CHƯƠNG 16: VỤ BẮT CÓC TƯỞNG GIỚI THẠCH
Ngay cả những người Trung hoa thân Nhật cũng phải kinh hoàng
trước sự bao vây của Nhật Bản. Khi họ áp lực đòi Tưởng Giới Thạch phải có thái
độ rõ rệt với Nhật Bản thì họ chỉ muốn làm dịu bớt sự căng thẳng, chứ không
muốn có một sự đụng độ vũ trang với Nhật Bản. Năm 1935 vì chưa sẵn sàng một
cuộc chiến tranh toàn diện với Nhật, Tưởng phải đề nghị ký một hiệp ước thân hữu
với Nhật, nhượng lại tất cả quyền lợi thương mại và tô giới của các nước Âu
Châu cho Nhật. Đây là một sự nhượng bộ lớn lao mà nhiều người Trung hoa yêu
nước cực lực phản đối. Bộ ngoại giao Nhật Bản vội đồng ý chấp nhận ngay, nhưng
lúc đó phe quân phiệt Nhật đang thắng thế và đang muốn chinh phục Trung hoa,
nên bác bỏ đề nghị của Tưởng.
Đến đó thì Tưởng biết rằng Nhật Bản sắp sửa khai chiến. Ngay từ
năm 1931, một cố vấn của Tưởng đã báo động rằng Nhật Bản sẽ chiếm Mãn châu
nhiều tháng trước khi sự việc này thực sự xảy ra. Lần này, Tưởng cũng không
ngạc nhiên trước thái độ hung hăng của phe quân phiệt Nhật. Tưởng không thiếu
vũ khí. Khổng Tường Hy đã sang tận Đức mua về một số lượng vũ khí rất lớn của
hãng Krupp. Trung hoa cũng là khách hàng mua vũ khí và phi cơ quan trọng nhất
của Hoa Kỳ.
Đúng như người ta dự đoán trước, quân Nhật tấn công và chiếm
Thái Nguyên và yêu cầu quân đội Quốc dân đảng rút lui khỏi tỉnh Hà Bắc. Khi
quân Quốc dân đảng chịu rút lui thì Nhật Bản lập tức xáp nhập các tỉnh Hà Bắc,
Sơn Đông, Sơn Tây, và Sáp Cáp Nhĩ thành một khu tự trị dưới sự kiểm soát của
quân Nhật. Quân Nhật làm chủ tất cả vùng đông bắc Trung hoa cho tới tận bên
ngoài thành phố Bắc Kinh.
Trong khi đó Mao Trạch Đông và hồng quân Trung hoa trốn khỏi căn
cứ sô viết Giang Tây đã đến được Diên An sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Lực
lượng cộng sản vô cùng suy yếu sau một cuộc đào tẩu gian nan kéo dài cả năm
trời. Phe cộng sản lúc này rất cần thời gian để bồi dưỡng sức mạnh và phát
triển. Mao rất sợ Tưởng Giới Thạch mở cuộc tấn công ngay, nên phải lôi phe quốc
gia chống Nhật hợp tác, như một sự che chở trước sức mạnh của Tưởng. Người
Trung hoa ái quốc đặt mục tiêu chống quân xâm lăng Nhật lên trên tất cả. Mao
Trạch Đông lợi dụng được lợi điểm đó từ người quốc gia, và biến họ thành đồng
minh nhất thời trong lúc lực lượng cộng sản còn quá yếu. Các sinh viên kính
phục những người dám chống Nhật, và coi họ là anh hùng. Ngày 9-12-1935, hàng
chục ngàn sinh viên tại Bắc Kinh biểu tình đả đảo Nhật Bản. Cuộc biểu tình được
toàn quốc chú ý, và bà Khánh Linh cũng từ bỏ cuộc sống ẩn dật tại Thượng Hải,
và dấn thân chiến đấu, thành lập Phong Trào Liên Minh Cứu Quốc.
Mạc tư khoa cũng sợ Nhật Bản nên ra lệnh cho đảng cộng sản Trung
hoa chấm dứt việc tuyên truyền chống Tưởng Giới Thạch, và phải kết hợp với Quốc
dân đảng thành một mặt trận thống nhất. Mao Trạch Đông phản đối lệnh của Nga
sô, nhưng chưa đủ mạnh để cưỡng lệnh. Mao đành phải miễn cưỡng tìm cách liên
lạc với Tưởng qua thống chế Trương Học Lương. Quân của Trương Học Lương đóng
tại vùng biên giới tây bắc, bên cạnh căn cứ của cộng quân.
Trương Học Lương là một sứ quân thông minh, khác hẳn các sứ quân
khác là những kẻ vừa độc ác tham lam vừa thiển cận tự tôn. Sau một tuổi trẻ
trác táng tại Mãn Châu và Âu Châu, Trương Học Lương nghiện thuốc phiện. Người
ta thấy có dấu hiệu những thuốc phiện của Trương Học Lương dùng đã được bào chế
để hủy hoại tinh thần viên sứ quân trẻ tuổi. Trùm mật vụ Thái Lý của Tưởng Giới
Thạch rất thiện nghệ đầu độc đối thủ của Tưởng bằng thuốc phiện. Sau khi thân
phụ là sứ quân Trương Tác Lâm bị quân Nhật ám sát năm 1928, Trương Học Lương đã
liên kết với Tưởng Giới Thạch vì lòng ái quốc bồng bột, và cũng muốn trả thù
nhà. Nhưng Tưởng Giới Thạch đã ngăn cản không cho Trương Học Lương bảo vệ Mãn
châu chống lại quân Nhật, và sau đó Tưởng đổ lỗi cho Trương Học Lương làm mất
Mãn Châu. Sau đó Tưởng dùng Trương Học Lương làm vật tế thần mỗi khi quân Nhật
chiến thắng. Trương Học Lương đành phải từ bỏ mọi chức vụ và tìm lãng quên
trong khói thuốc phiện.
Một cố vấn người Úc hết sức khuyên Trương Học Lương sang chữa
trị bệnh nghiện thuốc phiện tại Âu Châu. Năm 1934, từ Âu Châu trở về, Trương
Học Lương là một người hoàn toàn khác hẳn trước. Sự yếu đuối ủy mị với thuốc
phiện nay được thay thế bằng một tinh thần quốc gia mãnh liệt. Trương Học Lương
tin rằng phải cứu nước Trung hoa bằng cách khuyến dụ Tưởng Giới Thạch phải cứng
rắn với Nhật Bản. Trương Học Lương đã bàn cãi vấn đề này với Tống Tử Văn, và
hai người thấy rằng chỉ có một cuộc đảo chánh mới thay đổi được tình thế.
Đầu năm 1936, Trương Học Lương âm thầm ra lệnh cho quân của mình
tại biên giới không được tấn công quân cộng sản. Trương Học Lương tin rằng phần
lớn những người đi theo cộng sản là vì Tưởng Giới Thạch và các thế lực ngoại
bang đã đưa Trung hoa đến chỗ suy đồi. Trương Học Lương quyết định rằng người
Trung hoa sẽ không bắn giết lẫn nhau trong khi quân ngoại xâm đang tàn phá đất
nước. Thực ra bất cứ ở đâu, cộng sản Trung hoa cũng lợi dụng những tấm lòng ái
quốc chân thành nhưng ngây thơ như Trương Học Lương để chiến thắng, và khi
người quốc gia nhận chân được cộng sản thì thường quá trễ rồi.
Tháng 6 năm đó, Trương Học Lương bí mật gặp Chu Ân Lai, và bàn
thảo xem hai bên có thể quên được những mối bất đồng, để có thể phát triển được
một chiến lược chung không. Lúc đó phe cộng sản còn quá yếu, và rất cần sự liên
kết với các lực lượng quốc gia để sinh tồn, và chờ thời gian phục hồi được sức
mạnh. Cả Chu Ân Lai và Trương Học Lương đều tin rằng giải pháp duy nhất là
thành lập một mặt trận thống nhất. Trương Học Lương rất trọng lời hứa. Ngay lập
tức Trương Học Lương ra lệnh mọi hành động quân sự chống lại cộng sản ngưng
hẳn, và thiết lập một sự liên lạc giữa hai bộ tham mưu, và văn phòng của Phong
Trào Liên Minh Cứu Quốc được tổ chức khắp miền tây bắc Trung hoa.
