Mới đây, nhân chuyện
Đảng và Nhà Nước ta giở trò bịp bợm “Sửa Đổi Hiến Pháp”, 72 ông bà trí thức
trong nước bèn chơi ngay cái “Kiến Nghị 72” rất là nổi bèo nổi bọt.
“Kiến
Nghị 72” này “ngầu” hơn “Kiến Nghị Xin-Cho” mấy năm trước rất nhiều.Tiếp theo
là cái “Tuyên Bố Của Các Công Dân” đang ngon lành các cái, đùng một cái, ôngNguyễn Đình Lộc, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp của CSVN, người
được các vị trí thức giao cho vai trò đại diện để trao kiến nghị, bèn leo lên
đầu mấy ông trí thức mà “ị” một phát rằng: “Tư cách trưởng đoàn chỉ được
trao vào phút chót vì ‘tín nhiệm’”.
Theo
ông “trí thức” Nguyễn Huệ Chi thì
sỡ dĩ ông “sĩ phu” Nguyễn Đình Lộc phải làm chuyện “bất nhất” và “đào ngũ” như
vậy là vì “con cái của ông ta bị Đảng và
Nhà Nước ta làm khó dễ (sic!)”.
Đề
cập về chuyện này, tác giả Hoàng Thanh Trúc có
bài viết “Sĩ khí (cũng) đổi màu”.
Do đó, bài viết này có cái tựa “Sĩ phu đổi nghĩa, sĩ khí đổi màu”.
Còn
nhớ cách đây 3 năm, năm 2011 sau những cuộc xuống đường biểu tình phản đối việc
Trung Cộng (TC) hống hách chiếm đất, lấn biển với sự “đồng thuận” của Đảng và
Nhà Nước CSVN, có một “ông trí thức” ở hải ngoại viết bài “Sĩ phu Bắc Hà và phiên phúc
thẩm Cù Huy Hà Vũ 2-8-2011” kêu gọi “sĩ phu Bắc Hà” hãy chứng tỏ tư cách kẻ sĩ của tầng lớp
“Sĩ Phu Bắc Hà” ngày nay nhân
dịp xử phúc thẩm vụ án Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ(CHHV) vào ngày mồng 2 tháng 8 năm 2011.
Không biết ở miền Bắc hiện nay có ai tự nhận mình là “Sĩ
Phu Bắc Hà” – sẽ chứng minh “tư cách kẻ sĩ” theo lời kêu gọi của “ông trí thức”
ở hải ngoại trong vụ toà án CSVN xử phúc thẩm Tiến sĩ CHHV hay không.
Bài viết này không có mục đích tranh luận mà chỉ muốn tìm
hiểu hiện nay ở Việt Nam, nói chung, và ở miền Bắc, nói riêng, có còn những
người được gọi là “Sĩ Phu” hay không?
*
Như
nhiều người biết, ngay từ thập niên 50, những vị trí thức nổi tiếng tại Pháp đã
về Việt Nam (VN) để kháng chiến chống Pháp theo lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh (HCM);
nhưng tất cả đều bị bạc đãi, trù dập.
Ông Nguyễn Hữu Đang,
người xây dựng lễ đài Độc lập để HCM đọc “Tuyên ngôn độc lập” đã bị tù đày vì
vụ án Nhân văn – Giai phẩm. Về cuối đời đã “tạo” cho mình một nơi trú ẩn là một
“lõm” vừa bằng thân mình ở cạnh một buội tre làng. Theo giải thích của ông, thì
nơi đây cũng sẽ là nấm mồ của ông khi ông qua đời! Sinh kế của ông là lượm các
bao thuốc lá để đổi cóc, nhái từ lũ trẻ để nấu bữa ăn hàng ngày!
Những
kẻ dính líu đến vụ án Nhân văn Giai phẩm thì bị “đấu” không ông nào ngóc đầu
lên được. Đến gần chết mới dám nói: “Bây giờ đã không còn sợ nữa”
– như nhạc sĩ Văn Cao.Người không bị đấu điếc gì cả là nhà văn Nguyễn Tuân cũng phải thú nhận là ông ta…
sợ!
Các
trí thức như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, nhà nghiên cứu Triết học Marxsist Trần Đức Thảo thì bị Đảng trù dập tan nát cả cuộc
đời và đã phải sống trong cảnh nghèo khổ cho đến chết (* Xin xem phụ bản về
Trần Đức Thảo ở cuối bài viết này).
