cách mạng âm thầm để đổi thay từ bên trong và thay đổi từ bên trên xuống. Cho nên mọi hoạt động về chính trị và tôn giáo trong nước Việt Nam sau này phải có sự minh bạch, rõ ràng. Không thể và không có sự mập mờ, úp úp, mở mở của bọn ma quỷ công an trọc đầu ẩn núp ở trong chùa, dấu kín trong lớp áo thầy tu, hay cà sa, hay trong bất cứ tổ chức với danh xưng “hiền lành” nào, cũng phải bị toàn dân Việt Nam tiêu diệt tận gốc.
Trong nước Việt Nam tự do và độc lập sau này người ta sẽ chú trọng và ngăn cấm mọi hình thức “đoàn ngũ hóa” để kiểm soát và điều khiển tư tưởng các thanh thiếu niên, thiếu nhi. Một điều quan trọng trong Hiến Pháp của một nước Việt Nam sau này là cấm ngặt mọi hình thức đoàn ngũ hóa trói buộc các công dân Việt Nam ở mọi lứa tuổi cho các mục đích chính trị, đảng phái, giáo hội, và quan trọng là sự chia rẽ sự đoàn kết dân tộc. Ðoàn ngũ hóa người dân cũng có nghĩa là nô lệ hóa theo kiểu “Tam Bảo Nô tân thời” mà bài trước người viết đã có nói sơ qua (Vân Anh-“Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô” (2). Bởi vì họ xưng danh các tổ chức, giáo hội, đảng phái, thường như một phương tiện quyền lực khổng lồ để đè bẹp các cá nhân (Hoành Nô) nhỏ bé, và nếu Chính Quyền không bảo vệ người dân, thì ai sẽ là người đứng ra để bảo vệ họ trước những quyền lực khổng lồ kia ?!. Công dân Việt Nam các bạn phải hiểu rằng không nên nhẹ dạ gia nhập bất cứ các tổ chức tôn giáo, giáo hội, hội đoàn, đảng phái nào có tính cách bó buộc và “hoành nô” các bạn. Vì khi đã vào những tổ chức này thì các bạn không thể nào rút chân ra được nửa. Các đoàn viên, hội viên hay đảng viên sau khi gia nhập, các bạn sẽ bị mê hoặc đến cuồng tín, các bạn sẽ bị dụ dỗ, bị ép buộc phải làm những việc sai trái với ý muốn, trái với lương tâm, nguy hiểm cho bản thân, làm hại người khác và sẽ bị mang tội phản bội tổ quốc, phản bội dân tộc. Và nhất là lý thuyết Cộng sản thì chúng chẳng có một gốc rễ gì trên mảnh đất Việt Nam cả, và chúng đã phá nước, phá nhà như mấy mươi năm qua mọi người đều nhìn thấy rất rõ!.
Mỗi công dân Việt Nam sau này từ bé đến lớn đều phải được hoàn toàn tự do trong một quốc gia độc lập, không bị trói buộc vào trong bất cứ một tổ chức hay hội đoàn nào có tính cách độc quyền, độc tài, chuyên chế và bịp bợm. Người Việt Nam không cho phép và không chấp nhận bất cứ ai “đoàn ngũ hóa” và “nô” lệ họ để thành những đàn bò dễ bảo hay thành những đám đông cuồng tín, để trở thành những lợi khí hầu phục vụ cho các mục đích chính trị đen tối, bẩn thỉu của những tên ma đầu, lưu manh, tham tiền, tham vật chất, tham dâm dục, tham quyền lực nhưng lại núp dưới những lớp áo thầy tu đạo đức hay núp dưới bóng các tôn giáo thánh thiện.
Tất cả mọi công dân Việt Nam, nhất là giới thanh niên, thanh nữ, thiếu niên, thiếu nhi, đều phải được tự do học hỏi, phát triển trong tinh thần đoàn kết và hòa hợp dân tộc. Xã hội phải thống quy dưới một hình thái xã hội có lý tưởng, có phương châm, có tổ chức và có quy tắc, nghĩa là phải có một kế hoạch dân chủ hay là một dân chủ xã hội hóa. Và quan trọng là “Dân Chủ” phải gồm các điều kiện toàn dân trực tiếp, tập trung và chân thực, thì Dân Chủ ấy mới có thể vững chắc được. Vậy Dân Chủ không có nghĩa là Rỗng Tuếch như chúng ta đã thấy từ trước đến nay!!!. Mọi kỳ thị và phân biệt chủng tộc, phân biệt tôn giáo, phân biệt địa phương (Bắc, Trung, Nam) đều phải được hoàn toàn xóa bỏ. Từ bậc trung học trở lên các học sinh, sinh viên đều phải học những bộ môn giáo dục thiết thực đến đời sống lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội, nhân văn và quan trọng trong việc xây dựng nền tảng gia đình. Các bậc trung học trở lên, mỗi tuần đều phải có giờ học về triết học, lý thuyết các tôn giáo, đường lối tu tập khác nhau của mỗi tôn giáo lớn. Các môn khoa học siêu hình, khoa học tâm linh để phát triển cơ thể và trí tuệ hướng về để Phục Vụ Con Người, cho nên tự ngàn xưa văn hóa Việt là Văn Hóa Thờ Người. Phải Học, Hiểu và Biết cho rõ sự khác biệt giữa các tôn giáo thiêng liêng và các giáo hội, giáo quyền do những người phàm tục đặt ra các giáo điều, giáo luật. Phải phân biệt rõ ràng thế nào là tông giáo, thế nào là tông quyền. Thế nào là đạo làm người quân tử, thế nào là kẻ tiểu nhân. Thế nào là người Quốc Gia Chân Chính, biết yêu quê hương đất nước, yêu dân tộc!. Cũng như thế nào là bọn Việt Gian Cộng sản bán nước, gian xảo, gian ác, giảo quyệt, tàn ác, bịp bợm, lật lọng.
Vân Anh
Xin xem tiếp bài 3
Bài 3
Ngày 22nd tháng 6; bài 1) được viết ra. Ngày 24th tháng 6; bài 2) được viết ra. Thì hôm qua thứ Hai ngày 27th tháng 6; bà Ngoại trưởng Hillary Clinton tại văn phòng chính của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cho công bố bản phúc trình về “tệ trạng buôn người năm 2011 trên thế giới”. Trong bản phúc trình này có thể nói rằng đây là lần đầu tiên trong hơn ba thập niên qua (hơn 30 năm qua hay là tính từ năm 1975 - 2011), người ta mới thấy một Ngoại trưởng Hoa Kỳ mạnh mẽ lên tiếng chỉ đích danh bọn cầm quyền Việt Gian Cộng sản là bọn Buôn Người. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng xác định rõ ràng rằng: “nhóm cầm quyền Việt Nam chưa hề điều tra một công ty “xuất khẩu lao động” nào về tình trạng buôn người, trong đó phần lớn là công ty quốc doanh hoặc hợp doanh với bọn cầm quyền Hà Nội nắm đa số cổ phần”.
Cũng trong bản phúc trình lần này bộ Ngoại Giao, Hoa Kỳ tiếp tục đặt bọn cầm quyền Hà Nội trong danh sách cần theo dõi, vì bọn cầm quyền hiện nay tại Việt Nam không chứng tỏ được quyết tâm phòng và chống nạn buôn người, nhất là buôn lao động, cũng như bán “Lao Nô” sang các nước khác, mà Vân Anh có nói rõ qua tựa đề của bài viết này Là: “Tam Bảo Điền, Tam Bảo Nô”. Và chúng còn buôn bán “nô lệ” qua nhiều hình thức khác mà người viết chưa tiện nêu ra đây. Vì chúng sẽ thay đổi cách thức “làm ăn”, thì sẽ rất khó cho các chính quyền sở tại hỏi tội chúng trong nay mai.
Toàn bộ bản phúc trình này cho thấy tập đoàn Cộng sản Việt Nam nói nhiều mà không thực hiện. Các nỗ lực “phòng và chống” buôn người có được công bố, nhưng thực chất chỉ là làm cho có lệ. Chẳng hạn, tháng 3 vừa qua (hay là từ đầu tháng 3 năm 2011) Hà Nội đã thông qua đạo luật “phòng chống buôn người”, nhưng “đạo luật” này không đề ra biện pháp trừng trị thủ phạm. Vì sao?!. Dễ hiểu! vì các thủ phạm buôn bán các “nô lệ, nô tì” hầu hết là các đảng viên cao cấp của đảng Việt Gian Cộng sản đang ngồi xổm trên luật, thì làm sao bọn cầm quyền bên dưới dám trừng trị chúng!. Và cuối cùng bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ kết luận: “nhà cầm quyền Hà Nội không cung cấp thông tin để chứng minh các báo cáo rằng; giới thẩm quyền đã truy tố và trừng trị những thủ phạm buôn bán lao động, lao nô trong nhiều năm qua. Do đó, Việt Nam phải bị đặt vào trong “Danh Sách Cần Theo Dõi” lần hai trong hai năm liền.”
Đi kèm với quyết định đưa Việt Nam vào trong danh sách “Cần Theo Dõi”, bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra 12 điểm cảnh cáo cho bọn cầm quyền Việt Nam rằng:
1) - Bổ túc luật chống buôn người với luật, lệ và cơ chế cho phù hợp; để bảo đảm rằng luật hình sự ngăn cấm và trừng trị mọi hình thức buôn người!.
2) - Truy tố những kẻ liên can đến buôn bán người lao động, tuyển mộ người với mục đích lao động cưỡng bức, hoặc lường gạt trong việc tuyển người.
3) - Nhận diện các công nhân lao động (xuất cảnh lao động) đã bị cưỡng bức lao động và bảo đảm rằng họ được cung cấp các dịch vụ dành cho họ là các nạn nhân.
4) - Triển khai các thể thức với mục đích trên và huấn luyện cho các giới chức về các thể thức này, kể cả những chỉ dấu về lao động cưỡng bức chẳng hạn, như việc tịch thu sổ thông hành bởi chủ sử dụng lao động hay bởi môi giới.
5) - Tăng cường các nỗ lực để bảo vệ các công nhân xuất cảnh qua những giác thư thỏa thuận với các quốc gia tiếp nhận người, gồm các điều khoản bảo vệ người lao động Việt Nam.
6) - Truy tố hình sự và trừng trị các cơ quan tuyển người được nhà cầm quyền Hà Nội cấp giấy hoạt động, và những môi giới không có giấy phép hoạt động, nhưng đã can dự vào việc lường gạt hay đã thu các khoản phí một cách phi pháp để đưa người Việt Nam đi sang nước ngoài lao động.
7) - Thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng công nhân không bị (nhà cầm quyền Cộng sản) hăm doạ hay trừng trị vì họ đã phản đối điều kiện lao động hay rời bỏ nơi làm việc.
8) - Tăng khả năng cho các công nhân để qua luật pháp và đòi đền bù xứng đáng cho tình trạng bị (bọn Cộng sản) buôn sức lao động của họ.
9) - Tường trình về những nỗ lực lớn hơn trong việc hợp tác chặt chẽ với các chính quyền tiếp nhận người lao động, để điều tra và truy tố các vụ buôn người, đặc biệt là các vụ buôn bán người lao động.
10) - Cải thiện sự phối hợp liên ngành, liên quốc gia trong các nỗ lực chống nạn buôn người.
11) - Cải thiện việc thu thập dữ kiện và chia sẻ dữ kiện về truy tố tội buôn người, đặc biệt là trong các vụ truy tố liên quan đến vấn đề lao động; và
12) - Thực hiện cũng như hỗ trợ cho một chiến dịch nâng cao ý thức cho mọi người, mọi giới về nạn chống buôn người nhắm vào các khách mua vui trong việc mua bán hay làm nô lệ tình dục.
Bản báo cáo của bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trên đây cũng đã được hệ thống đài TV Cable News Network (CNN) phát đi vào lúc 3:00 giờ chiều ngày 27 tháng 6 năm 2011.
Như vậy nhìn chung là: Hoa Kỳ đã quyết định và theo dõi “kế sách” buôn người của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cũng như bọn công an trọc đầu đã xử dụng “nô tì” trong các nơi chúng gọi là: “Viện”, “Chùa”. Theo một bản “báo cáo” của “sở điền địa” vùng Maryland cho biết như sau: [(“ ….. chỉ có vài cô “mặc áo lam” (ám chỉ các “cán bộ giả Ni”) từ khoảng tuổi 30 đến 35, đã tậu khoảng 600 (Sáu Trăm không phải Sáu Mươi) mẫu đất, để họ xây lên 3 cái “Bảo Tháp”; lập ra một cái “nghĩa địa” và xây lên một ngôi “chùa”. Và ngôi “chùa” này được mang tên là “chùa B ”)]. Tóm lại bọn công an trọc đầu này chúng biết một mà không biết hai, và cái “ngu” của chúng là chúng đã cướp tiền xương máu, mồ hôi của người dân Việt Nam trong nước rồi tẩu tán sang Hoa Kỳ (và các nước) để mua bất động sản (xây chùa, dựng tượng) ở nhiều quốc gia trên thế giới này. Chúng mở “chùa” cũng là một cơ sở buôn bán và chuyển ngân của chúng. Một số người đang làm việc cho thành phố nói trên có cho biết: “Chùa” này cũng là một cơ sở kinh doanh “nấu” “bán” và phân phối về các món “ăn chay”, các món “chay” ở đây đã được nấu lên đến 200 món ăn khác nhau.