Phe Tưởng Giới Thạch phong thanh biết được sự khác lạ của vùng
biên giới tây bắc, nhưng các điệp viên của Thái Lý không biết rõ sự hợp tác của
Trương Học Lương và cộng sản như thế nào. Vào đúng lúc Tưởng định tung ra chiến
dịch tiêu diệt cộng sản, thì các điệp viên chỉ báo cáo cho Tưởng biết các tư
lệnh của vùng tây bắc không thể tin tưởng được nữa. Mối ưu tư tâm phúc của
Tưởng là cộng sản, chứ không phải là quân xâm lăng Nhật Bản. Tưởng rất nhạy cảm
trong công cuộc chống cộng, và cho rằng việc Nhật Bản chiếm một phần đất Trung hoa
chỉ là một sự thua thiệt nhất thời. Tưởng tin rằng trước sau gì người Trung hoa
cũng đánh đuổi được quân Nhật. Nhưng hiểm họa cộng sản mới thực là lâu dài và
khó chữa. Chính vì thế, Tưởng quyết định bay lên Tây An với mục đích hăm dọa
Trương Học Lương phải thi hành lệnh tấn công quân cộng sản.
Khi Tưởng Giới Thạch tới nơi, Trương Học Lương đề nghị nên bãi
bỏ chiến dịch diệt cộng, và phải thành lập một mặt trận chung với phe cộng sản
để chống kẻ thù chung là quân xâm lăng Nhật Bản. Trương Học Lương nhấn mạnh lúc
đó là thời cơ của một cuộc chiến tranh cứu nước chứ không phải là lúc mở một
cuộc nội chiến. Tưởng nổi cơn lôi đình và bỏ về tổng hành dinh Quốc dân đảng
tại Lạc Dương, cách xa Tây An 300 cây số. Trương Học Lương đi theo để tranh
luận thì Tưởng giận dữ mắng nhiếc Trương Học Lương là một người quá ngây thơ.
Ngày 4-12-1936, Tưởng quay trở lại Tây An, và thông báo sẽ tiến
hành chiến dịch tiêu diệt cộng sản vào ngày 12-12. Tưởng sẽ bổ nhiệm một tướng
tư lệnh mới tại vùng tây bắc, và thuyên chuyển Trương Học Lương về miền nam
cùng với quân đội và thuộc hạ của Trương Học Lương. Trương Học Lương và Dương
Hổ Thành cố gắng trình bày những lý lẽ xin Tưởng tái xét lại quyết định trên,
nhưng Tưởng tức giận bước ra khỏi phòng, và cùng vệ sĩ lái xe tới vùng suối nước
nóng tại đồi Ly Sơn, cách Tây An 12 dặm. Suối nước nóng này nổi tiếng từ đồi
nhà Đường. Chính tại đây Đường Minh Hoàng thường đứng dưới hàng liễu rủ để ngắm
Dương Qúy Phi tắm. Cũng chính tại đây tướng An Lộc Sơn cũng thường tới tắm
chung với Dương Qúy Phi, và cũng vì thế An Lộc Sơn phản loạn nhà Đường để chiếm
Dương Qúy Phi, người được coi là đẹp nhất đời Đường, và là một trong Tứ Đại Mỹ
Nhân của Trung hoa.
Trương Học Lương và Dương Hổ Thành nhận thấy tình trạng nguy
hiểm của họ. Nếu họ không làm gì cả thì sẽ mất địa vị hiện tại của họ và khi về
miền nam, họ sẽ trở thành những người bất lực. Chính Dương Hổ Thành đã đi tới
giải pháp bắt cóc Tưởng Giới Thạch để bắt buộc phe Quốc dân đảng phải nhượng
bộ, không tấn công phe cộng sản nữa, và tập trung tất cả sức mạnh chống lại
ngoại xâm.
*
Tưởng Giới Thạch có thói quen dậy sớm, và đứng khoanh tay trước
cửa sổ mỗi buổi sáng. Sáng ngày 12-12 tại vùng nghỉ mát đồi Ly Sơn, Tưởng cũng
dậy sớm, tháo bộ răng giả đặt lên bàn ngủ cạnh giường và đứng trước cửa sổ một
giờ. Nơi cư ngụ của Tưởng được 50 vệ sĩ canh gác, do một sĩ quan nổi tiếng khát
máu chỉ huỵ Đúng 5:30 sáng, Tưởng đang đứng im lặng, nhìn ra rặng núi xa, bên
ngoài bức tường hoa của vườn sau, thì 4 xe vận tải lớn chở 120 binh sĩ đến
trước cổng. Viên tiểu đoàn trưởng ra lệnh mở cổng. Khi người gác cổng từ chối
không chịu mở cổng thì binh sĩ bên ngoài nổ súng.
Tưởng Giới Thạch giật mình khi nghe tiếng súng nổ. Tưởng hoảng
hốt tưởng là một cuộc phản loạn của binh sĩ cộng sản. Súng nổ mỗi lúc một rát
hơn, rồi ba vệ sĩ thân tín chạy vào phòng yêu cầu Tưởng phải trốn. Tưởng vội
vàng vùng chạy ra cửa sau, quên cả bộ răng giả trên bàn ngủ. Khi chạy tới cuối
vườn, ba vệ sĩ khiêng Tưởng lên và đẩy Tưởng ra bên ngoài bức tường. Tưởng té
xuống đất, xương sống bị trẹo và một bên mắt cá chân bị sưng tấy. Vùng đồi phía
sau đầy sỏi và gai góc. Tưởng hoảng sợ chạy ngược lên đỉnh đồi, chân đạp cả vào
gai góc. Mắt cá chân và xương sống Tưởng mỗi lúc một đau đớn hơn. Trong khi đó
cuộc lục soát đi tìm kiếm Tưởng vẫn tiếp tục. Tất cả 50 vệ sĩ của Tưởng bị bắn
chết từng người một, khi toán binh sĩ tiến vào lục soát các phòng. Khi biết
chắc Tưởng đã bỏ chạy rồi thì toán binh sĩ bắt viên chỉ huy vệ sĩ của Tưởng về
Tây An, và đóng đinh hắn lên cổng thành.
Toán quân phản loạn biết chắc Tưởng phải chạy lên đồi, nên tiểu
đoàn bao vây ngọn đồi, và dàn thành hàng ngang tiến lên lục soát. Sau hai lần
lục soát, toán quân phản loạn vẫn không tìm thấy Tưởng. Họ trở lại căn nhà nghỉ
mát của Tưởng và tìm thấy bộ răng giả của Tưởng, cùng với cuốn nhật ký và một
số tài liệu. Phải mất bốn giờ nữa, vào khoảng 9 giờ sáng, một tiểu đội phản
loạn tình cờ trông thấy Tưởng đang cố nằm nép sát vào một khe núi bên trong.
Tưởng lạnh run, mệt nhoài và đau đớn vì những vết thương ở chân và xương sống.
Một người lính nhảy xuống, vác Tưởng lên khỏi hang rồi cả bọn khiêng Tưởng
xuống đồi. Tưởng được xe hơi chở về Tây An, và được một đội quân nhạc dàn chào.
Trương Học Lương tiến ra và dẫn Tưởng vào một căn phòng ngủ, tại đó một bác sĩ
đang chờ sẵn để săn sóc vết thương cho Tưởng. Cuộc phản loạn thành công hoàn
toàn, và quân sĩ của tướng Dương Hổ Thành ăn mừng chiến thắng này bằng ba ngày
cướp bóc dân chúng quanh vùng.
Trương Học Lương đánh điện ra lệnh cho một lữ đoàn của mình phải
chiếm phi trường Lạc Dương, nằm cách Tây An 300 cây số. Trương Học Lương sợ
rằng nếu không chiếm được Lạc Dương thì Quốc dân đảng sẽ sử dụng phi trường đó
để oanh tạc Tây An. Viên lữ đoàn trưởng phản đối lệnh của Trương Học Lương, và
đưa bức điện tín cho viên tư lệnh Quốc dân đảng. Phi trường Lạc Dương liền được
canh phòng cẩn mật, và Nam Kinh được thông báo những gì đang xảy ra tại Tây An.
Quân Quốc dân đảng lập tức chiếm giữ Đông Quận, kiểm soát đèo chiến lược nằm
giữa Sơn Tây và Thiểm Tây. Nhưng quân phản loạn cũng chiếm được Lan Châu, thủ
đô tỉnh Cam Túc, bảo vệ được hậu phương của phe phản loạn. Trương Học Lương
công bố một điện tín có chữ ký của các lãnh tụ phản loạn, yêu cầu chính phủ Nam
Kinh thì hành những yêu sách sau đây: chấm dứt nội chiến, phóng thích tù chính
trị, cho phép tự do biểu tình ái quốc, cho phép các cuộc tụ họp chính trị, phải
thi hành tức khắc chúc thư của Tôn Dật Tiên, và triệu tập Đại Hội Cứu Quốc
ngay.