Theo
tác giả VHT thì:
“Sĩ
phu Bắc Hà, là khái niệm chung chỉ người trí thức thời xưa ở Hà Nội, hay miền
Bắc nói chung, trong thời kỳ phong kiến VN. Sở dĩ có khái niệm này, hay danh
xưng trân trọng này, là vì họ biểu thị, ngay từ thời xưa, sự hiểu biết, trình
độ nhận thức thế sự, đặc biệt nhất là sĩ khí của mình. Nhưng rồi thời đại của sĩ
phu Bắc Hà cũng đã thật sự chấm dứt để chuyển thành “thời đại Hồ Chí Minh”. (do LM in đậm)
Thời
đại Hồ Chí Minh có nghĩa là thời đại mới mà mọi người trong nước, nhất là người
miền Bắc, người Hà Nội nói riêng, chỉ biết “nói theo” Bác, theo Đảng. Thế thì
làm gì còn, và cần gì đâu, để cần có sĩ phu Bắc Hà nữa. Gần một thế kỷ qua,
cũng đã chứng minh được hết mọi điều đó rồi còn gì”.
Thế nhưng tại sao “ông trí thức” ở hải ngoại, tác giả bài
“Sĩ phu Bắc Hà và phiên phúc thẩm Cù Huy Hà Vũ (2-8-2011)” lại đặt câu hỏi:
“Liệu
rằng nỗi khiếp sợ đó ngày nay có còn đè bẹp được giới trí thức VN nói chung,
hay giới “Sĩ phu Bắc Hà” nói riêng không?”
Và cũng chính tác giả “lên gân” tự trả lời:
“Chắc
chắn là không! Bao nhiêu kiến nghị yêu cầu đảng thực hiện những chính sách cải
tiến đất nước, bảo vệ tổ quốc, xây dựng đời sống nhân dân tốt đẹp hơn cho thấy giới trí thức VN ngày nay đã lột bỏ được nỗi
khiếp sợ đeo đẵng hằng mấy thập niên kỷ qua và dũng cảm đem kiến thức của mình vào
đời sống”.
Không
biết nhận xét của “ông trí thức” tác giả bài viết về “Sĩ phu Bắc Hà” có đúng
hay không; nhưng Lão Móc biết,
có một ông trí thức ở trong nước, ông viết bài “tự nhận là mình sợ hãi và hèn”
là Giáo sư Hà Văn Thịnh.
Bài viết của ông này nguyên văn như sau:
“Cả
tuần ngồi trên xe cùng sinh viên đi tham quan thực tế, mệt nên chỉ lướt qua
mạng vài tin chính rồi lăn ra ngủ. Hôm nay thì có thì giờ nên xem đủ, xem hết
những gì 7 ngày qua chưa xem. Đoạn băng do PGS TS NGĐ gửi qua email đã làm tôi
không cầm được nước mắt. Vừa khóc, tôi vừa tự nhắc mình rằng đừng khóc kẻo
người ta lại bảo ông điên này hay khóc.
Đó
là những giọt nước mắt tủi hổ vì thấy mình không bằng lũ trẻ chỉ mươi mười lăm
tuổi. Chúng nó hầu như chưa biết cách ăn mặc, chẳng hề biết cách tạo dáng,
nhưng Dáng đứng Việt Nam của những đứa trẻ đó thì không bút mực nào tả nổi. May ra, chỉ có
ống kính thần của các nhiếp ảnh gia mới làm cho lòng người xúc động đến thế. Vì
chẳng biết gì về nghệ thuật nhiếp ảnh, tôi kính đề nghị nghệ sĩ nào có lòng ,
có tài hãy cho lên mạng một bức ảnh như thế để làm “Dáng đứng Việt Nam” cho thời đại mới. Tôi khóc vì đã quá hèn, không dám bỏ ra dù chỉ
ít giờ ngày Chủ Nhật để đi cùng các cháu, các em biểu tình ở Hà Nội. Quá hèn vì
không dám cổ vũ cho nghĩa cử biểu tình đúng đắn của bổn phận và trái tim ấy vì sợ mang tiếng kích động chống phá nhà
nước XHCN.