Quý đọc giả nên biết rằng các món “ăn chay” nấu rất cầu kỳ và vô cùng nghệ thuật và phải có tay nghề rất cao mới có thể nấu được các món “chay” này!. Ví dụ các món “chay” như: “bún bò Huế chay”; “sườn xào xả ớt chay”; “cá kho tộ chay”; “thịt heo quay chay”; “phở áp chảo chay”; “xá xíu chay”; “mì quảng tôm cua chay” ..v.v… và như trên có nói là khoảng 200 món “chay” như vậy; và tất cả phải nấu bằng đậu phụ (tàu hủ ky). Nhưng từ mùi vị, chất béo đều phải giống như các món ăn Mặn. Chỉ riêng tên gọi cho các món ăn “chay” ở trên thôi; chúng ta có thể thấy các tên “ni, sư” này là đám Công An 100% chúng chuyên ăn mặn, và chúng chỉ cạo đầu mặc vào chiếc áo Cà Sa để che mắt thiên hạ thế thôi!. Cái “khẩu nghiệp ăn” của chúng còn vọng tưởng quá nặng; thì làm sao chúng có thể “tu” hay “hành” cho được?!. Điểm quan trọng cần phải nêu ra đây nửa là, hệ thống các nhà “chùa” (của Vẹm Bắc Kinh và Hà Nội) còn vướn thêm một tội nửa: “thiết lập hệ thống (nấu và phân phối) buôn bán thực phẩm (Food Franchise) mà không phải qua sở kiểm soát lương thực, thực phẩm Hoa Kỳ”.
Câu hỏi nửa đặt ra là các “ni” trong tuổi “con nít” này; thì tiền ở đâu ra để cho vài cô “ni” có tiền mà tậu (mua) đến những 600 mẫu đất?!. Nếu chính quyền Maryland đòi xem giấy chứng nhận về tài sản trước kia ở đâu đến, thì các cô “ni” này sẽ trả lời ra sao?!. Theo luật hiện hành của Mỹ, thì tiền mặt và tài sản của bất cứ từ đâu. Nếu không thể chứng minh bằng giấy tờ, thì xem như số tài sản đó được làm ra từ nguồn lợi bất chính và trốn thuế, các khoản tiền này phải bị tịch thu và xung vào công quỷ của thành phố, của tiểu bang hoặc liên bang. Nếu là “tiền quyên góp” của “bá tánh”; thì các cô “ni” này có phải chứng minh bằng giấy tờ?. Nhưng hầu hết các chính quyền tiểu bang cũng như liên bang Mỹ, từ nhiều năm qua họ đã không đòi hỏi bất cứ loại giấy tờ gì liên quan đến bất động sản của các “nhà chùa” của Vẹm ở Mỹ này!. Tại sao? tại vì chưa đến lúc họ hỏi (tội) thế thôi. Để đến khi họ “hỏi” (tội) thì bọn công an trọc đầu này cũng khó mà “bưng” (bê) cả cái “chùa” để chạy đi nơi khác. Nhưng cho dù có “chạy”, thì các “Ni” của “chú ba” cũng thừa quyền lực để “triệu hồi” các tên “tăng không chấp hành nội quy” đúng mức. Và sau đó các tên này có thể bị trả về Hà Nội để trị tội đã bị “địch” hủ hóa.
Như vậy thì nhắm mắt người ta cũng thừa biết là nhóm “Ni Nhân Dân Tình Báo Sở” đang điều hành đám công an trọc đầu của Hà Nội ở hải ngoại, chứ không phải chính thức Hà Nội hay mấy anh công an trọc đầu trong nước. Hóa ra từ mấy thập niên qua người ta mới biết là các em “Ni” được đào tạo rất kỹ và được Bắc Kinh ưu ái gởi sang nước ngoài từ nhiều ngã đường khác nhau, nhưng tụ điểm là “gặp nhau ở Mỹ” để …. mở “chùa”. Nếu bạn đọc nào để mắt đến chuyện vừa nói ở trên, thì bạn đọc sẽ thấy: “bồ tát” Đôn Hậu đã từng ăn nằm bên Tàu nhiều năm và nói sỏi tiếng Tàu; “bồ tát” Quảng Độ xuất bản cuốn “Phật Quang Đại Tự Điển dầy 18 nghìn trang, nhà in ở Đài Loan và “bồ tát” cũng đã ăn nằm bên Tàu quá lâu, nên cuối cùng “thánh tăng” Quảng Độ chỉ “xuất bản” được có 7 nghìn trang, còn 11 nghìn trang kia không biết “ngài thánh tăng” vứt đi đâu mất tiêu; “bồ tát” Quảng Độ (Đặng Phúc Tuệ) cũng đã đi về Bắc Kinh như đi chợ, nhiều lần trong nhiều năm. Các “bồ tát” trên đây có lẽ cũng đã “mọc rễ” rất to ở bên Tàu cũng không có gì là lạ. “Phật tử kiêm cư sĩ kiêm thiền sĩ” Võ Văn Ái (cùng cô vợ bé người Anh cao lêu nghêu) cũng đã ăn nằm bên Tàu nhiều lần, Ái cũng vừa từ Tàu sang lại Pháp cách nay không lâu. Riêng “phật tử kiêm cư sĩ kiêm thiền sĩ” Võ Văn Ái cùng cô vợ bé người Anh của Ái, thì người viết không hiểu nổi là: “Ái và vợ bé của Ái đang làm việc cho ai?!”. Này nhé! Ái là dân Pháp gốc Việt, vợ Bé của Ái là dân Anh nói tiếng Việt, tháng 5 vừa qua Võ Văn Ái được các “dân biểu” nước Ý “anh minh vĩ đại” “vinh danh” và tặng giải thưởng cho Ái. Ái cũng là bạn thân của các “cư sĩ huynh trưởng phật tử” ở rải rác trong các nhà “chùa” hiện nay tại Hoa Kỳ. Vậy đố các “đồng chí trọc đầu” đang ở Việt Nam, có biết “phát ngôn viên” của “viện hóa đạo” Võ Văn Ái đang làm việc cho ai? và có lợi gì?!. Nếu phải kể ra các tên công an trọc đầu cũng như có tóc người Việt đã nhiều năm ăn nằm bên Tàu, thì thiết nghĩ vài trang giấy này có lẽ không thể ghi đủ hết tên của bọn chúng ra đây.
Điều này không lạ đối với những người đã hiểu biết nhiều về bọn Việt Gian bán nước. Chúng bán bất cứ cái gì đã có trên đất nước Việt Nam, miễn sao chúng vẫn ngồi xổm trên quyền hành và pháp luật, để chúng tiếp tục thẳng tay vơ vét công sức cũng như tài sản của người dân nhiều hơn nửa. Nhưng của thiên thì phải trả cho địa. Tiền phi nghĩa chúng đang “đầu tư bất động sản” ở Mỹ này rồi cũng sẽ không có cánh mà bay đi, rồi chúng cũng sẽ trắng tay và còn có thể vào tù khi sách lược của Mỹ thay đổi. Hà Nội cũng nên học thêm chữ “ngờ” về sách lược của Mỹ đối với Hà Nội. Hà Nội cũng nên học chữ “ngờ” đối với chính sách ngoại giao hoàn toàn đã thay đổi của Hoa Kỳ, khi bà Ngoại trưởng Clinton đã “signal” cho Hà Nội rằng: Các anh (Hà Nội) đến lúc nên kiếm một nơi nào đó để “retire” đi là vừa, và cái “signal” đó là bản báo cáo “buôn người” của Hà Nội ở trên đã là giấy “báo tử” cho Hà Nội rồi cũng nên. Chúng ta cũng nên chờ xem các tay được gọi bằng một cái tên rất kêu, đó là “dòng chính” của Hà Nội. Các tay này đã len lỏi vào trong guồng máy của Mỹ và đã làm việc “hữu hiệu” đến đâu!!!. Hay cũng chỉ để làm “ông chủ” ở các nơi chỉ chuyên chuyện “cởi truồng để bưng Cà Phê”, hoặc “cởi truồng để nhảy (stripper) trong các quán “cà phê” tại những vùng đông người Việt cư ngụ như: Nam và Bắc tiểu bang California chẳng hạn.
Thiết nghĩ các văn phòng của bộ Tư Pháp của các tiểu bang này phải có những biện pháp mạnh tay để trừng trị các tên “ma cô, đầu trâu, mặt ngựa”; đã bày trò “tồi bại và vô luân” nói trên trong các cộng đồng người Việt. Các cơ quan công quyền của bộ Tư Pháp Hoa Kỳ phải chứng tỏ Uy Quyền và Liêm Chính của nước Mỹ; và cũng để làm gương cho các sắc dân khác trên nước Mỹ bây giờ và sau này. Thì tình trạng “bắt buộc” những cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê” phải được chấm dứt ngay lập tức. Nghĩa là phải giam tù các tên “đầu nậu, chủ chốt” liên quan đến các đường dây buôn dâm, bán dâm với các hình thức “quán cà phê khiêu dâm” này, chứ không chỉ “phạt vạ” bằng hiện kim. Nếu bộ Tư Pháp cũng như các cơ quan an ninh Hoa Kỳ không thể làm được như vậy, thì “uy quyền” luật pháp của nước Mỹ sẽ bị thách đố và xem thường, đời sống tươi đẹp của xã hội Hoa Kỳ xem như không còn giá trị gì nửa.
Những điều Vân Anh viết ra ở trên!. Nếu đúng với Chân Giá Trị trong tinh thần của đất nước văn minh Hoa Kỳ này, thì Hiến Pháp và Luật Pháp của Hoa Kỳ phải được áp dụng một cách triệt để và phải công khai thi hành cho đến nơi đến chốn. Hoa Kỳ phải chứng tỏ là một nước lớn; văn minh để dẫn đạo các nước nhỏ với các giá trị cao đẹp của nước Mỹ, của đất nước Hiệp Chủng Quốc, mà thế giới hiện nay hầu hết họ đều nhìn vào để ngưỡng mộ và đi theo. Vì phải bảo vệ những giá trị cao đẹp của Hoa Kỳ, nên nước Mỹ không thể có những cảnh các cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê”, trong các khu cộng đồng người Việt. Nhưng nếu quý vị đang điều hành các cơ quan an ninh Hoa Kỳ, nếu muốn hiểu tường tận về vấn đề “mãi dâm, khiêu dâm” (ma túy) kiểu này, thì quý vị nên tìm hỏi “Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và hiện nay là nhóm Việt Tân”. Vì trước đây và bây giờ nhóm này chúng đã điều hành tất cả các đường dây mãi dâm cũng như chuyển ngân rửa tiền và ma tuý (bản báo cáo của cơ quan FBI ở San Francisco có nói rõ vấn đề này. Nên không có chuyện nói oan cho nhóm Mặt trận Hoàng Cơ Minh và Việt Tân) sang Hoa Kỳ, với sự phối hợp bọn Việt Gian Cộng sản trong nước, để đoàn ngũ hoá cũng như đánh phá cộng đồng người Việt tị nạn và đánh phá xã hội Hoa Kỳ bằng ma túy và mãi dâm. Vấn nạn buôn dâm, bán dâm, chuyển ngân rửa tiền, cung cấp ma túy và nay là điều hành tổ chức “cởi truồng khiêu dâm” trong khoảng 40 quán cà phê ở miền Nam California; và hàng vài chục “quán cà phê cởi truồng” ở miền Bắc California cũng như nhiều nơi có đông người Việt cư ngụ ở nhiều tiểu bang khác trên nước Mỹ. Các cô gái trần truồng để “bưng cà phê” hay “nhảy stripper” trong các quán “cà phê”, họ chỉ là những nạn nhân đáng thương. Mọi điều hành và đưa các cô gái này từ Việt Nam sang Mỹ hay các nước khác “bưng cà phê”, “nhảy thoát y” (stripper), hay hành nghề “mãi dâm”, đều do nhân sự của nhóm “Mặt Trận Hoàng Cơ Minh và nay là bọn đầu trâu mặt ngựa Việt Tân cũng như bọn công an trong nước trực tiếp điều hành và điều động. Vì đây là một nguồn lợi lớn cho chúng và nhiều mối lợi khác không tiện nên ra đây.
Cuộc chiến tranh 1865 của Hoa Kỳ là một cuộc chiến tranh Thần Thánh đã vì lòng yêu thương và nghĩa Công Đạo (chứ không phải cuộc “Nội Chiến” - Civil War - như nhiều người lầm tưởng), thì không thể nào ngày hôm nay nước Mỹ đã vì một chút tư lợi, vị kỷ mà quên đi công sức của tiền nhân đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ những lý tưởng cao đẹp cho đất nước này được tồn tại đến ngày hôm nay. Những người lãnh đạo đất nước Hoa Kỳ văn minh này không thể để cho những cảnh “buôn bán cà phê trần truồng”, khiêu dâm dục; hỗn loạn xảy ra cho xã hội Hoa Kỳ này như thế được. Các cơ quan “văn phòng Đạo Đức” của tiểu bang cũng như liên bang (Office of Ethic - State & Fed); Ủy ban Đạo đức của bộ Tư Pháp Hoa Kỳ (U.S Ethic Department), các Ủy ban Đạo đức của Quốc Hội Hoa Kỳ (Office of Congressional Ethic - OCE) ..v.v.., cần phải ra lệnh điều tra để tìm bắt cho được những kẻ chủ mưu, bày ra các trò “buôn bán cà phê trần truồng”, “mãi dâm”, “ma túy” như đã nói ở trên. Cần phải chấm dứt và chấm dứt ngay bây giờ các sách lược phá hoại nhắm vào văn hóa và dân chúng Hoa Kỳ này.
Văn hóa và văn minh là một trong những điều mà các nhà làm văn hóa Đông hay Tây phải thấu hiểu một cách tường tận, để sau này những nghiên cứu này phải được đưa vào các hệ thống học đường với những kế sách xây dựng đất nước (thế giới) sau này. Riêng các học sinh, sinh viên Việt Nam sau này sẽ phải học và nghiên cứu tập quán, tục lệ truyền thống và nền văn minh cổ xưa của giòng giống Tiểu và Đại Bách Việt và của các sắc tộc địa phương. Cần phải hiểu tại sao Việt Nam lại có truyền thống thờ cúng tổ tiên! (thờ Người, không phải thờ Phật). Truyền thống thờ Người này có phải là mê tín dị đoan như một số người hàm hồ kết luận hay không?. Giòng giống Bách Việt cần phải duy trì và tiếp tục truyền thống thờ cúng tổ tiên (thờ Người) đã có từ hơn 5,000 (5 ngàn năm) trước, truyền thống này người Bách Việt đã có lâu hơn tất cả các tôn giáo đương thời. Học sinh và sinh viên cần phải học hỏi về luật lệ, luật quốc gia và các thứ luật và giáo lý, giáo luật riêng biệt của các đảng phái và các tông giáo.