Từ lúc bị bắt, Tưởng Giới Thạch hoàn toàn khủng hoảng. Tưởng từ
chối không chịu ăn, không chịu ra khỏi giường. Trương Học Lương đề nghị chuyển
Tưởng tới một nơi cư ngụ sang trọng hơn, nhưng Tưởng im lặng không trả lời. Mãi
tới ngày 14-12, một cố vấn người Úc đến Tây An để dàn xếp, Tưởng mới chịu
chuyển sang một tư gia. Trong khi đó thì phe thân Nhật trong chính phủ Nam Kinh
do bộ trưởng quốc phòng cầm đầu, phái quân đội chính phủ tiến tới bao vây Tây
An, dự định dùng bộ binh, pháo binh và không quân tấn công Tây An, lấy cớ để
giải thoát Tưởng, nhưng thực ra là để diệt Tưởng để lên thay Tưởng.
Tại Thượng Hải, Tống Mỹ Linh ngất xỉu khi nghe tin chồng bị bắt
cóc. Khổng Tường Hy vội nắm chức quyền thủ tướng, nhưng người ta không biết lập
trường của ông ta ngả về phe nào. Phe anh chị của Bố già Đỗ Đại Nhĩ thì ủng hộ
bộ trưởng quốc phòng Hà Ứng Khâm, đòi hỏi biểu dương lực lượng tiến về Tây An.
Giới anh chị cũng muốn loại bỏ Tưởng để dễ kiểm soát quyền hành. Nhưng Tống Mỹ
Linh đã mau lẹ tới Nam Kinh để ngăn cản bộ trưởng quốc phòng mở cuộc tấn công
vào Tây An. Mỹ Linh nói với bộ trưởng quốc phòng:
"Tôi kêu gọi các ông, không phải với tư cách một người đàn
bà lo lắng cho sự an nguy của chồng, nhưng với tư cách một người công dân có
một thái độ thực tế, để có được một giải pháp ít tốn kém nhất cho một vấn đề
quốc gia trọng đại. Nhưng những gì quý vị đề nghị thi hành ngày hôm nay sẽ thực
sự gây ra nguy hiểm cho Tưởng thống chế. Vì trong tâm hồn quần chúng cũng như
trong tâm hồn tôi, sự an nguy của Tưởng thống chế không thể tách ra khỏi sự
đoàn kết và sự tồn tại của quốc gia này vào giai đoạn trọng đại nhất của lịch
sử, thì không nên bỏ lỡ bất cứ một cơ hội có thể tìm được sự giải cứu Tưởng
thống chế bằng phương tiện hoà bình."
Trong khi đó, Khổng Tường Hy lên đài phát thanh tuyên bố,
"Chúng ta rất quan tâm tìm cách cứu Tưởng thống chế. Tuy nhiên thái độ của
chúng ta là không nên để sự an nguy của một cá nhân can dự vào quốc sách."
Khổng Tường Hy có thể đứng hẳn vào phe Bố già Đỗ Đại Nhĩ, hay lời tuyên bố này
nhằm mục đích không cho đối phương khai thác được sự bắt cóc Tưởng. Nhưng dù lý
do nào đúng thì Tưởng Giới Thạch cũng rất hoảng sợ. Tưởng sai một cộng sự viên
thân tín nhất bay về Nam Kinh với mệnh lệnh cấm tấn công vào Tây An. Tuy nhiên
mười một sư đoàn Quốc dân đảng đang bao vây Tây An, và tất cả phi cơ của Quốc
dân đảng đều tập trung tại Lạc Dương, sẵn sàng đợi lệnh tấn công.
Tại Tây An, Tưởng bướng bỉnh bác bỏ tất cả 8 yêu sách của phe
phản loạn. Dương Hổ Thành và các tướng phản loạn khác đòi bắn chết Tưởng Giới
Thạch, nhưng Trương Học Lương cố gắng ngăn cản họ. Tại tổng hành dinh cộng sản,
cách Tây An 300 cây số, Mao Trạch Đông rất hồ hởi nghe tin Tưởng bị bắt cóc.
Mao tuyên bố trước các cán bộ, "Kể từ ngày 12-4-1927, Tưởng Giới Thạch nợ
chúng ta một món nợ máu cao hơn núi. Đây chính là lúc phải thanh toán món nợ
máu này. Phải đưa Tưởng Giới Thạch về Bảo An và giao cho tòa án nhân dân xét
xử."
Chu Ân Lai thì chờ lệnh của Mạc tư khoa để về Tây An đại diên
phe cộng sản. Mạc tư khoa ra lệnh cho cộng đảng Trung hoa phải hòa giải với phe
Quốc dân đảng, và phải bảo vệ sinh mạng cho Tưởng Giới Thạch. Chu Ân Lai phải
đạt được sự hòa giải với Quốc dân đảng. Stalin nhấn mạnh phải thả Tưởng Giới
Thạch thì mới mong thành lập được mặt trận thống nhất chống Nhật, vì mối lo
hàng đầu của Nga sô là quân phiệt Nhật Bản sẽ tấn công Nga sộ Các phe phái tại
Trung hoa phải đoàn kết với nhau và cầm chân quân phiệt Nhật tại Trung hoa. Nếu
Trung hoa thất bại, không ngăn cản được quân Nhật tại Trung hoa thì quân Nhật
sẽ tiến tới biên giới Nga sộ Mao Trạch Đông rất căm phẫn chịu thua lệnh của
Stalin và mất cơ hội giết Tưởng Giới Thạch để trả thù. Về phía Nhật Bản thì rất
bình tĩnh và thỏa mãn, vì cả thế giới được chứng kiến sự bất lực của người
Trung hoa.
Việc bắt cóc Tưởng Giới Thạch có lẽ là âm mưu của Tống Tử Văn.
Tống Tử Văn bất mãn thái độ quá mềm yếu của Tưởng đối với Nhật Bản, và cũng để
trả thù cái bạt tai trước kia. Khi việc giải thoát cho Tưởng có vẻ bế tắc, thì
Tống Tử Văn đứng ra giải quyết. Bộ trưởng quốc phòng Quốc dân đảng thông báo
cho đại sứ Nhật biết chiến dịch trừng phạt Tây An sẽ tiến hành như đã định
trước, và tức giận yêu cầu Tống Tử Văn không được xen vào công việc của chính
phủ. Tống Tử Văn xác nhận có quyền can thiệp vào việc nước, và không cần phải
tuân lệnh bộ trưởng quốc phòng, vì ông là một công dân chứ không phải là một
người lính. Tống Mỹ Linh vội làm dịu bộ trưởng quốc phòng Hà Ứng Khâm bằng cách
đồng ý không đi Tây An theo Tống Tử Văn.
Khi Tưởng Giới Thạch thấy Tống Tử Văn đưa cho một lá thư của Mỹ
Linh, trong đó chỉ vắn tắt vài dòng chữ, "Nếu trong vòng ba ngày Tống Tử
Văn không trở về Nam Kinh thì em sẽ tới Tây An để sống và chết cùng với
mình", thì Tưởng thống chế nổi tiếng tàn ác của Quốc dân đảng xúc động quá
đến nỗi òa lên khóc nức nở. Tống Tử Văn bảo Trương Học Lương đi ra ngoài để ông
nói chuyện riêng với Tưởng.
Tưởng cho Tống Tử Văn biết quân phản loạn thay đổi thái độ với
ông sau khi đọc hết cuốn nhật ký của ông. Trong nhật ký, Tưởng viết sẽ tận lực
đánh đuổi quân ngoại xâm Nhật Bản, sau khi diệt xong cộng sản. Tưởng cho Tống
Tử Văn biết mối nguy hiểm chính không phải là ở nhóm phản loạn, mà là phe thân
Nhật trong chính phủ Nam Kinh, đang muốn tấn công tiêu diệt Tây An và giết cả
Tưởng một thể.
Đêm đó Tống Tử Văn và Trương Học Lương cùng đến bàn luận với
Tưởng Giới Thạch. Tống Tử Văn cho biết phải giải quyết vấn đề gấp rút. Chính
phủ Nam Kinh chỉ cho hưu chiến ba ngày. Sau đó cuộc tấn công dữ dội sẽ bắt đầu.