Chao
ôi, thật là buồn và đau đớn trong cái thời yêu nước phải xin phép, yêu nước
phải sợ hãi, trí tuệ của hàng triệu người phải thua vua tập thể – những vị vua
mà tài năng chưa hề được minh chứng bao giờ!
Tôi
chưa thấy thời nào mà lũ trí thức chúng tôi ươn hèn đến thế. Xã hội đầy rẫy
những cái sai nhưng nói đến cái sai thì hầu như ai cũng phải nhìn quanh và phải
thầm thì.
Những
người bạn của tôi như PGS TS TTTL, PGS TS ĐB… thì nói rằng phản đối những cái
sai là ngu ngốc, là bẻ nạng chống trời, là “có thay đổi được gì đâu”. Tôi đã
khóc vì thấy mình ngu xuẩn. Ừ, tại sao không lo bảo vệ cái bát cơm của mình mà
lại đi lo chuyện đâu đâu? Tôi đã khóc vì thấy mình không bằng lũ trẻ. Chúng nó
hồn nhiên vô tư đến thế (BBC cho biết nhiều ông bố bà mẹ khuyến khích con đi
biểu tình yêu nước). Thật đáng tự hào khi có những người bố, người mẹ và những
đứa con như thế. Nếu Tổ quốc Việt Nam có hàng triệu người như thế thì làm sao
có thể run rẩy và khiếp sợ trước cái ác, cái ngu cứ nhũng nhiễu, hoành hành?
Tôi
đã khóc vì muôn điều khó nói. Nhưng, sau khi lau nước mắt, tôi đã mỉm cười.
Cười vì thấy bình minh đang tỏa rạng. Mặt trời đang lên. Tôi muốn nó sẽ sáng
bừng ngay nhưng đó chỉ là ước mong. Cái gì cũng có thời gian và cái giá của nó:
Mặt trời “mọc” được là nhờ sự vận động của hàng triệu thiên thể. Trong cái hằng
hà sa số của tổng thể “xã hội” tự nhiên ấy, không “ai” có quyền đứng yên. Tất
nhiên, giống như xã hội loài người, các thiên thể lớn hơn sẽ luôn có vai trò
quan trọng hơn. Chẳng hạn, nếu trí thức mà tham tiền, ngậm miệng thì ai sẽ mở
miệng cho đây? Tôi đã khóc vì xấu hổ khi phải thú nhận rằng mình ích kỷ và sợ
hãi”.
(Tôi đã khóc, Hà Văn Thịnh, Qui Nhơn ngày 26-7-2011).
*
Chuyện gì mà tréo cẳng ngổng như thế?
-“Ông
trí thức” hải ngoại thì nhất định là có “Sĩ phu Bắc Hà” và
theo bài viết của ông ta thì: “nỗi khiếp sợ ngày nào không còn
đè bẹp được giới “sĩ phu Bắc Hà”.
-Ông
trí thức VHT ở trong nước (?) thì bảo làm gì còn có “Sĩ phu Bắc Hà” trong cái
mà ông ta gọi là “thời đại Hồ Chí Minh” là thời đại mà mọi người đều phải “nói theo Bác và theo Đảng”;
tức là không phải là “Sĩ phu Bắc Hà”
mà là “Sĩ phu “Bác” Hồ”!
-Ông
Giáo sư Hà Văn Thịnh thì viết hẳn ra giấy trắng mực đen là: “Tôi đã khóc vì xấu hổ khi phải
thú nhận rằng mình ích kỷ và sợ hãi”.
Như vậy dân đen chúng tôi không biết phải gọi các vị trí
thức tham dự những cuộc biểu tình để biểu lộ lòng yêu nước vừa qua tại Hà Nội
bằng danh xưng nào:
“Sĩ phu Bắc Hà” hay “Sĩ phu “Bác” Hồ”?!
Nay, với chuyện ông “sĩ phu Bắc Hà” Nguyễn Đình Lộc qua
việc làm “bất nhất” và “đào ngũ” trong vụ “Kiến Nghị 72” đã làm “sĩ khí của
mình đổi màu” và tự trở về với vai trò “sĩ phu “Bác” Hồ” của mình!
Không nên trách làm gì về chuyện “Sĩ phu đổi nghĩa, sĩ khí
đổi màu” ở nước Việt Nam Xã nghĩa với chủ trương bất di bất dịch: XẠO HẾT CHỖ
NÓI!