Cần tìm hiểu tại sao những luật lệ của các “tông giáo”, (không phải quốc gia), đặt ra lại có thể trói buộc những công dân Việt Nam trong vòng nô lệ tinh thần, tâm linh và bóc lột tiền bạc cũng như công sức, thân xác của họ từ nhiều thế kỷ qua. Như hệ thống “tam bảo nô” là một thí dụ điển hình!. Cần phải tìm hiểu tại sao những người cũng mang giòng máu Việt Nam lại có thể trở thành những kẻ nội xâm, nội thù, tàn phá dân tộc, đánh phá tổ quốc Việt Nam một cách không thương tiếc?!. Cần phải tìm hiểu tổ chức chính trị theo các kiểu độc tài đảng phái công an trị, độc tài tôn giáo công an trị, độc tài tham nhũng công an trị. Tại sao các chế độ độc tài phải áp dụng hệ thống công an trị dưới nhiều hình thức và danh xưng, danh hiệu khác nhau?. Cần tìm hiểu tại sao quốc gia mình (hay bất cứ quốc gia nào) phải cần có luật pháp để bảo vệ công dân và các quyền lợi, quyền tự do của công dân. Cần tìm hiểu về các loại chính trị khác nhau. Cần hiểu rõ là tại sao bọn Việt Gian Cộng sản hoạt động chính trị, nhưng chúng lại luôn luôn núp dưới bóng các tông giáo.
Cần tìm hiểu nhiều về lịch sử; về các hình thức xâm lăng đất đai thuộc địa của các thế kỷ trước, tại sao họ lại chủ yếu xâm lăng tinh thần và tín ngưỡng, xâm lăng vào trong tâm não của người dân hiền lành và các thanh thiếu niên. Cần phải giáo dục học sinh và sinh viên hiểu rõ thế nào là đời sống dân chủ, tự do trong tinh thần yêu quê hương, tổ quốc, nòi giống Bách Việt. Tại sao phải kính trọng quyền tự do, dân chủ và tư hữu của người khác.
Cần tìm hiểu tại sao những tên chính trị gia hoạt đầu, mị dân, những tên tham lam ngu dốt lại núp bóng tông giáo để thành lập các “giáo phái chính trị”?. Chúng chỉ nhằm nô lệ hóa, trói buộc con người về nhiều mặt thương mại, kinh tế ..v.v... Chúng bắt tín đồ, đảng viên, phật tử đóng góp tiền tài, sức lực, nô lệ tinh thần và tâm linh, trong khi chúng vẫn vổ ngực hô to dân chủ, bình đẳng tự do với mục đích bịp bợm. Bọn ma đầu, ma giáo “sư” công an trọc đầu, công an cư sĩ chỉ giỏi bịp bợm, những người đang bị Cộng sản kềm kẹp nên ít học và ít suy nghĩ. Khi dân trí tiến bộ và văn minh như những người Việt hải ngoại (khắp nơi) hiện nay; thì bọn ma đầu, ma giáo quốc doanh không thể bịp bợm được nửa. Như vậy chỉ cần phân tích và xử dụng một giai đoạn lịch sử trong 2 thế kỷ 19 và 20 để giáo dục cho học sinh và sinh viên Việt Nam, cũng đủ cho các học sinh, sinh viên Việt Nam có sự hiểu biết sâu rộng về chính trị đa diện và vạch trần sự tàn ác, gian ngoan, hiểm độc của các cuộc xâm lăng tinh thần, xâm lăng thực dân thuộc địa, ngoại xâm và nội thù của tập đoàn Việt Gian Cộng sản, cũng như bè lũ nội thù công an trọc đầu, công an cư sĩ của GHPGVNTNAQ và các tổ chức phụ thuộc ngoại vi trong Mặt Trận Tổ Quốc của Cộng sản.
Học đường và các trường đại học phải tổ chức mở rộng các buổi tranh luận, đấu lý, phân tích giữa các nhóm sinh viên, học sinh về tự do, dân chủ, tôn giáo và nhiều đề tài khác, nhất là phải kể rõ cũng như đưa ra tài liệu, tang chứng về tội ác của tập đoàn Việt Gian Cộng sản trong hơn 60 năm qua trên mảnh đất Việt Nam như thế nào!. Nên đặt câu hỏi tại sao các đoàn thể, đảng phái, tổ chức, giáo hội lại có thể cướp mất quyền tự do dân chủ của người dân Việt bằng cách “đoàn ngũ và nô lệ hóa” họ?. Như đã nói “đoàn ngũ hóa” cũng là một hình thức “nô lệ hóa” và cầm tù con người trong những luật lệ nhỏ hẹp, chứ không phải luật lệ của quốc gia?. Cần phải tranh luận về khả năng lãnh đạo của các tổ chức, đảng phái, cá nhân, nhận tiền bạc và hậu thuẫn từ bên ngoài để khuynh đảo quốc gia, dân tộc và để cướp đi quyền tự do dân chủ của dân Việt qua nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Như vậy khi người dân Việt được giáo dục đầy đủ và có kiến thức tối thiểu về nhiều lãnh vực khác nhau, thì các thanh, thiếu niên (nhi) sẽ trở thành những công dân sống trong tự do dân chủ với thông minh, sáng suốt, hiểu rõ phải trái, hiểu rõ sự thật của nhiều vấn đề. Họ sẽ có đức tin thật trong sáng và thánh thiện nơi các vị Thần, Thánh thiêng liêng mà họ thờ lạy tôn kính. Họ sẽ không bị mắc vào vòng mê tín, dị đoan và nhất là không tin theo những tên ma quỷ, ma giáo Việt Gian Cộng sản núp dưới bóng tông giáo và ẩn nấp sau lưng các vị Chân Sư, Chân tu.
Tín ngưỡng và đức tin là đời sống riêng tư của mỗi người. Mỗi nhà mỗi người và mọi người đều có quyền lựa chọn bất cứ tôn giáo nào họ muốn khi đến tuổi trưởng thành. Không ai, kể cả chính quyền hoặc người hôn phối có quyền xâm phạm đức tin và tín ngưỡng riêng tư của mỗi cá nhân. Không ai có quyền dụ dỗ, mua chuộc, ép buộc công dân Việt phải tham gia vào bất cứ giáo hội hay tổ chức tôn giáo nào có tính cách “đoàn ngũ hóa, nô lệ hóa” người dân Việt. Cũng không ai có quyền dùng xảo ngôn, xảo ngữ để lừa gạt bịp bợm, lung lạc, lợi dụng thanh thiếu niên và công dân nước Việt Nam về mặt tiền bạc, cũng như dùng quyền lực tôn giáo để thao túng chính trị và làm nhiễu loạn xã hội. Mỗi người Việt Nam đều có quyền sống tự do. Không có tôn giáo, cá nhân hay bất cứ đảng phái, phe nhóm nào được quyền xâm phạm tự do cá nhân của công dân Việt Nam. Tất cả các tổ chức, hội đoàn nào muốn xin phép hoạt động phải được đặt thành vấn đề là có mục đích và dụng ý “đoàn ngũ hóa, nô lệ hóa” người dân Việt hay không?. Phải có quy chế và cam kết rõ ràng về danh xưng, danh hiệu, điều lệ, cương lĩnh cho mọi hình thức như khi ra báo chí, phát thanh, truyền thông, lập hội, lập đảng chính trị và lập giáo hội. Mỗi người không có quyền tự đặt tên, hoặc xử dụng những danh xưng to tát, bất xứng và lố bịch để khiến cho người khác tự nhiên phải xưng hô, xưng tụng mình với các danh hiệu đầy lố lăn cao ngạo.
Ngày nay có những tên bịp bợm, tham lam như quỷ, chúng vừa mới cạo đầu, mặc áo cà sa mà khiến cho những bậc trưởng thượng lớn tuổi phải kính cẩn kêu mình là “Tăng thống”; “Đại lão Hòa thượng”; “Hòa thượng; “thượng tọa”, “đại đức”, và “thưa thầy xưng con” với những tên bất xứng. Nếu không có những biện pháp phòng ngừa ngay từ đầu thì một số người háo danh sẽ làm cho cả xã hội bị “loạn danh xưng”. Ðến đâu người ta sẽ chỉ thấy “đức nầy, ngài nọ, chư tôn” kia, “phật sống”, “thánh sống” ..v.v… Tất cả những người dùng tên các danh nhân, anh hùng liệt sĩ trong lịch sử để đặt tên cho con cái một cách hỗn láo với tiền nhân, với tổ tiên với người trưởng thượng đều phải bị phạt vạ hay phạt tù và không được làm giấy khai sinh. Tất cả những người, trong và ngoài các tổ chức tôn giáo, đảng phái, tự đặt tên cho mình những danh hiệu, danh xưng có tính cách cao ngạo, phạm thượng đều không được chính quyền các cấp thị thực. Những danh xưng bịp bợm hay cao ngạo bất xứng với đều phải đóng một khoản tiền phạt đặc biệt và rất nặng.
Tóm lại đất nước Việt Nam sau này thật sự muốn được ổn định, thái bình thì phải
có những luật lệ nghiêm minh, rõ ràng để bảo vệ quyền công dân, quyền tự do
sinh sống, quyền tư hữu, quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do phát biểu,
tự do hội họp, tự do di chuyển và quyền lựa chọn nơi cư trú của mình. Phải có sự
phân biệt và chia cách rõ ràng giữa các tổ chức tôn giáo và Quốc Gia. Phải có sự
bảo vệ quyền tự do phát triển và tinh thần, thể xác cá nhân của mỗi công dân.
Phải định nghĩa lại thế nào là đất nước Dân Chủ (đất nước Việt Nam sau Cộng sản
chúng ta không thể áp dụng “nguyên con” kiểu dân chủ của phương Tây vào đất nước
chúng ta. Vì văn hóa Đông và Tây hoàn toàn khác biệt. Hơn nửa “dân chủ” Tây
phương là “Dân Chủ Luật Định”.Dân Chủ Đông Phương Bách Việt là lối “Dân Chủ Với
Tinh Thần Vô Chính Phủ”. Xin lập lại là “Dân Chủ Với Tinh Thần Vô Chính Phủ”,
chứ không phải “Dân Chủ Vô Chính Phủ”). Các hệ thống báo chí, truyền thông, học
đường, các cơ quan hành chính và các tổ chức hội đoàn cần phải thường xuyên đặt
câu hỏi với những cá nhân có những danh xưng hỗn láo, ngạo mạn quá lố, để răn
đe và ngăn ngừa những kẻ kiêu căng, tự đắc, cao ngạo và nhất là những tên thích
mọi người phải tôn vinh mình. Trong khi bản thân của chúng thì chẳng có gì để
cho người khác phải tôn vinh chúng.
Xã hội cần phải có luật nghiêm cấm mọi sự xâm phạm các quyền tự do, tài sản và sinh mạng của mỗi công dân. Mỗi cơ quan truyền thông hay truyền thanh, mỗi hội đoàn hay tổ chức, mỗi đảng phái chính trị hay tôn giáo đều phải có những điều lệ về tổ chức, danh xưng, danh hiệu, điều hành, sổ sách, kế toán, thu nhập, thuế má, và các đòi hỏi quy định về luật pháp, hành chánh ..v.v… trước khi được Chính Quyền cấp giấy phép hoạt động. Các tổ chức nào nhận tiền của người ngoại quốc; hoặc vận động thế lực ngoại quốc để khuynh đảo chính trị quốc gia đều phải chịu tội nặng nhất tội phản quốc, phản bội dân tộc Việt Nam. Phải tuyệt đối ngăn cấm các giáo hội tôn giáo làm chính trị, cấm tuyệt đối các cách thức “nô lệ hóa” con người, cấm các hành động xách động các tín đồ phật tử vào con đường tranh đấu chính trị, đánh phá dân tộc, tổ quốc và Chính Quyền Quốc Gia. Các tổ chức tôn giáo phải có điều luật khắt khe để trừng trị giới giáo sĩ, tu sĩ, tăng ni phạm giới, tham dâm, tà dâm, tham tiền và phải đóng tiền phạt thật nặng cũng như bồi thường thật nặng cho các nạn nhân. Phải có biện pháp trừng phạt đối phó với những tu sĩ đưa ra những bài giảng hay “thuyết pháp” có tính cách xách động quần chúng, để gây rối loạn trong xã hội.
Trước đây và bây giờ các “tu sĩ” chưa bao giờ nghĩ đến tự do và sự trường tồn của dân tộc, của tổ quốc Việt Nam và các thành phần khác tín ngưỡng của những người khác trong nước. Các “tu sĩ” chưa bao giờ tôn trọng quyền tự do cá nhân và quyền công dân của mỗi người dân Việt. Họ thường hô hào cho tự do tôn giáo, nhưng họ vẫn thích khống chế mọi người dân để đưa người dân vào vòng nô lệ chính trị, nô lệ tôn giáo, và để lợi dụng trong các mục đích gian manh khác. Nhất là bọn công an trọc đầu chúng chuyên xúi dục người khác chết cho các mục đích chính trị lừa bịp của chúng và chúng gọi đó là “tranh đấu”. Chúng đẩy người khác chết cho mục đích đánh phá chính quyền của chúng, rồi chúng gọi họ là “hi sinh vì đạo pháp”, là “lửa từ bi”; là “cúng dường Tam Bảo”, là “Thánh tử đạo”, là “bồ tát”, là “bồ tát tranh đấu biểu tình tại gia”. Trong khi bản thân của chúng thì chỉ nói láo, bịa đặt, và thu tiền của Phật tử cho đầy túi tham. Chứ chúng ta chẳng thấy tên công an trọc đầu nào dám đứng ra đưa thân chúng để làm “lửa từ bi” hay “hi sinh vì đạo pháp”!.