Cuối cùng sau 24 giờ thảo luận, Tưởng đành nhượng bộ, chấp nhận toàn bộ 8 yêu
sách của phe phản loạn. Tống Tử Văn vội trở về Nam Kinh và đưa Mỹ Linh cùng với
trùm mật vụ Thái Lý lên Tây An. Mỹ Linh đem theo cả người đầu bếp. Mỹ Linh có
thói quen không bao giờ đi xa mà không mang theo đầu bếp, không phải vì bà kén
ăn, mà vì sợ bị đầu độc. Chính trường Trung hoa vào những năm 1930 đầy rẫy
những vụ đầu độc đối thủ chính trị.
Khi Mỹ Linh bước xuống phi cơ, Trương Học Lương trịnh trọng cúi
gập người xuống chào Mỹ Linh. Trướng kia Trương Học Lương cũng là một trong
những người muốn lấy Mỹ Linh làm vợ. Bây giờ Trương Học Lương lại là người bắt
cóc chồng Mỹ Linh. Họ Trương đưa Mỹ Linh tới gặp Tưởng ngaỵ Vật đầu tiên Mỹ
Linh đưa cho Tưởng là một bộ răng giả. Ngày hôm sau, Tưởng ngồi tiếp các sứ
quân đến chào. Người lo lắng nhất là Dương Hổ Thành và các tướng tư lệnh trong
vùng, những người trực tiếp chỉ huy vụ bắt cóc. Chu Ân Lai khuyên Dương Hổ
Thành nhận một món tiền thật lớn của Tống Tử Văn và đem gia đình trốn sang sống
tại Âu Châu.
Chu Ân Lai tới và thương thảo với Tưởng Giới Thạch liên tiếp hai
ngày. Chu Ân Lai vẫn gọi Tưởng là "Chỉ huy trưởng" như lúc còn làm
việc dưới quyền Tưởng tại trường võ bị Hoàng Phố. Về sau Tưởng khen Chu Ân Lai
là một người cộng sản biết điều nhất. Tống Mỹ Linh cũng rất phấn khởi khi nghe
Chu Ân Lai nói, "Trong hiện tình của đất nước, không ai ngoài Tưởng thống
chế có thể lãnh đạo quốc giạ" Mỹ Linh cũng đề nghị với Chu Ân Lai,
"Tất cả những vấn đề nội bộ của Trung hoa nên giải quyết bằng phương tiện
chính trị chứ không nên dùng vũ lực. Chúng ta cùng là người Trung hoa cả
mà."
Sau khi Tống Tử Văn trao tiền cho phe phản loạn thì Tưởng Giới
Thạch được tự do tới phi trường Lạc Dương để trở về Nam Kinh. Tưởng đem theo cả
thống chế Trương Học Lương về Nam Kinh để trị tội. Mấy tháng sau đó, phe Quốc
dân đảng coi việc giải thoát được cho Tưởng là một chiến thắng lớn. Tuần báo
Time của Mỹ bầu Tưởng và Mỹ Linh là cặp vợ chồng số một của năm 1938, và đăng
hình hai người lên bìa báo.
Hành động theo Tưởng Giới Thạch trở về Nam Kinh của Trương Học
Lương được nhiều người coi là thiếu suy nghĩ. Đáng lẽ Trương Học Lương phải ở
lại vùng tây bắc, và phải tránh xa Tưởng. Tuy nhiên sau này Mao Trạch Đông cho
biết đó là điều kiện của Tưởng khi chấp nhận 8 yêu sách của phe phản loạn.
Tưởng cần phải bắt Trương Học Lương về Nam Kinh để rửa tiếng xấu bị bắt cóc.
Chính Trương Học Lương vì lòng ái quốc và đại cuộc, đã lên tiếng nhiều lần
trước quần chúng, chấp nhận mọi lỗi lầm trong vụ Tây An. Trương Học Lương thoạt
đầu tạm trú trong nhà Tống Tử Văn, và được nhiều người cho là đã có công lớn
đối với tổ quốc, vì chính Trương Học Lương đã tạo ra Mặt trận Thống nhất để
chống lại Nhật Bản. Tuy nhiên Tưởng Giới Thạch không bao giờ tha thứ cho viên
thống chế trẻ tuổi và ái quốc này vì tội đã làm nhục ông, và làm hỏng kế hoạch
tiêu diệt cộng sản của ông. Việc bắt cóc tại Tây An đã ám ảnh tâm trí Tưởng
Giới Thạch trong nhiều năm sau đó, và đó là khởi đầu cho chiến thắng của cộng
sản. Điều đáng sợ cho Tưởng là Trương Học Lương được quần chúng kính nể và là
người có nhiều đức tính để trở thành một nhà lãnh đạo tối cao, thay thế Tưởng,
trong khi Tưởng là một người có quá nhiều vết nhơ trước mắt quần chúng. Vì thế
Trương Học Lương không thể sống tự do được. Tưởng ra lệnh quản thúc Trương Học
Lương tại gia và giao cho trùm mật vụ Thái Lý canh giữ.
Các cố gắng của bạn bè Trương Học Lương, trong đó có cả Tống Tử
Văn, can thiệp xin Tưởng trả tự do cho Trương Học Lương đều thất bại. Trong lúc
đó mật vụ canh giữ Trương Học Lương được lệnh bắt Trương Học Lương phải hút
thuốc phiện. Trong suốt thời gian bị cầm tù, Trương Học Lương chăm chú nghiên
cứu lịch sử của đời nhà Minh. Người đồng mưu với Trương Học Lương bắt cóc Tưởng
Giới Thạch là tướng Dương Hổ Thành cũng bị Tưởng bắt được khi ông này ở Âu Châu
lén trở về Trung hoa thăm nhà. Dương Hổ Thành không được biệt đãi như Trương
Học Lương, mà bị trùm mật vụ Thái Lý hành hạ suốt mười một năm trước khi bị
giết chết. Vợ của Dương Hổ Thành tuyệt thực phản kháng đòi trả tự do cho chồng.
Tưởng Giới Thạch để mặc cho vợ Dương Hổ Thành nhịn đói mà chết.
Nhiều năm sau, bà Tống Khánh Linh nói về việc bắt cóc Tưởng Giới
Thạch như sau, "Việc làm của Trương Học Lương rất đúng. Nếu tôi ở địa vị
của Trương Học Lương, tôi cũng sẽ làm như vậy. Điều khác duy nhất là tôi sẽ
không thả Tưởng Giới Thạch."
CHƯƠNG 17: VAI TRÒ CỦA TỐNG MỸ LINH
Trong biến cố Tây An, một số cộng sự thân tín của Tưởng Giới
Thạch tại Nam Kinh chủ trương oanh tạc Tây An mà không đếm xỉa tới sự an nguy
của Tưởng. Khi được trả tự do, Tưởng quyết định không giao phó lực lượng không
quân cho những người cộng sự này nữa. Tống Mỹ Linh ngỏ ý thích điều khiển không
lực Quốc dân đảng và được Tưởng đồng ý chấp thuận. Thế là cô con gái út của
Tống Giáo Nhân trở thành tư lệnh của một binh chủng mới, nhưng cực kỳ quan
trọng trong chiến tranh hiện đại.
Việc đầu tiên mà bà tân tư lệnh không quân Tống Mỹ Linh làm là
thuê cựu phi công Mỹ Roy Holbrook làm cố vấn. Mỹ Linh hỏi ai có khả năng giúp
không lực Quốc dân đảng thì Holbrook tiến cử Claire Lee Chennault, một người có
một quá trình rất sóng gió. Chennault tới Trung hoa năm 1937, và phục vụ cho Mỹ
Linh trong một thời gian thật lâu dài, và được gọi là Tướng Cọp Bay.
Lúc đó không lực Quốc dân đảng do các chuyên viên Ý huấn luyện,
theo một hợp đồng với Khổng Tường Hy, và có một nhà máy Fiat hỗ trợ. Theo
Holbrook thì người Ý đã thành công phá hoại không lực Trung hoa. Tại trường
huấn luyện, bất cứ phi công Trung hoa nào làm cho phi cơ bay được là đủ điều
kiện tốt nghiệp. Không lực có khoảng 500 phi cơ, nhưng chỉ chừng 100 phi cơ bay
được. Quả thực các phi cơ Quốc dân đảng lúc đó nguy hiểm cho phi công hơn là
cho quân địch.