Có trách chăng là nên trách những sĩ phu ở hải ngoại lại tự
mình tròng vào cổ mình cái danh xưng “sĩ phu “Bác” Hồ”!
LÃO MÓC
tieng-dan-weekly.blogspot.com
PHỤ
BẢN:
TRẦN ĐỨC THẢO, NGƯỜI TRÍ THỨC LẦM ĐƯỜNG!
Cách đây 20 năm, ngày 28-4-1993, trước linh cửu của giáo sư
Trần Đức Thảo, Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ của Hà Nội tại Paris đã đọc một thông
báo vừa được Hà Nội gửi qua, nguyên văn như sau:
“Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Tổng hợp
cùng di quyến thương tiếc loan tin: Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo sinh năm 1917
tại xã Phong Tháp, Từ Sơn, Hà Bắc, nguyên Đại diện Việt kiều tại Pháp, Ủy viên
ban Liên viện Paris, thành viên ban Phụ trách Nghiên cứu Sử Địa, giáo sư trường
Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, chuyên viên cấp cao của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Huân chương Độc
lập hạng nhì, đã nghỉ hưu, sau một thời gian lâm bệnh đã được Đại sứ nước ta
tại Pháp tận tình chăm sóc, nhưng do tuổi cao bệnh nặng, đã từ trần vào lúc 8
giờ 10 phút, giờ Paris tại bệnh viện Broussais Paris, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ hỏa
táng tại Paris ngày 28-4-93, lễ truy điệu giáo sư Thạc sĩ Trần Đức Thảo được cử
hành lúc 10 giờ ngày 28-4-93 tại giảng đường trường đại học Tổng hợp Hà Nội”.
Giáo sư Trần Đức Thảo là một nhà Triết học nổi tiếng. Theo
cuốn “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, học giả Hoàng Văn Chí kể rằng: Trần Đức
Thảo là con cụ Trần Đức Tiến, một tiểu công chức tòng sự tại sở Bưu Điện Hà
Nội. Lúc còn trẻ học ở Lycée Albert Sarraut ông tỏ ra hết sức thông minh. Các
thầy dạy ông, nhất là giáo sư Ner đã phải kêu lên là không chấm nỗi bài của
ông. Ông đỗ Tú tài Pháp, ban Triết học năm 1935. Năm sau ông đỗ đầu trong
kỳ thi vào Normal Supérieure ở bên Pháp. Sau đó ông đỗ Thạc sĩ Triết học và dạy
ở Đại học Sorbonne.
Những tài liệu này có một vài chi tiết hơi khác với các
nguồn tài liệu kác.
Lúc đầu ông theo chủ nghĩa Existentialisme của Jean Paul
Sartre, nhưng từ năm 1946, ông thiên về chủ nghĩa Marx và gia nhập đảng Cộng
sản Pháp. Trong một cuộc phỏng vấn, ông cho biết: “Tôi là người nghiên cứu về
chủ nghĩa Marx, tôi không phải là người Cộng sản, tôi không hề xin vào đảng
Cộng sản Việt Nam”.
Nhưng có một điều chúng ta có thể khẳng định mà không sợ
nhầm lẫn là: Trần Đức Thảo là một người yêu nước. Năm 1945, khi thực dân Pháp
chuẩn bị trở lại Đông Dương, trong một cuộc họp báo, một ký giả Pháp đã hỏi
ông:
“Nếu
mai đây quân đội Pháp trở lại Đông Dương thì họ sẽ được dân chúng Đông Dương
đón tiếp ra sao?”
Ông đã trả lời không do dự: “Bằng những phát súng”.
Câu trả lời trên đã nói lên tâm tư của ông đối với đất
nước, và đã trở thành hiện thực. Quân đội Pháp đã phải đối đầu với cuộc kháng
chiến của toàn dân Việt Nam, mở đầu với những phát súng ngày 23-9-1945 tại
Sàigòn.
Nhưng cũng vì câu trả lời này mà ông và một số thân hữu đã
bị chính quyền của De Gaule bắt giam vào khám lớn La Santé trong ba tháng. Khi
còn trong tù ông đã viết một bài báo nhan đề “Về vấn đề Đông Dương” gửi đăng
trên tờ Les Temps Modernes, là một tờ báo chuyên về văn chương và triết học của
phe tả (số ra tháng 2 năm 1946).