Tóm lại là toàn thể nhân dân Việt Nam phải được hướng dẫn, giáo dục bằng những tư tưởng cao đẹp, phải được học hỏi rõ ràng về tự do, dân chủ, nhân quyền và các quyền hạn, quyền lợi và bổn phận công dân của mình. Khi mỗi người dân hiểu biết được thế nào là sống trong tự do, dân chủ, thế nào là sắc máu công an trọc đầu trị, thế nào là bịp bợm, mị dân, thì những tên chính trị hoạt đầu, những tên lưu manh, ma đầu, ma giáo sẽ không thể hoạt động chính trị bịp bợm được nữa. Từ nhiều ngàn năm qua đất nước Việt Nam luôn đứng trước sự đe dọa xâm lăng thường xuyên từ người Tàu phương Bắc. Nhưng dân tộc Việt Nam luôn giữ vững cái thế đoàn kết dân tộc như tổ tiên ta đã duy trì trong hơn mấy nghìn năm qua. Dân tộc Việt Nam không cho phép những tên ma đầu chính trị, những tên ma giáo nấp dưới bóng các tôn giáo, các đảng phái, các giáo hội để phá hoại và chia rẽ sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Nhất là bọn công an trọc đầu trước đây và bây giờ chúng chỉ bịp rằng: “sư tăng Phật giáo đã mở nước, dựng nước từ Luy Lâu xuống đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn, từ hơn 2 ngàn năm trước”. Không biết điều này chúng đã dựa vào đâu để nói Sảng như vậy. Không ai có thể cố tình xử dụng tôn giáo để bóp méo lịch sử, và tự nhận là “mở nước, dựng nước”, phủ nhận luôn cả tổ tiên Hồng Lạc là có tội với đất nước.
Những vị Tu sĩ hay Cư sĩ cũng như các Phật tử đừng nên vọng ngữ mà vướn vào nghiệp báo hay là hậu quả. Vì Đức Thế Tôn có dạy: “Gieo nhân nào, sẽ hái quả đó”. Nếu quý vị trước đây đã không biết và không hiểu Cộng sản nên quý vị phụ họa bênh vực cho tăng, ni công an Cộng sản thì cũng có thể phải chịu chung nghiệp báo tội ác Cộng sản của chúng. Nếu quý vị không biết sám hối tội lỗi của mình, thì đó cũng là đạo kiếp vĩnh viễn mà chính mình phải gánh chịu hậu quả vậy!. Tu sĩ hay Cư sĩ khi đi theo tinh thần “đại dũng, đại lực …” của Đức Thế Tôn, thì không thể và không nên cung kính bọn ma quỷ Việt Gian Cộng sản và “lạy thầy xưng con” với chúng và nhất là không nên bóp méo lịch sử và nói láo!. Đạo Phật là Khoa Học nên các Phật tử phải có trí tuệ để suy tư, suy nghĩ, phải cần phân biệt để biết đâu là ma quỷ; đâu là chư tăng đạo đức, thánh thiện!. Nếu không thể phân biệt được chúng là những tên công an trọc đầu đội lốt thầy tu, thì tốt hơn hết là quý Phật tử nên tu tại gia và trực tiếp cầu nguyện chư Phật, chư Tiên là tốt nhất và không nên lai vãng đến những nơi chúng tụ tập đông người.
Theo Luật Nhân Quả, thì tội ác Cộng sản phải nhân bình phương với khoảng 90 triệu người Việt Nam hiện nay và hơn hàng chục triệu nạn nhân đã bị Cộng sản giết chết trong hơn 60 năm qua trên khắp miền đất nước. Những tội ác của bọn Việt Gian Cộng sản đã làm sẽ dội lại thành nghiệp báo và đánh vào bè lũ Cộng sản “công an trọc đầu, công an cư sĩ” của GHPGVNTN - AQ cũng như những ai đã a dua hùa theo bọn chúng, bắt tay và bênh vực cho chúng chỉ vì quyền và lợi. Toàn thể những tên Cộng sản Âu Châu, Nga và Tàu chúng sẽ phải bị tiêu diệt, cũng vì lẽ chúng phải đền trả những tội ác của chúng, tội ác này cũng được nhân lên nhiều chục lần và chúng sẽ phải đền tội trong nhiều kiếp.
Vân Anh.
Nguyễn Ngọc Oánh: Chân Tín, giặc nội xâm Sài Gòn
Phản Biện Chân Tín (Nguyễn Ngọc Oánh )
LTS: Hồn Việt UK online vừa nhận được từ một thân hữu, gửi cho bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Ngọc Oánh, "Chân Tín, giặc nội xâm Sài gòn".
Như lập trường của chúng tôi: Những kẻ theo việt gian cộng sản, ủng hộ VGCS, tiếp tay cho VGCS bằng bất kể hình thức nào, chúng tôi đều xem chúng và loại chúng vào thành phần "giặc". Và, cách viết của tác giả Nguyễn Ngọc Oánh về Chân tín, trên lập trường chống cộng, bọn việt gian buôn dân bán nước, chúng tôi hoàn toàn đồng thuận với tác giả NNO.
Và cũng như nhiều bài viết của một số tác giả đẽ đề cập đến những kẻ tu hành, lạm dụng áo nhà tu của mọi tôn giáo để phá hoại nền an ninh Quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa thì chúng đều là giặc cả! Vì, như chúng ta được biết, người tu hành chân chính không màng đến việc đòi và không dùng chiếc áo dòng màu trắng, đen, nâu, vàng, đỏ... để hoạt đầu chính trị để thu lợi, dù là cho bản thân.
Nhưng, oái oăn thay! Trong lịch sử của nước nhà, người dân Việt đã từng chứng kiến những kẻ mượn chiếc áo thày tu, để lừa bịp nhân quần xã hội mà quậy phá sơn hà xã tắc! Mượn áo thầy tu để yêu sách chính phủ có nền dân chủ và tự do thực sự, chia quyền, đoạt lợi và còn hăm he làm vương làm tướng. Thậm chí còn tự coi cái tổ chức ngụy tạo của mình nằm ngoài vòng pháp luật bằng hình thức này hay hình thức khác nữa.
Đúng như tác giả NNO đã viết: thì ngoài những kẻ đội lốt tu hành làm tay sai cho giặc để cầu lợi trên ra, còn có những kẻ vừa được hưởng bổng lộc thừa mứa từ hai nền Cộng Hòa của Việt Nam Cộng Hòa, cùng với sự tư do dân chủ tuy non trẻ nhưng lại quá nhân đạo đối với những kẻ "ăn cơm Quốc gia, thờ ma cộng sản" mà chúng lại tin lời dụ dỗ, theo giặc phá nát quốc gia! Nhưng, sau khi chanh đã hết nước; dưới chế độ cai trị của Cộng sản, chúng chỉ biết ngoan ngoãn làm theo chỉ thị của đảng CSVN đưa ra cho chúng mà thôi. Những người phản tỉnh thực sự, thì bọn VGCS đã tìm mọi cách thủ tiêu hoặc vô hiệu hóa họ.
Tương tự cách tu giả hình, đội lốt tôn giáo của những tên giặc đội lốt thầy tu kể trên, thì tại hải ngoại cũng đã và đang có một số tổ chức mượn biểu tượng cờ Vàng ba sọc đỏ, lá cờ chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa, mà tập thể người Việt Tỵ nạn CS luôn luôn trân quý và bảo vệ bằng mọi giá từ khi bỏ nước ra đi tìm tự do; những tổ chức ấy đã cố tình làm nhơ nhớp, bôi bẩn lá cờ chính nghĩa mà người Việt tỵ nạn chúng ta. Hãy nhìn vào các tổ chức gọi là "chính phủ..." này, với các thành phần nhân sự đứng ra lãnh đạo, người dân tỵ nạn VGCS có thể chắc chắc xác định không sai lầm là, chúng đã cố ý "hề hóa" chính nghĩa của người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại. Chúng đã, và đang tiếp tay cho nghị quyết 36 của đảng CSVN!
Tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ mọi mặt trong cộng đồng người Việt tỵ nạn CS để lèo lái, làm lạc hướng đấu tranh của chúng ta với bọn Việt gian buôn dân bán nước, CSVN; mà lọt vào quỷ kế của chúng để kình chống nhau, là điều mà bọn VGCS rất mong muốn và ra sức chỉ huy đàn em cũng như tay sai của chúng đang trà trộn trong Cộng đồng người Việt tỵ nạn CS của chúng ta thi hành.
Xin hãy cùng nhau cảnh giác!!! Chống Cộng, lũ buôn dân bán nước và tay sai của chúng! Không chống nhau!
Xã hội cần phải có luật nghiêm cấm mọi sự xâm phạm các quyền tự do, tài sản và sinh mạng của mỗi công dân. Mỗi cơ quan truyền thông hay truyền thanh, mỗi hội đoàn hay tổ chức, mỗi đảng phái chính trị hay tôn giáo đều phải có những điều lệ về tổ chức, danh xưng, danh hiệu, điều hành, sổ sách, kế toán, thu nhập, thuế má, và các đòi hỏi quy định về luật pháp, hành chánh ..v.v… trước khi được Chính Quyền cấp giấy phép hoạt động. Các tổ chức nào nhận tiền của người ngoại quốc; hoặc vận động thế lực ngoại quốc để khuynh đảo chính trị quốc gia đều phải chịu tội nặng nhất tội phản quốc, phản bội dân tộc Việt Nam. Phải tuyệt đối ngăn cấm các giáo hội tôn giáo làm chính trị, cấm tuyệt đối các cách thức “nô lệ hóa” con người, cấm các hành động xách động các tín đồ phật tử vào con đường tranh đấu chính trị, đánh phá dân tộc, tổ quốc và Chính Quyền Quốc Gia. Các tổ chức tôn giáo phải có điều luật khắt khe để trừng trị giới giáo sĩ, tu sĩ, tăng ni phạm giới, tham dâm, tà dâm, tham tiền và phải đóng tiền phạt thật nặng cũng như bồi thường thật nặng cho các nạn nhân. Phải có biện pháp trừng phạt đối phó với những tu sĩ đưa ra những bài giảng hay “thuyết pháp” có tính cách xách động quần chúng, để gây rối loạn trong xã hội.
Trước đây và bây giờ các “tu sĩ” chưa bao giờ nghĩ đến tự do và sự trường tồn của dân tộc, của tổ quốc Việt Nam và các thành phần khác tín ngưỡng của những người khác trong nước. Các “tu sĩ” chưa bao giờ tôn trọng quyền tự do cá nhân và quyền công dân của mỗi người dân Việt. Họ thường hô hào cho tự do tôn giáo, nhưng họ vẫn thích khống chế mọi người dân để đưa người dân vào vòng nô lệ chính trị, nô lệ tôn giáo, và để lợi dụng trong các mục đích gian manh khác. Nhất là bọn công an trọc đầu chúng chuyên xúi dục người khác chết cho các mục đích chính trị lừa bịp của chúng và chúng gọi đó là “tranh đấu”. Chúng đẩy người khác chết cho mục đích đánh phá chính quyền của chúng, rồi chúng gọi họ là “hi sinh vì đạo pháp”, là “lửa từ bi”; là “cúng dường Tam Bảo”, là “Thánh tử đạo”, là “bồ tát”, là “bồ tát tranh đấu biểu tình tại gia”. Trong khi bản thân của chúng thì chỉ nói láo, bịa đặt, và thu tiền của Phật tử cho đầy túi tham. Chứ chúng ta chẳng thấy tên công an trọc đầu nào dám đứng ra đưa thân chúng để làm “lửa từ bi” hay “hi sinh vì đạo pháp”!.
Tóm lại là toàn thể nhân dân Việt Nam phải được hướng dẫn, giáo dục bằng những tư tưởng cao đẹp, phải được học hỏi rõ ràng về tự do, dân chủ, nhân quyền và các quyền hạn, quyền lợi và bổn phận công dân của mình. Khi mỗi người dân hiểu biết được thế nào là sống trong tự do, dân chủ, thế nào là sắc máu công an trọc đầu trị, thế nào là bịp bợm, mị dân, thì những tên chính trị hoạt đầu, những tên lưu manh, ma đầu, ma giáo sẽ không thể hoạt động chính trị bịp bợm được nữa. Từ nhiều ngàn năm qua đất nước Việt Nam luôn đứng trước sự đe dọa xâm lăng thường xuyên từ người Tàu phương Bắc. Nhưng dân tộc Việt Nam luôn giữ vững cái thế đoàn kết dân tộc như tổ tiên ta đã duy trì trong hơn mấy nghìn năm qua. Dân tộc Việt Nam không cho phép những tên ma đầu chính trị, những tên ma giáo nấp dưới bóng các tôn giáo, các đảng phái, các giáo hội để phá hoại và chia rẽ sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Nhất là bọn công an trọc đầu trước đây và bây giờ chúng chỉ bịp rằng: “sư tăng Phật giáo đã mở nước, dựng nước từ Luy Lâu xuống đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn, từ hơn 2 ngàn năm trước”. Không biết điều này chúng đã dựa vào đâu để nói Sảng như vậy. Không ai có thể cố tình xử dụng tôn giáo để bóp méo lịch sử, và tự nhận là “mở nước, dựng nước”, phủ nhận luôn cả tổ tiên Hồng Lạc là có tội với đất nước.
Những vị Tu sĩ hay Cư sĩ cũng như các Phật tử đừng nên vọng ngữ mà vướn vào nghiệp báo hay là hậu quả. Vì Đức Thế Tôn có dạy: “Gieo nhân nào, sẽ hái quả đó”. Nếu quý vị trước đây đã không biết và không hiểu Cộng sản nên quý vị phụ họa bênh vực cho tăng, ni công an Cộng sản thì cũng có thể phải chịu chung nghiệp báo tội ác Cộng sản của chúng. Nếu quý vị không biết sám hối tội lỗi của mình, thì đó cũng là đạo kiếp vĩnh viễn mà chính mình phải gánh chịu hậu quả vậy!. Tu sĩ hay Cư sĩ khi đi theo tinh thần “đại dũng, đại lực …” của Đức Thế Tôn, thì không thể và không nên cung kính bọn ma quỷ Việt Gian Cộng sản và “lạy thầy xưng con” với chúng và nhất là không nên bóp méo lịch sử và nói láo!. Đạo Phật là Khoa Học nên các Phật tử phải có trí tuệ để suy tư, suy nghĩ, phải cần phân biệt để biết đâu là ma quỷ; đâu là chư tăng đạo đức, thánh thiện!. Nếu không thể phân biệt được chúng là những tên công an trọc đầu đội lốt thầy tu, thì tốt hơn hết là quý Phật tử nên tu tại gia và trực tiếp cầu nguyện chư Phật, chư Tiên là tốt nhất và không nên lai vãng đến những nơi chúng tụ tập đông người.