Hai tháng sau khi Chennault tới thì quân Nhật mở cuộc tấn công
Bắc Kinh. Nhật mở rộng chiến tranh tới tận Thiên Tân và Thượng Hải. Đây là cơ
hội cho Chennault xử dụng không lực mới được tổ chức lại. Các phi công Trung
hoa có tinh thần cao và nhiệt tình yêu nước nhưng thiếu kinh nghiệm, nhưng đã
bay những phi vụ rất can đảm. Rất ít phi công trở về được căn cứ. Mỹ Linh thấy
không thể tiếp tục như thế, vì sẽ phí phạm các thanh niên ưu tú Trung hoa một
cách vô ích. Bà yêu cầu Chennault thuê nhiều phi công kinh nghiệm ngoại quốc
cho đến khi phi công Trung hoa được huấn luyện thành thạo.
Thoạt đầu một số phi công Nga sang giúp quân đội của Tưởng, vì
Nga sô rất sợ Nhật bản thành công tại Trung hoa. Nhưng về sau Nga sô lơi là trợ
giúp Trung hoa vì phải bận tâm tới chiến tranh tại Âu Châu hơn, và chỉ có Hoa
Kỳ mới có đủ phương tiện trợ giúp được cho Quốc dân đảng. Mỹ Linh viết nhiều
bài báo kêu gọi độc giả Mỹ hậu thuẫn cho việc viện trợ cho quân đội Trung hoa.
Mỹ Linh được tờ Time hỗ trợ trong việc vận động quần chúng Mỹ.
Khi Nhật Bản tấn công các tỉnh đông bắc Trung Hoa thì Tống Tử
Văn tiên đoán trong ba tháng Nhật Bản sẽ bị phá sản và có nội loạn. Nhưng ba
tháng sau, Tống Tử Văn phải yêu cầu hải quân Mỹ lén đưa ông ta ra khỏi Thượng
Hải. Lúc đó Thượng Hải nằm trong tay quân Nhật. Trong lúc Hoa Thịnh Đốn đang
nghiên cứu đề nghị dẫn Tống Tử Văn trốn khỏi Thượng Hải thì họ Tống nhờ nhóm
anh chị Lục Hội giúp ông thoát hiểm, và dĩ nhiên phải trả công cho Lục Hội rất
hậu.
Trong năm 1938, quân Nhật đuổi Tưởng Giới Thạch và chính phủ
Quốc dân đảng phải tháo chạy khỏi Nam Kinh, và tàn sát ba trăm ngàn dân chúng
tại Nam Kinh. Tưởng và chính phủ Quốc dân đảng chạy tới Vũ Hán, rồi chạy một
hơi thêm 500 dặm nữa, tới một nơi thật an toàn mà không một quân đội ngoại quốc
nào có thể xâm nhập được. Đó là vùng núi non của Tứ Xuyên, và Tưởng thiết lập
chính phủ tại Trùng Khánh, một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn trên bờ sông Dương Tử.
Trên đường chạy tới Trùng Khánh, chế độ Quốc dân đảng đã "giải
phóng", "bảo hộ", và "tịch thu" rất nhiều tiền bạc của
cải của mọi tổ chức tư nhân khác nhau và các nhà giàu. Nhưng đến mùa xuân năm
1940, Tưởng lại thiếu tiền, và Khổng Tường Hy lại phải in hàng trăm triệu tiền
giấy tại Hương Cảng, và chở tới Trùng Khánh. Mọi người đều biết tiền giấy đó vô
giá trị. Cuộc chinh phục của người Nhật đã tạm thời làm gián đoạn đường giây
bạch phiến, và cắt giảm nguồn lợi tức quan trọng nhất của Tưởng, trong lúc
Tưởng rất cần tiền để mua khí giới ngoại quốc, và cũng để trả cho các sứ quân
với mục đích mua chuộc và giữ lòng trung thành của họ.
Vì thế tháng 6-1940, Tống Tử Văn được cử sang Hoa kỳ để tìm cách
vay tiền của người Mỹ. Nhưng Tống Tử Văn không ưa thích những điều Tưởng làm,
vì thế Tống Tử Văn ở lại Hoa kỳ trên hai năm cùng với vợ con. Nhiệm vụ đầu tiên
của Tống Tử Văn là lấy được số tiền ứng trước 50 triệu cho việc xuất cảng
tung-ten của Trung hoa. Nhưng lúc đó mối quan tâm của Hoa Kỳ là Âu Châu và
Hitler. Tống Tử Văn trình bày cho người Mỹ biết công cuộc bảo vệ Trung hoa của
Tưởng Giới Thạch là một cuộc chiến đấu can trường chống lại quân Nhật man rợ,
do các tướng Quốc dân đảng có khả năng và nhiệt tâm thực hiện. Tháng 4-1938,
Tướng Quốc dân đảng Lý Tông Nhân đã chứng tỏ quân đội Trung hoa có thể đánh bại
được quân Nhật. Trong trận này quân Nhật bị thiệt hại nặng nề, nhưng Tưởng ra
lệnh cho Lý Tông Nhân không được đuổi theo quân Nhật. Điều đáng buồn là quân
đội Quốc dân đảng không có nhiều tướng tài như Lý Tông Nhân.
Tưởng Giới Thạch một lúc phải chống lại hai kẻ thù, và kẻ thù
quan trọng nhất không phải là quân xâm lăng Nhật Bản, mà là quân cộng sản đang
chiến đấu dưới chiêu bài ái quốc. Tưởng điều động trên một triệu quân án ngữ
quân cộng sản tại vùng tây bắc. Những nạn nhân chính trong cuộc chiến tay ba
này là dân chúng vô tội. Sử gia người Pháp Jean Chesneaux đã ghi lại thảm cảnh
của người Trung hoa trong cơn khói lửa như sau:
"Nỗi thống khổ gây ra bởi sự tàn ác của quân Nhật, và các
tai họa do sự bất tài của Quốc dân đảng thực là kinh khủng. Một trong những cố
gắng của Tưởng nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Nhật là giật mìn phá đê sông
Hoàng Hà. Vì không được báo trước nên ba tỉnh, 11 thành phố và bốn ngàn làng đã
bị ngập lụt, hai triệu người mất nhà cửa và mùa màng bị phá hủy. Dầu vậy quân
Nhật cũng chỉ bị chận lại chừng ba tuần lễ thôi. Việc phá đê sông Hoàng Hà có
nhiều ký giả ngoại quốc chứng kiến, nhưng chính phủ của Tưởng lên tiếng đổ lỗi
cho quân Nhật."
Khi Tưởng bị bắt cóc và bắt buộc phải thành lập Mặt Trận Thống
Nhất với quân cộng sản, thì quân cộng sản được tập hợp thành Bát lộ quân do Chu
Đức chỉ huỵ Nhưng Bát lộ quân cố tránh né không đụng trận với quân Nhật, để bảo
toàn lực lượng. Quân cộng sản chỉ dùng chiến thuật du kích để tránh thiệt hại
về quân số, trong khi đó ra sức tuyển mộ thêm quân cho Bát lộ quân. Tại nhiều
nơi, quân cộng sản và quân Nhật đóng gần nhau, trông thấy nhau, nhưng hai bên
đều không nổ súng. Phần lớn những cuộc giao tranh dữ dội chỉ xảy ra giữa quân
Nhật và quân Quốc dân đảng. Phe cộng sản chỉ lo chuẩn bị cho cuộc chiến với
Quốc dân đảng sau khi quân Nhật bại trận.
Nhiều tướng lãnh của Quốc dân đảng tỏ ra bất tài, vì thế đến năm
1940-41, khu vực của cộng sản mở rộng rất nhiều trong khi khu vực của Quốc dân
đảng càng ngày càng thu hẹp lại. Trong khi đó hoạt động tội ác của Lục Hội vẫn không
suy giảm vì chiến tranh. Bố già Đỗ Đại Nhĩ được phong chức tướng, và đã khôn
ngoan di chuyển tới Trùng Khánh. Bản doanh của Lục Hội tại Thượng Hải được giao
cho phụ tá của Đỗ Đại Nhĩ là Cố Tử Chuân. Tưởng giao tất cả trách nhiệm quân sự
trong khu vực hạ lưu sông Dương Tử cho em của Cố Tử Chuân là tướng Cố Chúc
Đồng.