Đầu
thập niên 50, dư luận đặc biệt chú ý tới 5 buổi tranh luận giữa Jean Paul
Sartre và Trần Đức Thảo. Cuộc tranh luận giữa hai triết gia nổi tiếng này, đã
được thỏa thuận trước là sẽ ghi lại và xuất bản, theo nguyên văn cuộc tranh
luận giữa hai người. Nhưng cuộc tranh luận đã đi đến chỗ gay gắt vì những bất
đồng ý kiến quá cách biệt giữa đôi bên. Việc xuất bản do đó bị ngưng lại và đưa
đến việc thưa kiện giữa hai người.
Vụ thưa kiện đang được Toà án thụ lý thì Trần Đức Thảo quyết định về nước trực tiếp chống Pháp. Vì theo ông: “… Chiến tranh đã bùng nổ ngày càng căng thẳng… thế nên sau nhiều đêm suy nghĩ đắn đo, tôi quyết định bỏ hết để đi về”. Và ông đã về thật, bỏ hết quyền lợi vật chất và danh vọng. Những bạn bè thân thiết cho đây là một quyết định sai lầm, vì liệu một nhà nghiên cứu triết học sẽ làm được gì trong bưng biền kháng chiến vất vả và eo hẹp. Ông cũng đã nghĩ đến điều đó và ông tâm sự: “Nếu chuyến trở về này mà không làm được gì thì cuộc đời tôi kể như chết từ hôm nay”. Rồi ông rời Paris đi Prague, thủ đô Tiệp Khắc, qua Moscow, Bắc Kinh về Việt Bắc. Đó là thời điểm cuối năm 1951.
Và đây, Tô Hoài kể về những ngày đầu của nhà nghiên cứu Triết học Marxist Trần Đức Thảo ở Việt Bắc:
Vụ thưa kiện đang được Toà án thụ lý thì Trần Đức Thảo quyết định về nước trực tiếp chống Pháp. Vì theo ông: “… Chiến tranh đã bùng nổ ngày càng căng thẳng… thế nên sau nhiều đêm suy nghĩ đắn đo, tôi quyết định bỏ hết để đi về”. Và ông đã về thật, bỏ hết quyền lợi vật chất và danh vọng. Những bạn bè thân thiết cho đây là một quyết định sai lầm, vì liệu một nhà nghiên cứu triết học sẽ làm được gì trong bưng biền kháng chiến vất vả và eo hẹp. Ông cũng đã nghĩ đến điều đó và ông tâm sự: “Nếu chuyến trở về này mà không làm được gì thì cuộc đời tôi kể như chết từ hôm nay”. Rồi ông rời Paris đi Prague, thủ đô Tiệp Khắc, qua Moscow, Bắc Kinh về Việt Bắc. Đó là thời điểm cuối năm 1951.
Và đây, Tô Hoài kể về những ngày đầu của nhà nghiên cứu Triết học Marxist Trần Đức Thảo ở Việt Bắc:
“…
Trần Đức Thảo ở Pháp về Việt Bắc… Trần Đức Thảo còn viết cả bài quy định giai
cấp tiểu thương, tiểu chủ cho các nhân vật Thúc Sinh, Mã Giám Sinh trong truyện
Kiều. Trần Đức Thảo hồn nhiên, hăng hái bằng các sinh hoạt của anh lúc ấy. Thảo
đem cho hết đồ Tây, Thảo mặc áo nâu, đi chân đất. Chúng tôi ngủ không màn, mặc
dầu chúng tôi ở rừng đầu sông Lô, đêm đến muỗi nhiều như trấu. “Về muộn mà, tớ
phải luyện tập gian khổ cho kịp với các cậu”. Trần Đức Thảo nói đứng đắn thế.
Chẳng bao lâu, Thảo lăn đùng ra sốt rét xanh tái…” (Tô Hoài, Cát Bụi Chân Ai).
Nhưng cũng trong lúc đó, ông cũng choáng váng trước “hiện
thực Marxist” mà ông lần đầu tiên tiếp xúc. Trước hết, ông nhận ra rằng những
người lãnh đạo ở Việt Bắc lúc ấy không coi ông là người trong tổ chức của họ.