Theo Luật Nhân Quả, thì tội ác Cộng sản phải nhân bình phương với khoảng 90 triệu người Việt Nam hiện nay và hơn hàng chục triệu nạn nhân đã bị Cộng sản giết chết trong hơn 60 năm qua trên khắp miền đất nước. Những tội ác của bọn Việt Gian Cộng sản đã làm sẽ dội lại thành nghiệp báo và đánh vào bè lũ Cộng sản “công an trọc đầu, công an cư sĩ” của GHPGVNTN - AQ cũng như những ai đã a dua hùa theo bọn chúng, bắt tay và bênh vực cho chúng chỉ vì quyền và lợi. Toàn thể những tên Cộng sản Âu Châu, Nga và Tàu chúng sẽ phải bị tiêu diệt, cũng vì lẽ chúng phải đền trả những tội ác của chúng, tội ác này cũng được nhân lên nhiều chục lần và chúng sẽ phải đền tội trong nhiều kiếp.
Vân Anh.
Nguyễn Ngọc Oánh: Chân Tín, giặc nội xâm Sài Gòn
Phản Biện Chân Tín (Nguyễn Ngọc Oánh )
LTS: Hồn Việt UK online vừa nhận được từ một thân hữu, gửi cho bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Ngọc Oánh, "Chân Tín, giặc nội xâm Sài gòn".
Như lập trường của chúng tôi: Những kẻ theo việt gian cộng sản, ủng hộ VGCS, tiếp tay cho VGCS bằng bất kể hình thức nào, chúng tôi đều xem chúng và loại chúng vào thành phần "giặc". Và, cách viết của tác giả Nguyễn Ngọc Oánh về Chân tín, trên lập trường chống cộng, bọn việt gian buôn dân bán nước, chúng tôi hoàn toàn đồng thuận với tác giả NNO.
Và cũng như nhiều bài viết của một số tác giả đẽ đề cập đến những kẻ tu hành, lạm dụng áo nhà tu của mọi tôn giáo để phá hoại nền an ninh Quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa thì chúng đều là giặc cả! Vì, như chúng ta được biết, người tu hành chân chính không màng đến việc đòi và không dùng chiếc áo dòng màu trắng, đen, nâu, vàng, đỏ... để hoạt đầu chính trị để thu lợi, dù là cho bản thân.
Nhưng, oái oăn thay! Trong lịch sử của nước nhà, người dân Việt đã từng chứng kiến những kẻ mượn chiếc áo thày tu, để lừa bịp nhân quần xã hội mà quậy phá sơn hà xã tắc! Mượn áo thầy tu để yêu sách chính phủ có nền dân chủ và tự do thực sự, chia quyền, đoạt lợi và còn hăm he làm vương làm tướng. Thậm chí còn tự coi cái tổ chức ngụy tạo của mình nằm ngoài vòng pháp luật bằng hình thức này hay hình thức khác nữa.
Đúng như tác giả NNO đã viết: thì ngoài những kẻ đội lốt tu hành làm tay sai cho giặc để cầu lợi trên ra, còn có những kẻ vừa được hưởng bổng lộc thừa mứa từ hai nền Cộng Hòa của Việt Nam Cộng Hòa, cùng với sự tư do dân chủ tuy non trẻ nhưng lại quá nhân đạo đối với những kẻ "ăn cơm Quốc gia, thờ ma cộng sản" mà chúng lại tin lời dụ dỗ, theo giặc phá nát quốc gia! Nhưng, sau khi chanh đã hết nước; dưới chế độ cai trị của Cộng sản, chúng chỉ biết ngoan ngoãn làm theo chỉ thị của đảng CSVN đưa ra cho chúng mà thôi. Những người phản tỉnh thực sự, thì bọn VGCS đã tìm mọi cách thủ tiêu hoặc vô hiệu hóa họ.
Tương tự cách tu giả hình, đội lốt tôn giáo của những tên giặc đội lốt thầy tu kể trên, thì tại hải ngoại cũng đã và đang có một số tổ chức mượn biểu tượng cờ Vàng ba sọc đỏ, lá cờ chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa, mà tập thể người Việt Tỵ nạn CS luôn luôn trân quý và bảo vệ bằng mọi giá từ khi bỏ nước ra đi tìm tự do; những tổ chức ấy đã cố tình làm nhơ nhớp, bôi bẩn lá cờ chính nghĩa mà người Việt tỵ nạn chúng ta. Hãy nhìn vào các tổ chức gọi là "chính phủ..." này, với các thành phần nhân sự đứng ra lãnh đạo, người dân tỵ nạn VGCS có thể chắc chắc xác định không sai lầm là, chúng đã cố ý "hề hóa" chính nghĩa của người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại. Chúng đã, và đang tiếp tay cho nghị quyết 36 của đảng CSVN!
Tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ mọi mặt trong cộng đồng người Việt tỵ nạn CS để lèo lái, làm lạc hướng đấu tranh của chúng ta với bọn Việt gian buôn dân bán nước, CSVN; mà lọt vào quỷ kế của chúng để kình chống nhau, là điều mà bọn VGCS rất mong muốn và ra sức chỉ huy đàn em cũng như tay sai của chúng đang trà trộn trong Cộng đồng người Việt tỵ nạn CS của chúng ta thi hành.
Xin hãy cùng nhau cảnh giác!!! Chống Cộng, lũ buôn dân bán nước và tay sai của chúng! Không chống nhau!
Nhân sự kiện LM Chân Tín chết, chỉ có những bài viết ca tụng hay bênh vực một
người ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, góp bàn tay giết cả một chế độ, gây ra
biết bao sinh linh cho QLVNCH và người dân miền Nam VN. Đây là một bài viết lột
trần mặt thật “tội đồ, phản bội chế độ đã cho Chân Tín tự do tranh đấu để rồi bị
giết dưới tay của Chân Tín.
“Tội của Chân Tín có thể tha, nhưng không thể quên” Khải Huyền Cứ mỗi lần 30 tháng 4 trở về, tôi, và không ít đồng bào miền Nam Việt Nam như tôi, lại nhớ về Sài Gòn những năm đầu thập niên 1970, biểu tình xuống đường rầm rộ, đã làm cho miền Nam Việt Nam yếu dấu rơi vào tay Cộng Sản và bị đọa đầy cho đến nay. Lý Chánh Trung có viết cuốn sách “Ba năm xáo trộn” để mô tả thời gian này. Bởi ai? Bởi cái gọi là thành phần thứ ba hòa hợp hòa giải và đám thanh niên sinh viên nội thành do VC tổ chức, tập hợp, hậu thuẫn sau lưng trong mọi cuộc biểu tình có Chân Tín và ba bốn mống trí thức thiên tả đi hàng đầu, mở chiến dịch gây xáo trộn miền Nam Việt Nam . Vì thế, Saigon lúc nào cũng tranh đấu xuống đường, hầu như không có một ngày yên ổn. Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo không thấy ai. Cao Đài cũng không thấy ai. Chỉ thấy Phật Giáo Ấn Quang và vài mống trí thức Công giáo thiên tả cả linh mục lẫn giáo dân. Trong thời gian khoảng một năm trở lại đây, trên các diễn đàn trong nước và hải ngoại xuất hiện một số bài viết của Chân Tín, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng Sài Gòn, nói về những vụ việc sau 75, liên hệ tới Tổng Giáo Phận Sài Gòn, như vụ TGM Nguyễn Văn Bình không can thiệp cho Đức Tổng Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận về nhậm chức Phó Tổng Sài Gòn, sau khi mãn hạn 13 năm tù Cộng Sản; như vụ các linh mục Công Giáo thiên tả, sau này là quốc doanh, kéo đến tòa khâm sứ Sài Gòn “lôi cổ” ngài sứ thần Tòa Thánh Henry Le Maitre lên phi cơ cút khỏi miền Nam Việt Nam. Những bài viết này ký tên Chân Tín mang tính cách hoàn toàn chối tội, đổ cho người khác như TGM Bình, linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh, Vương Ngọc Bích, một ông giáo sư đại học Văn Khoa tôi không nhớ tên, nhưng rất nổi tiếng trong giời học thuật miền Nam Việt Nam, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, và cả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, thậm chí cả ông cha Nguyễn Quang Lãm, bút danh Thiên Hổ của nhật báo Xây Dựng… Chân Tín không có lỗi, có tội gì cả.
Những ai đã sống và làm việc tại Sài Gòn không thể nào phủ nhận sự thật lịch sử tranh đấu xuống đường tại thủ đô yêu dấu của Việt Nam Cộng Hòa những năm trước và sau 30.4.1975, cái tên Chân Tín đi hàng đầu, ngồi cùng bàn, uống máu ăn phần với đám cha quốc doanh trên, quyết đạp đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu, đem miền Nam VN dâng cho Cộng Sản Bắc Việt, khiến cho cả nước, từ quân tới dân, chìm trong tang tóc khổ ải từ ngày 30-4-1975 đến nay. Dù anh không phải là thủ phạm chính, nhưng anh hợp tác hoạt động với tội phạm đó, ít nhiều gì anh cũng có tội. Đàng này, Chân Tín còn là đầu sỏ của mấy cha cố và trí thức trên lại nói là không có lỗi gì cả, không thân cộng sản, không theo cộng sản. Ai mà tin được? May ra chỉ có Satan tin! Hàng trăm linh mục tuyên úy Công Giáo, là anh em trong hàng ngũ tu sĩ với Chân Tín, nhưng vì Chân Tín, mà lâm cảnh lao tù, ra tù không xứ, không con chiên, kéo lê kiếp sống mục tử nạn nhân buổi giao thời cho đến nay. Một triệu quân dân miền Nam , cũng vì Chân Tín và đồng bọn, bị đày ải khổ sở đến ngày nay. Đôi hàng về người viết Trước khi di vào chủ đề, người viết cũng phải có đôi lời tự giới thiệu “background” (lý lịch và tiểu sử) để độc giả biết tôi là ai? Tôi là một người Việt Nam theo đạo Công Giáo chào đời tại miền trung du Bắc Phần. Theo cha mẹ di cư vào Nam năm 1954. Nếu tính tuổi tác ở vào cái thời này, nay tôi cũng xấp xỉ nhân sinh thất thập cổ lai hy, theo lời ông Đỗ Phủ, một thi bá của Tàu, có nghĩa người sống được 70 tuổi xưa này đều hiếm (Bây giờ thì nhan nhản ra đấy). Hồ Chí Minh cũng mượn ý này để viết di chúc (Đâu có hơn gì tôi). Là trai thời chiến, lớn lên dưới chế độ VNCH, trưởng thành trong máu lửa, cầm súng chiến đấu trong cuộc chiến tranh tự vệ trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.
Sau ngày chế độ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, tôi đi tù cải tạo 6 năm. Rồi vượt biên năm 1982 đến trại tị nạn Galang Nam Dương. Ngày 17 tháng 6 năm 1983 đặt chân xuống đất Mỹ vào lúc 1 giờ 10 phút trưa, từ bên trong phi trường Los Angeles , bước ra ngoài phố, tôi mới chính thức đặt chân đến bến bờ tự do và tình người. Giới thiệu như thế cũng tạm đủ và cũng chẳng còn gì hơn. Hèn mọn đến thế nhưng tự hào về tinh thần chống Cộng, yêu mến chế độ VNCH cho đến mãn đời. Tôi làm việc ở Sài Gòn vào những năm tháng tranh đấu xuống đường mù khói lựu đạn cay, vòi rồng phun nước trong những cuộc biểu tình xuống đường phản chiến, kêu gọi hòa bình giả hiệu. Tôi có thể tự cho mình là chứng nhân lịch sử của thời này nên đủ tự tin và khả tín để viết bài này đúng sự thật lịch sử. Bài viết này chỉ có mục đích vạch trần bộ mặt thật Chân Tín, một trong số trí thức Công Giáo thân Cộng đã phá hoại chế độ VNCH như thế nào và hiện nay ra sao. Còn những người kia chỉ là hậu cảnh cho bài viết có sức thuyết phục. Nguyễn Văn Trung, hiện đang sống tại Canada , cũng cố cất tiếng nói thanh minh thanh nga cho vị thế ủng hộ Cộng sản. Lý Chánh Trung, sau khi xuống đường “quậy” cho miền Nam Việt Nam “ba năm xáo trộn “ nay cũng im tiếng. Nguyễn Ngọc Lan được phép miễn thi hành công việc của một linh mục, lấy vợ, và nay đã về lòng đất, không biết có được về chầu Chúa hay không? Còn Chân Tín đã “phản tỉnh” không phải vì hối lỗi ăn năn mà do bản chất “bất mãn kinh niên” của ông. Lúc còn ăn cơm nhà dòng (Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) no rồi là xuống đường biểu tình lung tung. Nếu không xuống đường thì Chân Tín ngồi viết bài chửi bới VNCH đăng trên Đối Diện, đờng thời ca tụng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Sau khi bị VC vắt chanh bỏ vỏ, và chẳng còn quậy phá xách động gì được với Cộng Sản, Chân Tin bây giờ làm tờ Tự Do Ngôn Luận trên mạng chống Cộng Sản. Bất mãn kinh niên mà! Đến độ nếu lên Thiên Đàng, Chân Tín cũng bất mãn quậy phá xách động náo thiên cung nếu Thượng Để không được như ý ông muốn. Chỉ có xuống hỏa ngục Chân Tín mới cúp đuôi ngồi im. Chân Tin chuyên viên xách động phá rối Người dân Sài Gòn, đặc biệt dân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), không thể nào không biết đến nhưng tên tuổi một thời “quậy phá, xách động, phản bội ăn cháo đái bát, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” trong những năm trước ngày miền Nam thân yêu rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử. Đó là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín là 4 trí thức Công giáo, không những thiên tả mà còn tiếp tay góp phần vào cái gọi là “cướp” miền Nam Việt Nam đem dâng cho Cộng Sản Bắc Việt” là đầu sỏ băng cướp. Hai tên đầu là giáo sư. Hai tên sau là cha cố. Một người từ bỏ áo đen ra ngoài lấy vợ. Còn Chân Tín vẫn khoác áo thâm chùng đen, xách động biểu tình nhiều hơn là lên bàn thờ làm lễ hay làm công tác mục vụ của một mục tử. Tiếp tay cho mafia đỏ, không ai khác hơn là đầu sỏ Chân Tín biến thành Bất Tín, hay bất hạnh cho miền Nam Việt Nam trước và sau 1975 cho đến bây giờ. Trở lại với đề tài chính. Trong một bài viết của ông Đaminh Phạm Văn Phước đăng trên diễn đàn Ba Cây Trúc gần đây, ông có nêu ý kiến về hai bài phỏng vấn của Nữ Vương Công Lý với Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình và với Chân Tín, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng Sài Gòn, về Giáo Hội và Đất Nước. Trong mục số 4, ông Phước có đặt vấn đề với Chân Tín như sau: (Xin trích nguyên văn) 4. Nhiều người cho rằng: trước đây linh mục Chân tín đã có thời “thân cộng sản”, điều này có đúng không và có phải vì có thời kỳ đó mà cha đã có nhiều kinh nghiệm với cộng sản hay không? Nếu có thể xin cha nói về vấn đề này? Linh mục Chân Tín: Trước 1975, tôi và một số linh mục cùng một số giáo dân trí thức đã chống chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vì đã bắt bớ sinh viên và những người hoạt động chính trị. Các sinh viên và những người này bị bắt và bị tra tấn. Chúng tôi, 8 linh mục đã điều tra cẩn thận, nên đã lên tiếng yêu cầu trả tự do cho họ. Cuộc đối đầu giữa sinh viên và chế độ Nguyễn Văn Thiệu kéo dài và tờ báo Đối Diện của tôi đã bênh vực các sinh viên ấy. Cộng sản lợi dụng cuộc đấu tranh đó và nghĩ là chúng tôi về phe họ. Nhiều người trong chế độ cộng hòa cũng nghĩ như vậy. Tôi quan niệm rằng có bất công dù ở chế độ nào thì tôi cũng lên tiếng vì đó là sứ mạng ngôn sứ tôi đã lãnh nhận. Sau khi cộng sản chiếm Miền Nam , tôi tiếp tục đấu tranh chống chế độ cộng sản. Dù bị cộng sản kết án 3 năm quản chế tại Cần Giờ, tôi vẫn tiếp tục chống cộng sản cho tới nay. Dù sao, tôi rất thông cảm với những người, đặc biệt là những anh em, những công chức của chế độ Việt Nam cộng hòa đã bị cộng sản hành hạ, bắt bớ, tù đầy. Tôi mong anh em hiểu rằng tôi không bao giờ theo cộng sản. Có anh em cho rằng tôi theo cộng sản, vì ngày 30/4/1975, họ thấy tôi ở trong trại cộng sản tại Phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là một hiểu lầm.