Lúc đó Quốc dân đảng và cộng sản thành lập Mặt Trận Thống Nhất,
và một số đơn vị cộng sản chiến đấu dưới quyền chỉ huy của quân đội Quốc dân
đảng. Đệ tứ quân đoàn cộng sản mới được thành lập muốn điều tra khu vực của anh
em nhà họ Cố, để có thể mở cuộc tấn công quân Nhật tại Nam Kinh và Hán Khẩu.
Đây là một khu vực có sự cộng tác giữa Lục Hội và quân Nhật. Lục Hội được phép
buôn lậu thuốc phiện và mặc sức hoạt động tội ác, trong khi Lục Hội phải bảo vệ
an ninh cho các trại lính và các cơ sở thương mại của Nhật tại lưu vực sông
Dương Tử.
Cố Chúc Đồng lập tức tham khảo với Tưởng Giới Thạch và nhận định
rằng đệ tứ quân đoàn là một sự hăm dọa cho lãnh địa của họ Cố. Cố Chúc Đồng ra
lệnh cho đệ tứ quân đoàn phải vượt qua sông Dương Tử tới một địa điểm về bắc
ngạn con sông. Viên tư lệnh đệ tứ quân đoàn phản đối lệnh của Cố Chúc Đồng, vì
nếu thi hành lệnh đó thì cả đệ tứ quân đoàn sẽ phải đi vào chỗ chết, vì bắc
ngạn sông Dương Tử là nơi tập trung quân Nhật đông đảo nhất. Đệ tứ quân đoàn đề
nghị rút lui theo một đường khác an toàn hơn. Khi phần lớn đệ tứ quân đoàn đã
rút lui, chỉ để lại một lực lượng nhỏ chừng năm ngàn quân ở lại bảo vệ bộ tư
lệnh, gồm có các cấp chỉ huy cao cấp và một số nữ cán bộ và y tá. Nhưng ngay
đêm đó, Cố Chúc Đồng đem quân tới bao vây, và giết tất cả bộ tham mưu của đệ tứ
quân đoàn cùng với năm ngàn quân bảo vệ. Các nữ cán bộ và y tá bị bắt hết, và
bị quân lính của Cố Chúc Đồng hãm hiếp trong nhiều ngày. Họ bị giữ trong những ổ
mãi dâm trong hơn một năm, ngay tại nơi xảy ra cuộc tàn sát. Nhiều người bị mắc
bệnh phong tình, và một số tự tử chết.
Cố Chúc Đồng sau được bổ nhiệm làm tổng tham mưu trưởng quân đội
Quốc dân đảng. Khi Tưởng Giới Thạch được phỏng vấn về vụ tàn sát này, Tưởng
tuyên bố thẳng thừng, "Quân Nhật là bệnh ngoài da, còn cộng sản là bệnh
trong tâm can." Tưởng Giới Thạch nhìn xa, ngay từ đầu đã nhận thấy nguy cơ
cộng sản. Tưởng là một người chống cộng quyết liệt nhất cho tới lúc chết. Quốc
sách chống cộng của Tưởng đã bị nhiều tướng lãnh Quốc dân đảng bất tài, hoặc
chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân nên đưa đến thất bại bằng những quyết định thiếu
chính trị.
Thoạt đầu người Mỹ lạnh nhạt trước nhiệm vụ xin viện trợ của
Tống Tử Văn, nhưng sau khi quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì người Mỹ vồ
lấy người Trung hoa như một đồng minh thiết yếu nhất. Ngoại trưởng Knox tuyên
bố với Tống Tử Văn, "Chúng tôi sẽ giết hết những tên da vàng khốn nạn
đó." Không đầy ba tuần sau, Tống Tử Văn được bổ nhiệm làm ngoại trưởng
Trung hoa.
Tháng 1-1942, Tống Tử Văn gặp tổng trưởng tài chánh Morgenthau,
trình bày yêu cầu của Tưởng xin vay 500 triệu mỹ kim. Morgenthau tò mò hỏi
chương trình sử dụng 500 triệu mỹ kim cần phải vay, vì hiện Trung hoa đã có 650
triệu rồi. Tống Tử Văn kiên nhẫn giải thích rằng Tưởng thống chế cần một tỷ mỹ
kim, gồm có 500 triệu của người Anh và 500 triệu của người Mỹ làm quỹ dự trữ để
dùng khi nào cần. Mặc dầu có một vài sự phản đối, nhưng tổng thống Roosevelt
yêu cầu Quốc hội Mỹ chấp thuận cho Trung hoa vay số tiền đó. Tưởng Giới Thạch
đánh điện cho Tống Tử Văn, nhấn mạnh số tiền vay đó không phải trả tiền lời,
không đặt điều kiện trả, không bảo đảm và không điều kiện ràng buộc về cách sử
dụng. Cuối cùng Tưởng Giới Thạch vay được tiền với điều kiện của Tưởng.
Tưởng Giới Thạch hết sức hài lòng, và đã có được một nguồn tài
nguyên vô tận hỗ trợ phía sau, nhờ trận đánh Trân Châu Cảng. Tưởng có toàn
quyền chi tiêu số tiền vay mà không cần phải trả lời Quốc hội Mỹ. Tướng
Stilwell đã có nhận xét về thái độ của Tưởng Giới Thạch như sau, "Tôi
không bao giờ nghe Tưởng nói một lời để diễn tả lòng biết ơn đối với tổng thống
và quốc gia chúng ta về sự trợ giúp to lớn mà chúng ta đã cung cấp cho ông tạ
Ông ta luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn, và luôn luôn than phiền về những số vật
liệu cung cấp cho ông ta là ít ỏi... Ông ta thường phàn nàn rằng người Trung
hoa đã phải chiến đấu sáu, bảy năm mà chúng ta không cung cấp cho họ gì cả.
Thực là thiếu ngoại giao nếu chúng ta đi sâu vào những nỗ lực quân sự mà Tưởng
Giới Thạch đã đạt được từ năm 1938. Quả thực đó chỉ là một con số không."
Đúng ra mãi đến lúc quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì người
Mỹ mới thực sự viện trợ cho Tưởng một cách quảng đại, vì lúc đó Tưởng đang đánh
kẻ thù của người Mỹ. Năm 1942, bà Tống Mỹ Linh sửa soạn sang Hoa Kỳ để vận động
sự ủng hộ của người Mỹ. Tống Tử Văn kịch liệt phản đối việc cô em gái sang Mỹ,
vì Tống Tử Văn cho rằng Hoa Kỳ là khu vực hoạt động của riêng ông. Nhưng lý do
Mỹ Linh phải đi cầu viện cũng bắt nguồn từ những sự lục đục trong gia đình.
Cuộc tình duyên giữa Mỹ Linh và Tưởng Giới Thạch đã có nhiều sóng gió. Tưởng
thống chế đang tìm an ủi ở một người đàn bà khác. Mỹ Linh bây giờ gọi Tưởng là
"ông ta" chứ không còn gọi là "Tưởng thống chế" hoặc
"Tưởng tổng thống" nữa. Có lần bà nổi giận cho biết "Ông
ta" chỉ gắn hàm răng giả vào mỗi khi đi thăm "mụ đàn bà đó". Một
hôm Mỹ Linh bước vào phòng ngủ của Tưởng và trông thấy một đôi giầy cao gót
dưới gầm giường. Mỹ Linh liền cầm đôi giầy quăng mạnh ra ngoài cửa sổ, và trúng
đầu một tên lính gác đứng bên dưới. Có lần Tưởng không tiếp được khách tới bốn
ngày vì mặt Tưởng bị bầm tím, sau khi trúng một bình hoa trong một cuộc đụng độ
với Mỹ Linh.
Trong những năm 1940, Tưởng bắt đầu gặp gỡ nhiều người đàn bà
khác. Năm 1942, Tưởng gặp lại vợ cũ là Trần Khiết Nhự Tưởng kết hôn với Mỹ Linh
vì nhu cầu chính trị, phải vào làm rể nhà họ Tống để thừa hưởng cái gia tài
chính trị của Tôn Dật Tiên để lại. Mỹ Linh là một người rất kiêu hãnh và thanh
tịnh về tình dục. Vì thế Tưởng vẫn luyến tiếc người vợ rất điệu nghệ trong việc
chăn gối là Trần Khiết Như, xuất thân từ các chốn thanh lâu của Thượng Hải. Năm
1927 Tưởng bỏ Trần Khiết Như và bắt nàng phải sang Hoa Kỳ để Tưởng có thể kết
hôn với Tống Mỹ Linh. Sau đó Trần Khiết Như bí mật trở về Trung hoa, rồi mang
thai, và sinh con năm 1944.