Ông được giao cho những công tác lặt vặt và trái chuyên môn. Qua năm 1953, ông
được bố trí cho ngồi dịch các bài nói, bài viết của Trường Chinh, người lúc ấy
đang được coi là lý thuyết gia số một của Đảng. Và cũng từ mùa hè 1953 ông trực
tiếp tham gia cuộc “chỉnh huấn” dưới sự cố vấn của các cán bộ Trung Quốc. Quan
điểm thịnh hành lúc bấy giờ của cuộc “chỉnh huấn” và “cải cách ruộng đất” ở
vùng do Việt Minh kiểm soát là quan điểm hoàn toàn Maoist, rập khuôn Trung
Quốc.
Trước những hành động cuồng tín của một số cán bộ cấp trung
và cấp thấp, khi gặp những lãnh tụ tương đối có trình độ, ông mạnh dạn đặt vấn
đề thì được họ phũ phàng trả lời: “Đó là ý kiến của lãnh đạo, phải tuyệt đối
chấp hành, còn thắc mắc tức là có tư tưởng lệch lạc”.
Về Hà Nội, Trần Đức Thảo được cử giữ chức Chủ nhiệm khoa Sử
trường Đại học Hà Nội. Cuối năm 1956, một người trong nhóm “Nhân văn” là Nguyễn
Hữu Đang (người đã dựng lễ đài Độc Lập tại Hà Nội năm 1945) đến gặp Trần Đức
Thảo và nhờ viết bài. Ông nhận lời, và trên Nhân văn số 3, ngày 15-10-1956, có
bài viết của ông nhan đề “Nỗ lực phát triển Tự do, Dân chủ”. Tiếp theo đó là
bài “Nội dung Xã hội và hình thức Tự do” trên “Giai phẩm mùa Đông”. Hai bài
viết có tác dụng như hai quả bom nổ giữa lòng Hà Nội. Ngay lập tức ông bị cách
chức, bị lôi ra kiểm điểm cùng với tất cả những ai có liên quan đến “Nhân văn”
và “Giai phẩm mùa Đông” như Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trương
Tửu, Lê Đạt… Cá nhân Trần Đức Thảo nói riêng và nhóm “Nhân văn – Giai phẩm” nói
chung bị bọn văn nô, bồi bút theo lệnh Đảng tấn công liên tục suốt hai năm
trời.
Phạm Huy Thông, tiến sĩ, một trong những trí thức hàng đầu
của miền Bắc lúc bấy giờ đã viết bài: “Một triết gia phản bội chân lý: Trần Đức
Thảo” đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 4-5-1958, lúc cuộc đấu tố bước vào thời
kỳ cao điểm. Bài viết buộc tội Trần Đức Thảo hết sức gay gắt, nhiều chi tiết
bịa đặt, dựng đứng để bôi xấu cá nhân ông:
“…
Thật ra thành tích học thuật cũng như thành tích chính trị của Thảo ở Pháp
trước đây, nhìn lại toàn là những thành tích bất hảo. Mất gốc rễ dân tộc, Thảo
chỉ say mê với văn học Hy Lạp, với triết học duy tâm từ Pờ-la-tông đến Hê-ghen
với những phương pháp suy luận trừu tượng, hình thức. Trở nên môn đệ của
Giăng-Pôn-Xác, Thảo đã tham gia những hoạt động văn hóa và chính trị phản động
của nhóm Thời Nay, do Xác chỉ huy, nêu cao thuyết “sinh tồn” – một thuyết phản
động về triết học và chính trị, chủ yếu nhằm chống lại phong trào cộng sản ở
các nước phương Tây. Dưới chiêu bài sinh tồn, người ta thấy tập họp đủ mọi hạng
phá hoại, Tờ-rốt-kít vô chính phủ cùng mọi cở sa đọa về chính trị…”(Phạm Huy Thông, bài
báo đã dẫn).
Nhưng
nhà trí thức Phạm Huy Thông, một người từng du học ở Pháp, đã không dừng lại ở
đó:
“… Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Marxist truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hóa, không tiếp thu được hay tiếp thu một cách máy móc thì nguy hiểm… Thảo phỉ báng chính sách ngoại giao của ta mà Thảo cho là đầu hàng, phản bội. Nói về hiệp ước sơ bộ 6-3-1945, Thảo đã phụ họa với bè lũ Tơ-rốt-kít chống lại chính phủ của ta và đã thốt ra những lời thóa mạ thô bỉ, rất hỗn xược đối với các lãnh tụ của ta… Bọn Tơ-rốt-kít đã có lần gây một vụ đổ máu thê thảm ở trại Ma-đát gần Mác-Xây, để đe dọa những kiều bào ủng hộ kháng chiến, khiến hàng chục kiều bào thiệt mạng, hàng trăm kiều bào bị tàn phế, thương tật. Nhiều người đã lên tiếng nói rằng không phải Thảo không có trách nhiệm gì trong vụ khiêu khích bẩn thỉu này…”(PHT, bbđd).
