Trong chương trình Thời Sự 19h của VTV1 hôm nay (22.3.2013), Tiến
sĩ Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư Pháp một lần nữa khẳng định chữ
ký của mình tại Kiến Nghị Sửa đổi Hiến pháp năm 1992, do các nhân sĩ trí thức
khởi xướng, được công bố trên trang BauxiteVN ngày 22 tháng 1 năm 2013:
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ý kiến vào Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những người Việt
Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài
nước thẳng thắn nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn
vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc
cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân và được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các thành phần đa
dạng trong xã hội. Dự thảo chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ,
chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần
thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với
quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà nước bằng các cơ chế
đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không
thể vượt quá giới hạn được ấn định. Kiểm soát từ bên ngoài đối với công quyền
được thực hiện bởi nhân dân với vai trò quan trọng của xã hội dân sự mà tiền đề
là các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình,...
Hiến pháp phải mang tính chính đáng được đo bằng nhiều tiêu chí.
Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, kiến tạo tự do,
dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng thời đoàn kết toàn dân, loại bỏ mọi sự chia
rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ hai, hiến pháp
phải thể hiện ý chí chung của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để
lập ra các cơ quan nhà nước. Thứ ba, hiến pháp phải được xây dựng theo các
nguyên tắc pháp luật phổ biến của thế giới văn minh, phù hợp với các cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt chúng tôi kiến nghị 7 điểm như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rõ mục tiêu của hiến pháp và
chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết là để bảo
đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến pháp tốt phải
hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh
hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an bình và hiệu quả. Hiến
pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền
sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân,
chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời
nói đầu cần xác định rõ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất
kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu trên nên
chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
“Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ
tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh
phúc của nhân dân, vì một xã hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, vì tự
do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai, chúng tôi, nhân dân Việt
Nam, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.”
Trong Chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đòi
hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định
thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức
chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con
người, quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các
cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục
vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy.
Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đối với nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết
khi không còn lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với
xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của
nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh
hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt
Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo
chính trị được xã hội chấp nhận.
Kiến nghị thứ hai về quyền con người
Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền
đương nhiên của con người.
Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so với Hiến
pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định và chuẩn
mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới hạn quyền
(Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không
tách rời nghĩa vụ” (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều nghĩa vụ một
cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo các
lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định chính trị,
việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, ... nhằm hạn chế những quyền đó
sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người, đàn áp các
công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế những năm qua ở nước
ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn
về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được thực
thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy định các quyền ấy cũng trở nên vô
nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc
gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai
Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đã tồn tại từ lâu trên đất nước
ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự
sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và
đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai
“thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là duy trì quy định sai
trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng
triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của
tảng băng chìm hết sức nguy hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất đai
cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng bậc
nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất đai là
tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền, bắt tay
với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân dân, đặc
biệt là nông dân.
Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại mở rộng
phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; đây là một sự thụt
lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xã hội.
Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo, trở
lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư
nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có
trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lý đất đai, tài nguyên nước,
khoáng sản và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời
và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và
không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của
Dự thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ròi các nhánh lập
pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các cơ
quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc,
chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân
duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp
phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và
luật. Tòa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không
phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định
trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một
tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ
sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải
trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức
nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng
vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp
Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với quyền lập
pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp.
Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: “Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân
dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ý được tổ chức thật sự minh bạch
và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới.”
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ý kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một
việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm chỉnh,
không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời hạn lấy ý kiến của nhân dân chỉ trong
vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến tình trạng làm một cách hình thức cho qua
chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến
hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy
ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo
luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên sẽ phát
huy dân chủ và hoà hợp dân tộc – những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân dân
trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của đất
nước.
Chúng tôi tha thiết mong mỏi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng
bản Kiến nghị này bằng cách đăng ký tham gia ký tên theo địa chỉ thư điện tử:
Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 2013
DANH SÁCH
NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
1. Nguyễn
Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Lại
Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
3. Huỳnh Kim
Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
4. Huỳnh Ngọc
Chênh, nhà báo, TP HCM
5. Nguyễn Huệ
Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
6. Tống Văn
Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
7. Phạm Vĩnh
Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
8. Nguyễn
Xuân Diện, TS, Hà Nội
9. Lê Đăng
Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên
thành viên Viện IDS, Hà Nội
10. Hoàng
Dũng, PGS TS, TP HCM
11. Nguyễn
Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
12. Hồ Ngọc Đại,
GS TS, nhà giáo, Hà Nội
13. Lê Hiếu Đằng,
nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân
chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ
Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
14. Nguyễn
Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
15. Lê Hiền Đức,
Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Hà Nội
Phan Hồng
Giang, TSKH, Hà Nội
16. Lê Công
Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành
phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch Thành phố
(Saigontourist), TP HCM
17. Chu Hảo,
nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện
IDS, Hà Nội
18. Nguyễn
Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
19. Đặng Thị
Hảo, TS, Hà Nội
20. Võ Thị Hảo,
nhà văn, Hà Nội
21. Phạm Duy
Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên
Viện IDS, Hà Nội
22. Hồ Hiếu,
cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí
Minh, TP HCM
23. Nguyễn
Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên - Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa
Thiên - Huế
24. Nguyễn
Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành Sinh viên đoàn Đại học
Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
25. Phaolô
Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
26. Nguyễn Thế
Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí
Việt Nam, Đà Nẵng
27. Trần Ngọc
Kha, nhà báo, Hà Nội
28. Tương
Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng
Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
29. Phạm Chi
Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải,
nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
30. Cao Lập,
cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
31. Hồ Uy
Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
32. Nguyễn
Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
33. Nguyễn Khắc
Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
34. Huỳnh Tấn
Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài
Gòn trước 1975, TP HCM
35. Huỳnh
Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
36. Phạm Gia
Minh, TS, Hà Nội
37. Kha Lương
Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
38. Nguyên Ngọc,
nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
39. Hạ Đình
Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội
Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
40. Trần Đức
Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên
thành viên Viện IDS, Hà Nội
41. Phạm Xuân
Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
42. Phạm Đức
Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
43. Hồ Ngọc
Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng,
TP HCM
44. Nguyễn Hữu
Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
45. Hoàng
Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
46. Trần Việt
Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
47. Nguyễn
Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
48. Đào Xuân
Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
49. Tô Lê
Sơn, kỹ sư, TP HCM
50. Trần Đình
Sử, GS TS, Hà Nội
51. Nguyễn Trọng
Tạo, nhà văn, Hà Nội
52. Lê Văn
Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản, Nhật Bản
53. Trần Công
Thạch, hưu trí, TP HCM
54. Nguyễn Quốc
Thái, nhà báo, TP HCM
55. Trần Thị
Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
56. Lê Quốc
Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
57. Đào Tiến
Thi, thạc sĩ, Hà Nội
58. Nguyễn
Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, 59. Thanh niên,
Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
60. Phạm
Toàn, nhà giáo, Hà Nội
61. Phạm Đình
Trọng, nhà văn, TP HCM
62. Nguyễn
Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện
IDS, Hà Nội
63. Vũ Quốc
Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
64. Hoàng Tụy,
GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
65. Lưu Trọng
Văn, nhà báo, TP HCM
66. Trần
Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
67. Nguyễn Viện,
nhà văn, TP HCM
68. Nguyễn Hữu
Vinh, doanh nhân, Hà Nội
69. Tô Nhuận
Vỹ, nhà văn, Huế
70. Nguyễn Đắc
Xuân, nhà văn, Huế
71. Nguyễn
Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
72. Nguyễn
Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM.
No comments:
Post a Comment