Tưởng đã có tất cả và đạt tới tột đỉnh quyền lực. Bây giờ gia
đình nhà họ Tống không còn là một cần thiết nữa. Tuy vậy Mỹ Linh đã trở nên một
người đàn bà nổi tiếng khắp thế giới. Một yếu điểm của Mỹ Linh là không sinh
con để nối giõi quyền lực của Tưởng. Hai con trai của Tưởng nay đã lớn rồi. Vĩ
Quốc đã trở về sau thời gian huấn luyện quân sự tại Đức, và không hòa thuận với
Mỹ Linh. Người con trai lớn là Tưởng Kinh Quốc từ Nga sô trở về năm 1937, đem
theo một người vợ Nga sộ Khi ra đón con tại phi trường, Tưởng Giới Thạch chỉ
vào Mỹ Linh và nói với Tưởng Kinh Quốc, "Bây giờ con lại chào thân mẫu con
đị"
Tưởng Kinh Quốc giận dữ trả lời, "Đó không phải là thân mẫu
của con," rồi bỏ đi về Khê Khẩu, tại đó bà mẹ thực của Kinh Quốc đang chờ
đợi. Tưởng Kinh Quốc rất chí hiếu với mẹ. Biến cố tại phi trường ngày hôm đó
bắt đầu một cuộc tranh chấp quyền thừa kế địa vị lãnh đạo tối cao của Tưởng
Giới Thạch giữa Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc. Cuối cùng khi phải chạy ra Đài
Loan, Tưởng Giới Thạch ngả hẳn về phía con trai, và Tưởng Kinh Quốc được lên kế
vị tổng thống.
Một lý do nữa khiến Mỹ Linh phải đi Hoa Kỳ là lý do sức khoẻ.
Sức khoẻ của Mỹ Linh lúc đó bỗng nhiên suy đồi mau lẹ. Năm 1942, bà cảm thấy
cần phải chữa trị nhiều chứng bệnh, như đau xương sườn, lưng bị trẹo, thần kinh
kiệt quệ vì bị mất ngủ, bệnh đau mũi vì hút thuốc lá nhiều quá, các răng cấm
bắt đầu hành, và bệnh nổi mề đay kinh niên. Ngoài ra còn các thương tích ở
xương sườn và xương sống xảy ra trong lúc bà đi quan sát chiến trường chống
quân Nhật năm 1937. Lần đó, trong lúc bà ngồi trong một chiếc xe bọc sắt, giữa
lúc súng đạn hai bên bắn nhau rất dữ dội thì một bánh xe trúng đạn và nổ, khiến
chiếc xe trượt và lộn đi. Mỹ Linh bị văng ra ngoài xe và xương sườn bị nứt và
xương sống bị trật. Xương sống của bà vẫn gây khó chịu cho bà năm năm sau, mỗi
khi có sự căng thẳng về tâm trí.
Trước viễn ảnh cần thiết phải nằm điều trị trong bệnh viện lâu
dài, bà không đếm xỉa gì tới sự phản đối của Tống Tử Văn. Năm đó Mỹ Linh đã 45
tuổi và Tưởng Giới Thạch hồ nghi bà bị bệnh ung thư, nên chuyến công du Hoa Kỳ
cũng là một cơ hội cho bà thử nghiệm luôn thể.
Một ngày tháng 11-1942, Mỹ Linh cùng cô cháu gái Khổng Lệnh Tuấn
lên một chiếc phi cơ bốn máy do Shelton lái để đi Hoa Kỳ. Trong suốt cuộc hành
trình, Mỹ Linh hoàn toàn im lặng, không trao đổi một lời với viên phi công
Shelton. Về phần Shelton cũng được lệnh không được nói gì với Mỹ Linh. Có thể
Mỹ Linh đang trải qua những khủng hoảng trầm trọng, và không muốn cho công
chúng biết. Mỹ Linh thấy Shelton là một phi công giỏi, nên đòi hỏi Shelton là
phi công riêng cho mình, mỗi khi đi ra ngoài Trung hoa. Nhưng khi Mỹ Linh biết
Shelton có dự định mở một đường bay về Nam Mỹ thì bà cho Shelton vay 250 ngàn
mỹ kim để thiết lập một công ty hàng không với cháu bà là Khổng Lệnh Kiệt.
Người cháu kiểm soát về tài chánh và bà được chia lời 50%.
Tại Hoa Kỳ, Mỹ Linh cho biết mục đích chính của bà đến Hoa Kỳ là
chữa bệnh và nghỉ ngơi. Mỹ Linh nằm bệnh viện 11 tuần lễ. Bà đã được nhổ răng
cấm, bệnh sổ mũi bớt nhiều. Bà được nhập viện một cách bí mật bằng một tên giả.
Trong lúc nằm bệnh viện, Mỹ Linh nghe tin thủ tướng Anh Churchill đến Hoa Thịnh
Đốn thăm tổng thống Roosevelt. Mỹ Linh liền viết thư cho Churchill, yêu cầu ông
ta vào gặp bà tại bệnh viện, nhưng khi Churchill đề nghị Mỹ Linh đến ăn trưa
tại tòa Bạch Cung với ông và Roosevelt, thì Mỹ Linh từ chối.
Trong thời gian Mỹ Linh điều trị tại Mỹ, bà được tổng thống phu
nhân Roosevelt săn sóc như con gái. Sau khi bình phục, Mỹ Linh được mời vào tòa
Bạch Cung. Mặc dầu đã đòi giường của mình phải trải bằng khăn phủ giường bằng
lụa, Mỹ Linh cũng đã cẩn thận mang theo những khăn phủ giường đó từ Trung hoa.
Khăn trải giường phải thay mỗi ngày ít nhất một lần, và phải thay mỗi khi Mỹ
Linh ngồi xuống giường. Theo lời một người hầu tại toà Bạch Cung thì mỗi ngày
phải thay khăn trải giường cho Mỹ Linh từ bốn tới năm lần. Mỗi khi cần một
người đầy tớ, Mỹ Linh không bấm chuông, trái lại bà chỉ vỗ tay theo kiểu Trung
hoa. Mỹ Linh được coi là một người khách khó tính nhất của Bạch Cung.
Khi Mỹ Linh ăn tiệc tại tòa Bạch Cung, tổng thống Roosevelt hỏi
Tưởng thống chế sẽ giải quyết thế nào với cuộc đình công của thợ mỏ trong thời
chiến. Mọi người hoảng sợ khi Mỹ Linh đưa một móng tay sơn đỏ của bà vạch ngang
cổ bà, có nghĩa là sẽ chém đầu những thợ mỏ đình công. Bà Roosevelt nhận xét Mỹ
Linh có thể nói về dân chủ rất hấp dẫn, nhưng không biết sống một cách dân chủ.
Tuy thế bài diễn văn của Mỹ Linh trước Quốc hội Mỹ là một thành công lớn.
Sau đó Mỹ Linh đi khắp nước Mỹ, ra mắt quần chúng trong một
chiến dịch chinh phục cảm tình của người dân Mỹ đối với công cuộc chiến đấu của
Trung hoa. Mỹ Linh ăn mặc rất xa hoa. Đôi giầy của bà gắn những viên ngọc lấy
ra từ vương miện Phượng Hoàng của Từ Hy Thái Hậu. Theo vua Phổ Nghi, ông vua
cuối cùng của nhà Thanh, các tay đạo tặc đã đào mả Từ Hy Thái Hậu, lôi xác bà
lên, lột hết những nữ trang châu ngọc của bà, và một số ngọc được đem tặng cho
Mỹ Linh. Mỹ Linh dùng một số viên ngọc gắn lên giầy của bà. Khi chuyến xe lửa
của Mỹ Linh tới một thành phố nhỏ tại tiểu bang Utah, dân chúng và ngay cả học
sinh có mặt tại nhà ga ngay từ lúc sáng sớm để đón tiếp bà Tưởng Giới Thạch.
Khi xe lửa tới nhà ga thì Mỹ Linh còn đang ngủ saỵ Người đầy tớ gái phải mặc
giả quần áo của Mỹ Linh, và ra đứng trước sân ga cúi chào một đám đông đang hồi
hộp chờ đợi.