“… Ngay từ năm 1945, Thảo công kích những người đem tư tưởng Marxist truyền bá cho kiều bào, công nhân, cho rằng công nhân không có văn hóa, không tiếp thu được hay tiếp thu một cách máy móc thì nguy hiểm… Thảo phỉ báng chính sách ngoại giao của ta mà Thảo cho là đầu hàng, phản bội. Nói về hiệp ước sơ bộ 6-3-1945, Thảo đã phụ họa với bè lũ Tơ-rốt-kít chống lại chính phủ của ta và đã thốt ra những lời thóa mạ thô bỉ, rất hỗn xược đối với các lãnh tụ của ta… Bọn Tơ-rốt-kít đã có lần gây một vụ đổ máu thê thảm ở trại Ma-đát gần Mác-Xây, để đe dọa những kiều bào ủng hộ kháng chiến, khiến hàng chục kiều bào thiệt mạng, hàng trăm kiều bào bị tàn phế, thương tật. Nhiều người đã lên tiếng nói rằng không phải Thảo không có trách nhiệm gì trong vụ khiêu khích bẩn thỉu này…”(PHT, bbđd).
Sau khi nói xấu Trần Đức Thảo đủ điều (mà chúng tôi không
thể nêu hết ra đây), Phạm Huy Thông xoay ra “chụp mũ, quy kết chính trị” nhà
triết học này:
“…
Mùa Thu 1956, tưởng thời cơ đã đến. Từ số 3 trở đi, báo Nhân văn chuyển hướng
sang chính trị một cách rõ rệt. Bài “Nỗ lực phát triển tự do, dân chủ” của Trần
Đức Thảo được đăng trong số báo ấy, mở đầu cho sự chuyển hướng và được nhóm
Nhân văn coi như cương lĩnh của mình… Trần Đức Thảo ở trong đại học và ở ngoài
đại học lúc nào cũng lớn tiếng đòi trả chuyên môn cho chuyên môn, đòi trục xuất
chính trị ra khỏi chuyên môn… Qua thư của Hoàng Cầm và nhiều tài liệu khác nữa,
cho thấy đường lối chính trị của nhóm Nhân văn là do Trần Đức Thảo trực tiếp và
chủ yếu vạch ra…” (PHT, bbđd).
Ta thấy rõ ông trí thức Phạm Huy Thông đã tự đánh mất những
liêm sỉ tối thiểu của một nhà trí thức khi dựng đúng những chi tiết mà chỉ cần
đọc lướt qua, ai cũng thấy ngay là bịa đặt.
Tố Hữu, người chỉ đạo công tác tư tưởng và văn hóa, văn
nghệ thời bấy giờ, phụ trách việc đấu tố triệt hạ nhóm “Nhân văn – Giai phẩm”.
Trong bài đấu tố nhóm này, ông cai thầu văn hóa, văn nghệ đã nhiều lần nhắc đến
tên Trần Đức Thảo:
“…
Chúng vu khống Đảng ta là ‘chủ nghĩa cộng sản phong kiến’ bóp nghẹt tự do,
chúng vu khống những người cộng sản là ‘khổng lồ không tim’ chà đạp con người…
xuyên tạc những quan hệ giai cấp trong xã hội, Trần Đức Thảo cũng đã cố tạo thế
đối lập giữa lãnh đạo ‘kìm hãm tự do’ và quần chúng lao động ‘đòi tự do’… Tất
cả những luận điệu của chúng rõ ràng không nhằm mục đích nào khác là chống lại
lợi ích của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, kích thích chủ nghĩa cá nhân thối nát,
tạo nên miếng đất tốt cho những hoạt động khiêu khích, phá hoại của chúng, hòng
làm thất bại cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc…” (Tố Hữu, Báo cáo tổng kết cuộc tranh đấu chống nhóm phá
hoại “Nhân văn – Giai phẩm” trong hội nghị Ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học
– Nghệ thuật Việt Nam họp lần thứ III tại Hà Nội ngày 4-6-1958).