Ngày 28/4/1975, tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Miền nam. Qua ngày 29/4, tướng Minh đã gửi một phái đoàn của chính phủ cầu hòa với cộng sản nhưng bất thành. Chiều 29/4, tướng Minh có nhờ tôi cùng với giáo sư Châu Tâm Luân và luật sự Liễng – là những người được coi như thành phần thứ ba, không theo cộng sản cũng không ủng hộ chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, làm trung gian vào trại Davis để điều đình cứu quốc. Khi biết các tướng tá cộng hòa đã tháo chạy từ sáng sớm, và như thế sẽ chẳng có chống đối kịch liệt, nên chúng tôi yêu cầu bộ đội cộng sản dừng pháo kích ồ ạt tàn phá giết hại đồng bào thành phố. Tướng Tuấn của cộng sản điện ra cho tướng Võ Nguyên Giáp nói lại yêu cầu của chúng tôi. Ông Võ Nguyên Giáp đồng ý và chúng tôi xin rút về nhà. Nhưng bấy giờ, bộ đội cộng sản đã tiến vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi không còn đường ra nên phải ở lại trong trại Davis cho tới chiều 30/4 mới về nhà được. Sự việc chỉ có thế, không như có người vì hiểu lầm bảo Chân Tín vào trại Davis đón cộng sản vào Sài Gòn. Trước khi bạn đọc tiếp bài này, xin qu1i vị đọc một sử liệu để chứng minh Chân Tín bất tín như thế nào.
Có hai bài viết về Chân Tìn và đều do Tôn Thất Mạnh Tường là dịch giả. Hai bài này đăng trong The Sixties Project - The Viet Nam Generation mạng Big Book ) - Chân Tín: A Non-Violent Struggle for Human Rights in Viet Nam Tôn Thât Mạnh Tường. - Father Chân Tín Has Been Unconditionally Released Tôn Thât Manh Tuong & Nam, Canada. tại địa chỉ mạng: www2.iath.virginia.edu/sixties/HTML…/Tuong_Chân_ Tin_bio.html (Bài viết này Chân Tín tự tố cáo mình là thân cộng) Người viết dịch bài thứ nhất bổ túc cho bài viết này. Bài viết thứ hai nói về những ngày sau khi Chân Tín ở Cần Giờ về không liên can đến bài viết. Nếu bạn đọc muốn tham khảo có thể vào địa chỉ website trên. Hoặc mở google, đánh hai chữ “chan tin” sẽ hiện ở đề mục thứ hai. Xin lưu ý, cả hai bài đều do Chân Tín viết rồi giao cho Tôn Thất Mạnh Tường dịch phổ biến trong giới học giả nghiên cứu Chiến Tranh Việt Nam . Chân Tín: Một Cuộc Tranh Đấu Bất Bạo Động cho Nhân Quyền tại Việt Nam Tôn Thất Mạnh Tường Tháng 5 năm 1990, cha Chân Tín và ông Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục), hai người Công Giáo La Mã có uy tín, bị quản thúc tại gia ở TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ). Theo báo chí chính thức của Việt Nam, cả hai bị bắt vì đã “thi hành những hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, gieo rắc những bất đồng giữa các tôn giáo, phá hoại đoàn kết giữa đạo và đời, và soạn thảo và ủng hộ những tài liệu cho các quốc gia khác sử dụng chống lại nhà cầm quyền nhân dân”. Đối với những ai đã biết về phong trào phản chiến tại miền Nam Việt Nam trước tháng 5 năm 1975, hai ông nổi tiếng vì nằm trong số những tiếng nói chỉ trích mạnh nhất chế độ cũ chống cộng sản ở Nam Việt Nam. Cha Chân Tín được người Việt Nam (Cộng Sản) đặc biệt ghi ơn vì cuộc tranh đấu của ông cho hòa bình và hòa hợp hòa giải giữa người Việt Nam với nhau, cũng như ông có những cố gắng vận động thả tù chính trị trong lúc chiến tranh đang diễn ra. Tại sao Cộng Sản Việt Nam (CSVN) lại đàn áp một người bạn đồng hành một thời của họ? Cuộc dấn thân của ông Chân Tín vào cuộc sống của đất nước ông càng ngày càng được chú ý và vì những căng thẳng dẫn đến tù đầy của ông, chúng tôi trình bày một bản tiểu sử phác thảo dưới đây.
Stefano Nguyễn Tín (Nguyễn là tên họ rất phổ thông tại Việt Nam, nhưng ông thường dùng bút hiệu Chân Tín) chào đời trong một gia đình nghèo ngày 11-11-1920 tại làng Vạn Xuân, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên miền Trung Việt Nam. Là chủng sinh Dòng Chúa Cứu Thế ngay từ hồi thiếu niên, ông thụ phong linh mục ngày 06-6-1949. Năm 1953, ông tốt nghiệp đại học Angelicum University của Dòng Đa Minh ở Rome với học vị tiến sĩ thần học. Trở về Việt Nam vào tháng 10-1953, Chân Tín bắt đầu dạy thần học tại Đại Chủng Viện Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt. Từ tháng 10-1961 đến tháng 6-1969, ông là tổng biên tập nguyện san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, là tờ báo lần đầu tiên ở Việt Nam cất lên tiếng nói đòi đối thoại và canh tân theo tinh thần công đồng Vatican II. Đó là lý do ông bị các bề trên cất chức tổng biên tập vì muốn có một tổng biên tập “ít tiến bộ hơn”.
Tuy nhiên, vào đầu năm 1970, ông được các bề trên cho phép ấn hành một nguyệt san khác mang tên Đối Diện. Việc ra đời của Đối Diện trùng hợp với “Việt Nam hóa” cuộc chiến. Chế độ Sài Gòn ở Nam Việt Nam , được người Mỹ ủng hộ, ngày cảng đàn áp mạnh mẽ. Đối phó với cuộc đàn áp này, nhân dân Nam Việt Nam, nhất là tại các đô thị lớn, đứng lên đòi hòa bình, kêu gọi hai bên tham chiến ở Việt Nam –là chế độ quân sự Sài Gòn được Mỹ yểm trợ và người Cộng Sản – hãy chấm dứt hận thù và cổ võ tự do và dân chủ. Nguyệt san Đối Diện đăng những bài viết chuyên nghiệp của Chân Tín và được đóng góp bài vở của một trong những cộng tác viên thân cận nhất là Nguyễn Ngọc Lan, một giáo sư tốt nghiệp giáo dục tại Pháp, giữ một vai trò chủ đạo trong mục tiêu này. Với tiếng nói minh bạch, Đối Diện kêu gọi hòa bình và hòa gải giữa người Việt Nam với nhau. Tờ nguyệt san này tố cáo mật vụ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tra tấn các sinh viên và tù nhân chính trị một cách rùng rợn qua cái gọi là “Chuồng Cọp” ở nha tù ngoài đào Côn Sơn. (Những người tù này sau là Cộng Sản gộc, nhớ ơn nên không giết hay tù đày mãn đời. Để sống ở ngoài cũng không nguy hiểm cho chế độ vì Chân Tín đã bị “tẩu hỏa nhập ma’ theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) Đối Diện cũng tố cáo tham nhũng và buôn lậu ma túy của chế độ quân phiệt Sài Gòn. Vì những lý do trên, những số báo của Đối Diện thường bị cảnh sát tịch thu và Chân Tín đã bị bắt vài lần. Cuối cùng thì vào tháng 10-1972, ông bị tòa án quân sự của Tổng Thống Thiệu kết án tù treo 5 năm. Đến cuối năm 1972, dân chúng biểu tình đã tăng lên mức đáng kể và chế độ quân phiệt nhìn Đối Diện như là một đe dọa nguy hiểm cho sự sống của của chế độ. Chế độ quân phiệt đóng cửa tờ bào và trừng phạt thẳng tay bất cứ ai lưu giữ những số báo Đối Diện. Để tiếp tục sống còn, Đối Diện đi vào phát hành bí mật. Lúc này, Chân Tín, hợp tác với những thành phần trí thức và tôn giáo, lập “Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù ở Nam Việt Nam ” và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban này. Chân Tín kêu gọi toàn thể người dân trong và ngoài nước phản đối chế độ Sài Gòn tra tấn tù nhân và gửi thuốc men và lương thực cho các tù nhân chính trị. Thân nhân của các tù chính trị cũng được Chân Tín và Ủy ban giúp đỡ nhằm củng cố thông tin thích đáng và yểm trợ tài chánh.
Tưởng cũng nên nhớ rằng, sau khi Hiệp Định Hòa Bình Paris cho Việt Nam vào đầu năm 1973, chế độ chống cộng Sài Gòn không chịu thả tù chính tri như Hiệp Định qui định, với lý do không giam giữ một tù chính trị nào hết. Đáp lại, Chân Tín và các bạn của ông, bằng những nỗ lực to lớn của họ, đã chứng minh cho thế giới sự thật chế độ Sài Gòn vẫn còn giam giữ hàng ngàn tù chính trị và việc tra tấn vẫn còn tiếp tục được chế độ nhìn như là một phương tiện bịt miệng những ai mưu tìm hòa bình và kêu gọi thi hành Hiệp Định Hòa Bình Paris. Nhiều bằng chứng vi phạm nhân quyền của chế độ Sài Gòn đã được gửi cho Chân Tín để ông ta gửi cho Ân Xá Quốc Tế và nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới. Còn trong nước, ủy ban của ông đã hợp tác chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo khác như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo trong nỗ lực của họ nhằm xoa dịu hoàn cảnh của các tù chính trị. (Việt Cộng có thi hành hiệp định này không? Không những chúng không thi hành mà còn xé bỏ, sao Chân Tín không yêu cầu chúng thi hành mà chỉ yêu cầu VNCH…) Chỉ vài giờ trước cuộc chiến thắng sau cùng của các lực lượng Cộng Sản tại Nam Việt Nam vào ngày 30-4-1975, Chân Tín, trong khi đạn pháo binh vẫn còn rơi, đã tiếp xúc người Cộng Sản với mục đích thuyết phục họ chờ chế độ Sài Gòn đầu hàng thay vì chiếm Sài Gon bằng quân sự. Sự can thiệp của Chân Tín đã cứu mạng nhiều người. Hành động can đảm của ông ta có ý nghĩa rất nhiều cho người dân Việt Nam đã chịu đau khổ chiến tranh tàn phá sau nhiều thập niên. Sau khi đã đạt chiến thắng Mỹ và chế độ Sài Gòn bằng quân sự, người Cộng Sản phải đối diện với thử thách làm sao chinh phục được lòng tin và ủng hộ của người dân. Muốn lợi dụng lòng tin mà Chân Tín được người dân ban cho, người Cộng Sản mời ông ta tham gia vào Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào làm thành viên của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận. Chủ trương là chống đế quốc và chủ nghĩa dân tộc, chứ không phải vì tình cảm xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chính trị tại Miền Nam Việt Nam cũng bắt người Cộng Sản phải làm theo như vậy với những người trí thức có uy tín và những nhân vật nổi tiếng khác. Trong trường hợp của Chân Tín, người Cộng Sản đã bị chới với ngay khi họ bắt đầu ca ngợi ông. Vào đầu năm 1977, trong phiên họp đầu tiên của Mặt Trận Tổ Quốc, Chân Tín đã tố cáo Đảng Cộng Sản VN đã ban hành một loạt các sắc lệnh nhằm hạn chế hay tước đoạt tự do tín ngưỡng. Theo những sắc lệnh này, người Thiên Chúa Giáo Việt Nam bị coi là “những công dân hạng hai.” Niềm tin tôn giáo của họ được ghi vào hồ sơ mãn đời, và lúc nào cũng được dùng cho những mục tiêu phân biệt đối xử, như không cho họ vào đại học hay làm công chức chính quyền, hoặc cấm họ hành đạo. (Vậy mà ngày xưa Chân Tín ca ngợi chế độ miền Bắc như thiên đàng trong tờ Đối Diện). Một trong những yêu sách can đảm và kiên trì nhất của Chân Tín trong những năm làm thành viên của Ủy Ban Trung Ướng Mặt Trận Tổ Quốc là đòi thả ngay lập tức và vô điều kiện tất cả mọi quân dân cán chính của chính quyền Sài Gòn cũ đang bị giam cầm trong các trại tù “cải tạo’. (Cám ơn nước mắt cá sấu). Theo những Điều Khoản và Nghị Định Thư về Tù Nhân trong Hiệp Định Hòa Bình Paris, những người này phải được thả ngay. Nhưng trong thực tế, giới lãnh đạo CSVN tại Hà Nội, sau khi chiếm được miền Nam Việt nam bằng chiến thắng quân sự hồi tháng 4-1975, đã giam giữ những người đó trong các trại được gọi là “cải tạo” không truy tố hay xét xử. Chân Tín tố cáo sự bất công này khiến cho ông bị người Cộng Sản loại ra khỏi Mặt Trận Tổ Quốc vào cuối năm 1987. Nhưng cũng không làm cho ông im lặng được. Ông tiếp tục viết những bài báo – dĩ nhiên là dưới hình thức chui, và trong các bài giảng, kêu gọi nhà cầm quyền Cộng Sản tôn trọng những quyền căn bản của con người. Trong dịp Vatican phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam vào giữa năm 1988, ông ta cùng với Nguyễn Ngọc Lan, viết những lá thư ngỏ gửi cho người Công Giáo Việt Nam mang nội dung cực lực phê phán người Cộng Sản không cho người Công Giáo VN tham dự lễ phong thánh. Rồi đến tháng 8-1989, một lá thư do Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan cùng một số người Công Giáo khác gửi cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, với những đề nghị quan tâm đến những đường lối nội bộ của Giáo Hội Công Giáo VN và quan hệ với nhà cầm quyền. Lá thư này gây khó khăn cho người Cộng Sản vì nó phanh phui bản chất thật của Ủy Ban Đoàn Kết Những Người Công Giáo Việt Nam Yêu Nước. Đây là một tổ chức Công Giáo tự trị, theo kiểu Trung Cộng. Nó đã bị phơi bầy là một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN.