Đó không phải là lần nhắc đến tên Trần Đức Thảo duy nhất
trong bài nói của Tố Hữu. Ở một đoạn khác, Tố Hữu nói:
“…
Trần Đức Thảo cố bịa ra cái “hạt nhân duy lý”, là một hỏa mù cốt để xóa nhòa
ranh giới giữa cái đúng và cái sai, giữa cách mạng và phản cách mạng…” (Bđd).
Và
cuối cùng, như một công thức bất di bất dịch để đúc kết các bài viết, bài nói,
Tố Hữu kết luận:
“…
Lấy đường lối văn nghệ của đảng Lao động Việt Nam làm vũ khí chiến đấu, giới
văn nghệ chúng ta hãy tiến lên tiêu diệt tận gốc đường lối văn nghệ phản động
của nhóm Nhân văn – Giai phẩm”. (Tố Hữu, bài nói đã
dẫn).
Số phận của nhóm “Nhân văn – Giai phẩm” đã được định đoạt:
mất quyền công dân, bị tuớc đoạt tất cả, bị cưỡng bức lao động ở một vùng quê.
Nhiều năm sau mới được trở lại Hà Nội, sống nghèo nàn với tài sản đắt giá nhất
là một chiếc xe đạp cũ kỹ. Vợ ông, Tiến sĩ Tâm lý giáo dục Nguyễn Thị Nhì, bị
áp lực của Đảng và Nhà nước đã ly dị ông để kết hôn với Nguyễn Khắc Viện, một
người bạn thân của ông ở Pháp. Bác sĩ Viện lúc ấy đang là con cưng của Đảng.
Nhà nghiên cứu Triết học Marxist, Giáo sư Thạc sĩ Trần Đức
Thảo đã sống trong tăm tối nghèo khổ cùng cực trong 30 năm. Sau khi Nguyễn Văn
Linh lên cầm quyền và tung ra chiêu bài cởi mở năm 1987, ông Thảo mới được viết
trở lại. Lúc này ông đã già. Năm 1991, ông được cho qua Pháp ngắn hạn. Hết hạn,
ông vẫn ở lại, sống vô cùng túng quẫn. Bị cúp tiền, ông lén nấu ăn lấy thì bị
cúp gas, cúp điện. Thấy vậy, Hội Những Nhà khoa học Pháp (Société des Hommes de
Sciences) để tỏ lòng ngưỡng mộ đã quyết định trợ cấp cho ông vô hạn định mỗi
tháng 10,000 Francs (2,000 USD). Nhưng ông vừa nhận được tấm ngân phiếu đầu
tiên vào ngày hôm trước, thì hôm sau ông qua đời.
Lời nói từ giã bạn bè ở Pháp trước khi về nước của giáo sư
Trần Đức Thảo đã trở thành một lời tiên tri bi thảm. Tài năng của ông không có
chỗ để phát huy dưới chế độ Cộng sản. Chế độ đó đã làm thui chột một tài năng
triết học có “tầm cở quốc tế” như nhà triết học nổi tiếng Louis Althusser (bạn
và là học trò của Trần Đức Thảo) nhận định.
Nhưng đã để lại cho chúng ta một tấm gương của một nhà trí
thức không cúi đầu trước sai lầm của những người đang nắm giữ quyền lực. Và qua
cái chết của ông, trong hoàn cảnh vô cùng túng quẩn đã cho mọi người thấy sự
giả trá, bịp bợm cùng cực của Cộng sản Hà Nội qua bản thông báo của họ. “Được
đại sứ quán của nước ta tại Pháp tận tình chăm sóc…” Câu nói láo trắng trợn này
được Đại sứ Hà Nội Trịnh Ngọc Thái đọc lên một cách hết sức trơn tru khiến
người ta phải nóng mặt.
Không có điếu tang. Bởi bài điếu tang giáo sư Trần Đức Thảo
nếu được viết một cách đứng đắn sẽ là những cái tát ngược vào mặt chế dộ.
“Khi
sống, con chẳng cho ăn
Khi chết, con lại làm văn tế ruồi!
Khi chết, con lại làm văn tế ruồi!
LÃO MÓC
No comments:
Post a Comment