“Tội của Chân Tín có thể tha, nhưng không thể quên” Khải Huyền Cứ mỗi lần 30 tháng 4 trở về, tôi, và không ít đồng bào miền Nam Việt Nam như tôi, lại nhớ về Sài Gòn những năm đầu thập niên 1970, biểu tình xuống đường rầm rộ, đã làm cho miền Nam Việt Nam yếu dấu rơi vào tay Cộng Sản và bị đọa đầy cho đến nay. Lý Chánh Trung có viết cuốn sách “Ba năm xáo trộn” để mô tả thời gian này. Bởi ai? Bởi cái gọi là thành phần thứ ba hòa hợp hòa giải và đám thanh niên sinh viên nội thành do VC tổ chức, tập hợp, hậu thuẫn sau lưng trong mọi cuộc biểu tình có Chân Tín và ba bốn mống trí thức thiên tả đi hàng đầu, mở chiến dịch gây xáo trộn miền Nam Việt Nam . Vì thế, Saigon lúc nào cũng tranh đấu xuống đường, hầu như không có một ngày yên ổn. Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo không thấy ai. Cao Đài cũng không thấy ai. Chỉ thấy Phật Giáo Ấn Quang và vài mống trí thức Công giáo thiên tả cả linh mục lẫn giáo dân. Trong thời gian khoảng một năm trở lại đây, trên các diễn đàn trong nước và hải ngoại xuất hiện một số bài viết của Chân Tín, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng Sài Gòn, nói về những vụ việc sau 75, liên hệ tới Tổng Giáo Phận Sài Gòn, như vụ TGM Nguyễn Văn Bình không can thiệp cho Đức Tổng Phanxico Xavier Nguyễn Văn Thuận về nhậm chức Phó Tổng Sài Gòn, sau khi mãn hạn 13 năm tù Cộng Sản; như vụ các linh mục Công Giáo thiên tả, sau này là quốc doanh, kéo đến tòa khâm sứ Sài Gòn “lôi cổ” ngài sứ thần Tòa Thánh Henry Le Maitre lên phi cơ cút khỏi miền Nam Việt Nam. Những bài viết này ký tên Chân Tín mang tính cách hoàn toàn chối tội, đổ cho người khác như TGM Bình, linh mục quốc doanh Huỳnh Công Minh, Vương Ngọc Bích, một ông giáo sư đại học Văn Khoa tôi không nhớ tên, nhưng rất nổi tiếng trong giời học thuật miền Nam Việt Nam, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, và cả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, thậm chí cả ông cha Nguyễn Quang Lãm, bút danh Thiên Hổ của nhật báo Xây Dựng… Chân Tín không có lỗi, có tội gì cả.
Những ai đã sống và làm việc tại Sài Gòn không thể nào phủ nhận sự thật lịch sử tranh đấu xuống đường tại thủ đô yêu dấu của Việt Nam Cộng Hòa những năm trước và sau 30.4.1975, cái tên Chân Tín đi hàng đầu, ngồi cùng bàn, uống máu ăn phần với đám cha quốc doanh trên, quyết đạp đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu, đem miền Nam VN dâng cho Cộng Sản Bắc Việt, khiến cho cả nước, từ quân tới dân, chìm trong tang tóc khổ ải từ ngày 30-4-1975 đến nay. Dù anh không phải là thủ phạm chính, nhưng anh hợp tác hoạt động với tội phạm đó, ít nhiều gì anh cũng có tội. Đàng này, Chân Tín còn là đầu sỏ của mấy cha cố và trí thức trên lại nói là không có lỗi gì cả, không thân cộng sản, không theo cộng sản. Ai mà tin được? May ra chỉ có Satan tin! Hàng trăm linh mục tuyên úy Công Giáo, là anh em trong hàng ngũ tu sĩ với Chân Tín, nhưng vì Chân Tín, mà lâm cảnh lao tù, ra tù không xứ, không con chiên, kéo lê kiếp sống mục tử nạn nhân buổi giao thời cho đến nay. Một triệu quân dân miền Nam , cũng vì Chân Tín và đồng bọn, bị đày ải khổ sở đến ngày nay. Đôi hàng về người viết Trước khi di vào chủ đề, người viết cũng phải có đôi lời tự giới thiệu “background” (lý lịch và tiểu sử) để độc giả biết tôi là ai? Tôi là một người Việt Nam theo đạo Công Giáo chào đời tại miền trung du Bắc Phần. Theo cha mẹ di cư vào Nam năm 1954. Nếu tính tuổi tác ở vào cái thời này, nay tôi cũng xấp xỉ nhân sinh thất thập cổ lai hy, theo lời ông Đỗ Phủ, một thi bá của Tàu, có nghĩa người sống được 70 tuổi xưa này đều hiếm (Bây giờ thì nhan nhản ra đấy). Hồ Chí Minh cũng mượn ý này để viết di chúc (Đâu có hơn gì tôi). Là trai thời chiến, lớn lên dưới chế độ VNCH, trưởng thành trong máu lửa, cầm súng chiến đấu trong cuộc chiến tranh tự vệ trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.
Sau ngày chế độ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, tôi đi tù cải tạo 6 năm. Rồi vượt biên năm 1982 đến trại tị nạn Galang Nam Dương. Ngày 17 tháng 6 năm 1983 đặt chân xuống đất Mỹ vào lúc 1 giờ 10 phút trưa, từ bên trong phi trường Los Angeles , bước ra ngoài phố, tôi mới chính thức đặt chân đến bến bờ tự do và tình người. Giới thiệu như thế cũng tạm đủ và cũng chẳng còn gì hơn. Hèn mọn đến thế nhưng tự hào về tinh thần chống Cộng, yêu mến chế độ VNCH cho đến mãn đời. Tôi làm việc ở Sài Gòn vào những năm tháng tranh đấu xuống đường mù khói lựu đạn cay, vòi rồng phun nước trong những cuộc biểu tình xuống đường phản chiến, kêu gọi hòa bình giả hiệu. Tôi có thể tự cho mình là chứng nhân lịch sử của thời này nên đủ tự tin và khả tín để viết bài này đúng sự thật lịch sử. Bài viết này chỉ có mục đích vạch trần bộ mặt thật Chân Tín, một trong số trí thức Công Giáo thân Cộng đã phá hoại chế độ VNCH như thế nào và hiện nay ra sao. Còn những người kia chỉ là hậu cảnh cho bài viết có sức thuyết phục. Nguyễn Văn Trung, hiện đang sống tại Canada , cũng cố cất tiếng nói thanh minh thanh nga cho vị thế ủng hộ Cộng sản. Lý Chánh Trung, sau khi xuống đường “quậy” cho miền Nam Việt Nam “ba năm xáo trộn “ nay cũng im tiếng. Nguyễn Ngọc Lan được phép miễn thi hành công việc của một linh mục, lấy vợ, và nay đã về lòng đất, không biết có được về chầu Chúa hay không? Còn Chân Tín đã “phản tỉnh” không phải vì hối lỗi ăn năn mà do bản chất “bất mãn kinh niên” của ông. Lúc còn ăn cơm nhà dòng (Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn) no rồi là xuống đường biểu tình lung tung. Nếu không xuống đường thì Chân Tín ngồi viết bài chửi bới VNCH đăng trên Đối Diện, đờng thời ca tụng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Sau khi bị VC vắt chanh bỏ vỏ, và chẳng còn quậy phá xách động gì được với Cộng Sản, Chân Tin bây giờ làm tờ Tự Do Ngôn Luận trên mạng chống Cộng Sản. Bất mãn kinh niên mà! Đến độ nếu lên Thiên Đàng, Chân Tín cũng bất mãn quậy phá xách động náo thiên cung nếu Thượng Để không được như ý ông muốn. Chỉ có xuống hỏa ngục Chân Tín mới cúp đuôi ngồi im. Chân Tin chuyên viên xách động phá rối Người dân Sài Gòn, đặc biệt dân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), không thể nào không biết đến nhưng tên tuổi một thời “quậy phá, xách động, phản bội ăn cháo đái bát, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” trong những năm trước ngày miền Nam thân yêu rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử. Đó là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín là 4 trí thức Công giáo, không những thiên tả mà còn tiếp tay góp phần vào cái gọi là “cướp” miền Nam Việt Nam đem dâng cho Cộng Sản Bắc Việt” là đầu sỏ băng cướp. Hai tên đầu là giáo sư. Hai tên sau là cha cố. Một người từ bỏ áo đen ra ngoài lấy vợ. Còn Chân Tín vẫn khoác áo thâm chùng đen, xách động biểu tình nhiều hơn là lên bàn thờ làm lễ hay làm công tác mục vụ của một mục tử. Tiếp tay cho mafia đỏ, không ai khác hơn là đầu sỏ Chân Tín biến thành Bất Tín, hay bất hạnh cho miền Nam Việt Nam trước và sau 1975 cho đến bây giờ. Trở lại với đề tài chính. Trong một bài viết của ông Đaminh Phạm Văn Phước đăng trên diễn đàn Ba Cây Trúc gần đây, ông có nêu ý kiến về hai bài phỏng vấn của Nữ Vương Công Lý với Giám Mục Nguyễn Thái Hợp, chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình và với Chân Tín, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng Sài Gòn, về Giáo Hội và Đất Nước. Trong mục số 4, ông Phước có đặt vấn đề với Chân Tín như sau: (Xin trích nguyên văn) 4. Nhiều người cho rằng: trước đây linh mục Chân tín đã có thời “thân cộng sản”, điều này có đúng không và có phải vì có thời kỳ đó mà cha đã có nhiều kinh nghiệm với cộng sản hay không? Nếu có thể xin cha nói về vấn đề này? Linh mục Chân Tín: Trước 1975, tôi và một số linh mục cùng một số giáo dân trí thức đã chống chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vì đã bắt bớ sinh viên và những người hoạt động chính trị. Các sinh viên và những người này bị bắt và bị tra tấn. Chúng tôi, 8 linh mục đã điều tra cẩn thận, nên đã lên tiếng yêu cầu trả tự do cho họ. Cuộc đối đầu giữa sinh viên và chế độ Nguyễn Văn Thiệu kéo dài và tờ báo Đối Diện của tôi đã bênh vực các sinh viên ấy. Cộng sản lợi dụng cuộc đấu tranh đó và nghĩ là chúng tôi về phe họ. Nhiều người trong chế độ cộng hòa cũng nghĩ như vậy. Tôi quan niệm rằng có bất công dù ở chế độ nào thì tôi cũng lên tiếng vì đó là sứ mạng ngôn sứ tôi đã lãnh nhận. Sau khi cộng sản chiếm Miền Nam , tôi tiếp tục đấu tranh chống chế độ cộng sản. Dù bị cộng sản kết án 3 năm quản chế tại Cần Giờ, tôi vẫn tiếp tục chống cộng sản cho tới nay. Dù sao, tôi rất thông cảm với những người, đặc biệt là những anh em, những công chức của chế độ Việt Nam cộng hòa đã bị cộng sản hành hạ, bắt bớ, tù đầy. Tôi mong anh em hiểu rằng tôi không bao giờ theo cộng sản. Có anh em cho rằng tôi theo cộng sản, vì ngày 30/4/1975, họ thấy tôi ở trong trại cộng sản tại Phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là một hiểu lầm.
Ngày 28/4/1975, tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Miền nam. Qua ngày 29/4, tướng Minh đã gửi một phái đoàn của chính phủ cầu hòa với cộng sản nhưng bất thành. Chiều 29/4, tướng Minh có nhờ tôi cùng với giáo sư Châu Tâm Luân và luật sự Liễng – là những người được coi như thành phần thứ ba, không theo cộng sản cũng không ủng hộ chế độ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, làm trung gian vào trại Davis để điều đình cứu quốc. Khi biết các tướng tá cộng hòa đã tháo chạy từ sáng sớm, và như thế sẽ chẳng có chống đối kịch liệt, nên chúng tôi yêu cầu bộ đội cộng sản dừng pháo kích ồ ạt tàn phá giết hại đồng bào thành phố. Tướng Tuấn của cộng sản điện ra cho tướng Võ Nguyên Giáp nói lại yêu cầu của chúng tôi. Ông Võ Nguyên Giáp đồng ý và chúng tôi xin rút về nhà. Nhưng bấy giờ, bộ đội cộng sản đã tiến vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi không còn đường ra nên phải ở lại trong trại Davis cho tới chiều 30/4 mới về nhà được. Sự việc chỉ có thế, không như có người vì hiểu lầm bảo Chân Tín vào trại Davis đón cộng sản vào Sài Gòn. Trước khi bạn đọc tiếp bài này, xin qu1i vị đọc một sử liệu để chứng minh Chân Tín bất tín như thế nào.
Có hai bài viết về Chân Tìn và đều do Tôn Thất Mạnh Tường là dịch giả. Hai bài này đăng trong The Sixties Project - The Viet Nam Generation mạng Big Book ) - Chân Tín: A Non-Violent Struggle for Human Rights in Viet Nam Tôn Thât Mạnh Tường. - Father Chân Tín Has Been Unconditionally Released Tôn Thât Manh Tuong & Nam, Canada. tại địa chỉ mạng: www2.iath.virginia.edu/sixties/HTML…/Tuong_Chân_ Tin_bio.html (Bài viết này Chân Tín tự tố cáo mình là thân cộng) Người viết dịch bài thứ nhất bổ túc cho bài viết này. Bài viết thứ hai nói về những ngày sau khi Chân Tín ở Cần Giờ về không liên can đến bài viết. Nếu bạn đọc muốn tham khảo có thể vào địa chỉ website trên. Hoặc mở google, đánh hai chữ “chan tin” sẽ hiện ở đề mục thứ hai. Xin lưu ý, cả hai bài đều do Chân Tín viết rồi giao cho Tôn Thất Mạnh Tường dịch phổ biến trong giới học giả nghiên cứu Chiến Tranh Việt Nam . Chân Tín: Một Cuộc Tranh Đấu Bất Bạo Động cho Nhân Quyền tại Việt Nam Tôn Thất Mạnh Tường Tháng 5 năm 1990, cha Chân Tín và ông Nguyễn Ngọc Lan (cựu linh mục), hai người Công Giáo La Mã có uy tín, bị quản thúc tại gia ở TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ). Theo báo chí chính thức của Việt Nam, cả hai bị bắt vì đã “thi hành những hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, gieo rắc những bất đồng giữa các tôn giáo, phá hoại đoàn kết giữa đạo và đời, và soạn thảo và ủng hộ những tài liệu cho các quốc gia khác sử dụng chống lại nhà cầm quyền nhân dân”. Đối với những ai đã biết về phong trào phản chiến tại miền Nam Việt Nam trước tháng 5 năm 1975, hai ông nổi tiếng vì nằm trong số những tiếng nói chỉ trích mạnh nhất chế độ cũ chống cộng sản ở Nam Việt Nam. Cha Chân Tín được người Việt Nam (Cộng Sản) đặc biệt ghi ơn vì cuộc tranh đấu của ông cho hòa bình và hòa hợp hòa giải giữa người Việt Nam với nhau, cũng như ông có những cố gắng vận động thả tù chính trị trong lúc chiến tranh đang diễn ra. Tại sao Cộng Sản Việt Nam (CSVN) lại đàn áp một người bạn đồng hành một thời của họ? Cuộc dấn thân của ông Chân Tín vào cuộc sống của đất nước ông càng ngày càng được chú ý và vì những căng thẳng dẫn đến tù đầy của ông, chúng tôi trình bày một bản tiểu sử phác thảo dưới đây.
Stefano Nguyễn Tín (Nguyễn là tên họ rất phổ thông tại Việt Nam, nhưng ông thường dùng bút hiệu Chân Tín) chào đời trong một gia đình nghèo ngày 11-11-1920 tại làng Vạn Xuân, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên miền Trung Việt Nam. Là chủng sinh Dòng Chúa Cứu Thế ngay từ hồi thiếu niên, ông thụ phong linh mục ngày 06-6-1949. Năm 1953, ông tốt nghiệp đại học Angelicum University của Dòng Đa Minh ở Rome với học vị tiến sĩ thần học. Trở về Việt Nam vào tháng 10-1953, Chân Tín bắt đầu dạy thần học tại Đại Chủng Viện Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt. Từ tháng 10-1961 đến tháng 6-1969, ông là tổng biên tập nguyện san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, là tờ báo lần đầu tiên ở Việt Nam cất lên tiếng nói đòi đối thoại và canh tân theo tinh thần công đồng Vatican II. Đó là lý do ông bị các bề trên cất chức tổng biên tập vì muốn có một tổng biên tập “ít tiến bộ hơn”.
Tuy nhiên, vào đầu năm 1970, ông được các bề trên cho phép ấn hành một nguyệt san khác mang tên Đối Diện. Việc ra đời của Đối Diện trùng hợp với “Việt Nam hóa” cuộc chiến. Chế độ Sài Gòn ở Nam Việt Nam , được người Mỹ ủng hộ, ngày cảng đàn áp mạnh mẽ. Đối phó với cuộc đàn áp này, nhân dân Nam Việt Nam, nhất là tại các đô thị lớn, đứng lên đòi hòa bình, kêu gọi hai bên tham chiến ở Việt Nam –là chế độ quân sự Sài Gòn được Mỹ yểm trợ và người Cộng Sản – hãy chấm dứt hận thù và cổ võ tự do và dân chủ. Nguyệt san Đối Diện đăng những bài viết chuyên nghiệp của Chân Tín và được đóng góp bài vở của một trong những cộng tác viên thân cận nhất là Nguyễn Ngọc Lan, một giáo sư tốt nghiệp giáo dục tại Pháp, giữ một vai trò chủ đạo trong mục tiêu này. Với tiếng nói minh bạch, Đối Diện kêu gọi hòa bình và hòa gải giữa người Việt Nam với nhau. Tờ nguyệt san này tố cáo mật vụ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tra tấn các sinh viên và tù nhân chính trị một cách rùng rợn qua cái gọi là “Chuồng Cọp” ở nha tù ngoài đào Côn Sơn. (Những người tù này sau là Cộng Sản gộc, nhớ ơn nên không giết hay tù đày mãn đời. Để sống ở ngoài cũng không nguy hiểm cho chế độ vì Chân Tín đã bị “tẩu hỏa nhập ma’ theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) Đối Diện cũng tố cáo tham nhũng và buôn lậu ma túy của chế độ quân phiệt Sài Gòn. Vì những lý do trên, những số báo của Đối Diện thường bị cảnh sát tịch thu và Chân Tín đã bị bắt vài lần. Cuối cùng thì vào tháng 10-1972, ông bị tòa án quân sự của Tổng Thống Thiệu kết án tù treo 5 năm. Đến cuối năm 1972, dân chúng biểu tình đã tăng lên mức đáng kể và chế độ quân phiệt nhìn Đối Diện như là một đe dọa nguy hiểm cho sự sống của của chế độ. Chế độ quân phiệt đóng cửa tờ bào và trừng phạt thẳng tay bất cứ ai lưu giữ những số báo Đối Diện. Để tiếp tục sống còn, Đối Diện đi vào phát hành bí mật. Lúc này, Chân Tín, hợp tác với những thành phần trí thức và tôn giáo, lập “Ủy Ban Cải Thiện Chế Độ Lao Tù ở Nam Việt Nam ” và sau đó trở thành chủ tịch ủy ban này. Chân Tín kêu gọi toàn thể người dân trong và ngoài nước phản đối chế độ Sài Gòn tra tấn tù nhân và gửi thuốc men và lương thực cho các tù nhân chính trị. Thân nhân của các tù chính trị cũng được Chân Tín và Ủy ban giúp đỡ nhằm củng cố thông tin thích đáng và yểm trợ tài chánh.
Tưởng cũng nên nhớ rằng, sau khi Hiệp Định Hòa Bình Paris cho Việt Nam vào đầu năm 1973, chế độ chống cộng Sài Gòn không chịu thả tù chính tri như Hiệp Định qui định, với lý do không giam giữ một tù chính trị nào hết. Đáp lại, Chân Tín và các bạn của ông, bằng những nỗ lực to lớn của họ, đã chứng minh cho thế giới sự thật chế độ Sài Gòn vẫn còn giam giữ hàng ngàn tù chính trị và việc tra tấn vẫn còn tiếp tục được chế độ nhìn như là một phương tiện bịt miệng những ai mưu tìm hòa bình và kêu gọi thi hành Hiệp Định Hòa Bình Paris. Nhiều bằng chứng vi phạm nhân quyền của chế độ Sài Gòn đã được gửi cho Chân Tín để ông ta gửi cho Ân Xá Quốc Tế và nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới. Còn trong nước, ủy ban của ông đã hợp tác chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo khác như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo trong nỗ lực của họ nhằm xoa dịu hoàn cảnh của các tù chính trị. (Việt Cộng có thi hành hiệp định này không? Không những chúng không thi hành mà còn xé bỏ, sao Chân Tín không yêu cầu chúng thi hành mà chỉ yêu cầu VNCH…) Chỉ vài giờ trước cuộc chiến thắng sau cùng của các lực lượng Cộng Sản tại Nam Việt Nam vào ngày 30-4-1975, Chân Tín, trong khi đạn pháo binh vẫn còn rơi, đã tiếp xúc người Cộng Sản với mục đích thuyết phục họ chờ chế độ Sài Gòn đầu hàng thay vì chiếm Sài Gon bằng quân sự. Sự can thiệp của Chân Tín đã cứu mạng nhiều người. Hành động can đảm của ông ta có ý nghĩa rất nhiều cho người dân Việt Nam đã chịu đau khổ chiến tranh tàn phá sau nhiều thập niên. Sau khi đã đạt chiến thắng Mỹ và chế độ Sài Gòn bằng quân sự, người Cộng Sản phải đối diện với thử thách làm sao chinh phục được lòng tin và ủng hộ của người dân. Muốn lợi dụng lòng tin mà Chân Tín được người dân ban cho, người Cộng Sản mời ông ta tham gia vào Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào làm thành viên của Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận. Chủ trương là chống đế quốc và chủ nghĩa dân tộc, chứ không phải vì tình cảm xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chính trị tại Miền Nam Việt Nam cũng bắt người Cộng Sản phải làm theo như vậy với những người trí thức có uy tín và những nhân vật nổi tiếng khác. Trong trường hợp của Chân Tín, người Cộng Sản đã bị chới với ngay khi họ bắt đầu ca ngợi ông. Vào đầu năm 1977, trong phiên họp đầu tiên của Mặt Trận Tổ Quốc, Chân Tín đã tố cáo Đảng Cộng Sản VN đã ban hành một loạt các sắc lệnh nhằm hạn chế hay tước đoạt tự do tín ngưỡng. Theo những sắc lệnh này, người Thiên Chúa Giáo Việt Nam bị coi là “những công dân hạng hai.” Niềm tin tôn giáo của họ được ghi vào hồ sơ mãn đời, và lúc nào cũng được dùng cho những mục tiêu phân biệt đối xử, như không cho họ vào đại học hay làm công chức chính quyền, hoặc cấm họ hành đạo. (Vậy mà ngày xưa Chân Tín ca ngợi chế độ miền Bắc như thiên đàng trong tờ Đối Diện). Một trong những yêu sách can đảm và kiên trì nhất của Chân Tín trong những năm làm thành viên của Ủy Ban Trung Ướng Mặt Trận Tổ Quốc là đòi thả ngay lập tức và vô điều kiện tất cả mọi quân dân cán chính của chính quyền Sài Gòn cũ đang bị giam cầm trong các trại tù “cải tạo’. (Cám ơn nước mắt cá sấu). Theo những Điều Khoản và Nghị Định Thư về Tù Nhân trong Hiệp Định Hòa Bình Paris, những người này phải được thả ngay. Nhưng trong thực tế, giới lãnh đạo CSVN tại Hà Nội, sau khi chiếm được miền Nam Việt nam bằng chiến thắng quân sự hồi tháng 4-1975, đã giam giữ những người đó trong các trại được gọi là “cải tạo” không truy tố hay xét xử. Chân Tín tố cáo sự bất công này khiến cho ông bị người Cộng Sản loại ra khỏi Mặt Trận Tổ Quốc vào cuối năm 1987. Nhưng cũng không làm cho ông im lặng được. Ông tiếp tục viết những bài báo – dĩ nhiên là dưới hình thức chui, và trong các bài giảng, kêu gọi nhà cầm quyền Cộng Sản tôn trọng những quyền căn bản của con người. Trong dịp Vatican phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam vào giữa năm 1988, ông ta cùng với Nguyễn Ngọc Lan, viết những lá thư ngỏ gửi cho người Công Giáo Việt Nam mang nội dung cực lực phê phán người Cộng Sản không cho người Công Giáo VN tham dự lễ phong thánh. Rồi đến tháng 8-1989, một lá thư do Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan cùng một số người Công Giáo khác gửi cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, với những đề nghị quan tâm đến những đường lối nội bộ của Giáo Hội Công Giáo VN và quan hệ với nhà cầm quyền. Lá thư này gây khó khăn cho người Cộng Sản vì nó phanh phui bản chất thật của Ủy Ban Đoàn Kết Những Người Công Giáo Việt Nam Yêu Nước. Đây là một tổ chức Công Giáo tự trị, theo kiểu Trung Cộng. Nó đã bị phơi bầy là một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN.
No comments:
Post a Comment