Nơi vinh dự nhất cho Mỹ Linh là Los Angeles. Tại đây người ta
thành lập Ủy ban Chào đón bà Tưởng, gồm có nhiều tài tử màn bạc thượng thặng,
như Rita Hayworth, Ingrid Bergman, Marlen Dietrich và Shirley Templẹ Bà được
thống đốc tiểu bang đi bên cạnh và được các tài tử danh tiếng như Spencer Tracy
và Henry Fonda giới thiệu. Một bản nhạc "Tưởng Giới Thạch Phu Nhân Hành
Khúc" được cấp tốc soạn ra và được ban đại hòa tấu Los Angeles chơi để
chào mừng cuộc viếng thăm của Mỹ Linh. Ở đâu Mỹ Linh cũng lên tiếng tố cáo sự
tàn ác dã man của quân Nhật, và ý nghĩa quan trọng của công cuộc chống Nhật của
người Trung hoa.
Chuyến viếng thăm tranh thủ nhân tâm người Mỹ của Mỹ Linh rất
thành công, và có sự hỗ trợ tích cực của chính quyền Hoa Kỳ. Hình ảnh Mỹ Linh
được báo Time đăng lên bìa, và người ta gọi bà là "Nàng công chúa Trung
hoa". Chính bộ ngoại giao dùng mật hiệu "Bạch Tuyết" để chỉ Mỹ
Linh.
Ngày 4-7-1943, Mỹ Linh lên đường trở về Trùng Khánh.
CHƯƠNG 18: SỰ CHIA RẼ TRONG NHÀ HỌ TỐNG
Sự nghiệp chính trị của Tống Mỹ Linh lên đến tột đỉnh tại hội
nghị thượng đỉnh Cairo, thủ đô Ai Cập năm 1943, cùng với thủ tướng Anh
Churchill và tổng thống Mỹ Roosevelt. Và cũng từ hội nghị này, số phận của
Tưởng Giới Thạch bắt đầu đi xuống. Churchill không bao giờ có thiện cảm và tin
vào tài năng của Tưởng Giới Thạch, và không bằng lòng họp thượng đỉnh với
Tưởng, nhưng vì tổng thống Mỹ Roosevelt nhấn mạnh phải có Tưởng nên Churchill
phải nhượng bộ. Sau khi đổ quá nhiều tiền vào Trung hoa, Roosevelt muốn thế
giới nhìn Tưởng Giới Thạch như là một chính khách lớn, lãnh đạo một trong tứ
cường. Chính tại hội nghị Cairo, Roosevelt hứa sẽ mở rộng những mặt trận mới,
tấn công quân Nhật tại Miến Điện và vịnh Bengal của Ấn độ, để giải tỏa áp lực
của quân Nhật tại Trung hoa.
Sau hội nghị Cairo, Roosevelt và Churchill họp với Stalin tại
thủ đô Ba Tự Tại đây Roosevelt được khuyến cáo bỏ những dự tính lớn tại Á Châu,
để tập trung nỗ lực vào cuộc đổ bộ của đồng minh tại Âu Châu. Khi biết được sự
thay đổi về quân sự này của Roosevelt, Tưởng rất giận dữ, ra lệnh cho đại sứ
Trung hoa yêu cầu Mỹ phải cho vay một tỷ đô la để có thể tiếp tục công cuộc
chống Nhật của Trung hoa. Lúc đó Tống Tử Văn đã vừa vay được 500 triệu, và sẽ
vay được của Anh 500 triệu nữa. Nhưng Tưởng muốn Mỹ phải gia tăng gấp đôi số
tiền cho vay.
Lúc đó quân đội cộng sản chưa đủ sức đương đầu với quân Quốc dân
đảng. Nửa triệu quân của Tưởng bao vây hồng quân tại miền nam, nhưng hồng quân
đã tẩu thoát được lên miền bắc. Về sau mặt trận miền nam giữa quân Nhật và quân
Quốc dân đảng yên tĩnh hơn. Tưởng cẩn thận lùi xa, tránh giao chiến với quân
Nhật. Tưởng muốn bảo tồn sức mạnh cho mục tiêu quan trọng hơn sau này: tiêu
diệt cộng sản sau khi quân Nhật đã bị đồng minh đánh bại. Chỉ có đạo quân Quốc
dân đảng dưới quyền chỉ huy của tướng Stilwell tại Miến Điện là chiến đấu xuất
sắc nhất.
Trong khu vực dưới quyền kiểm soát của Tưởng thì tình trạng tồi
tệ rất mau lẹ. Tiền bạc mất giá. Hàng hóa đắt đỏ đến nỗi chỉ những viên chức và
sĩ quan mới mua nổi. Tưởng ủng hộ chính sách định giá để tránh lạm phát, nhưng
các thương gia và kỹ nghệ gia lập tức dấu hàng hóa để chờ lúc có giá mới bán.
Từ đó nạn thiếu thực phẩm trở nên trầm trọng, và nạn đói gia tăng. Nhiều người
trước kia nồng nhiệt ủng hộ Quốc dân đảng, bây giờ căm phẫn và chống lại sự bất
lực của Quốc dân đảng. Nhiều người chống đối đã trở thành nạn nhân của mật vụ.
Những kẻ dám công khai chỉ trích chính phủ thì thường bị bắt giữ, tra tấn, chặt
đầu hoặc bị bỏ chết đói, hoặc trở thành người nghiện thuốc phiện trong các trại
giam của Thái Lý.
Tưởng càng lúc càng thêm độc tài, và tước đoạt dần quyền hành
của gia đình nhà họ Tống, và giao quyền hành của nhà họ Tống cho anh em Trần
Quả Phụ Mối liên hệ giữa Tưởng và nhóm anh chị Lục Hội cũng chặt chẽ hơn, so
với gia đình nhà họ Tống. Tưởng cần phải củng cố địa vị của mình. Tuy vậy ảnh
hưởng của nhà họ Tống không suy yếu ngaỵ Họ vẫn giữ vững được địa vị và tài sản
hiện đang có, tuy nhiên anh em nhà họ Trần đang vượt qua mặt nhà họ Tống về
quyền lực và tiền bạc. Chủ trương tự do dân chủ của nhà họ Tống bây giờ bị bãi
bỏ. Vì Tưởng dựa vào anh em nhà họ Trần và Thái Lý, nên Tưởng nghiêng về đường
lối cai trị sắt máu. Tưởng rất được sự ủng hộ của Harry Hopkins, cố vấn chính
trị của tổng thống Roosevelt. Nhưng Tưởng rất thù ghét tướng Stilwell, tư lệnh
quân đồng minh tại Miến Điện, và đã tìm cách vận động tổng thống Roosevelt thay
thế Stilwell.
Tháng 4-1945, mười lăm sư đoàn Nhật mở cuộc tấn công mới, và 300
ngàn quân Quốc dân đảng tan rã mau lẹ. Đôi khi chỉ cần 500 quân Nhật cũng đủ
đuổi hàng ngàn quân Quốc dân đảng chạy bán sống bán chết. Các tướng tư lệnh
Quốc dân đảng dùng xe vận tải chở gia đình và tài sản chạy sâu vào nội địa.
Nhiều ông tướng Quốc dân đảng bán các đồ viện trợ của Mỹ cho quân Nhật, hoặc
bán ra thị trường chợ đen. Chỉ tội nghiệp các binh sĩ cấp dưới phải chiến đấu
rất thiếu phương tiện, và bị bắt buộc làm bia cho súng đạn của quân Nhật một
cách đáng thương. Chính sách của Hoa Kỳ tại Trung hoa trong nhiều năm đã đặt
căn bản trên những nhân vật của dòng họ Tưởng, họ Tống, họ Khổng và họ Trần,
chứ không căn cứ vào hoàn cảnh thực sự của dân và nước Trung hoa.
Gia đình nhà họ Tống là những người rất ham mê tiền bạc, và có
tài thu hút được tiền bạc vào tay họ. Khi Tống Tử Văn thăm viếng Hoa Kỳ, ông
thành lập công ty Universal Trading Corporation do người Trung hoa điều khiển,
và đã du di rất nhiều tiền viện trợ Mỹ vào các trương mục của công ty này. Các
tổ chức kinh tài của nhà họ Tống được điều hành rất chặt chẽ và tàn ác. Nếu ai
đi chệch đường lối thì hoặc sẽ được mua chuộc cho trở lại, hoặc bị thủ tiêu
ngaỵ Bộ Óc chính của nhà họ Tống là Tống Ái Linh, một người đàn bà rất thông
minh nhưng tàn ác. Ái Linh ngồi phía sau điều khiển tất cả mọi dịch vụ của gia
đình. Tống Tử Văn là người điều khiển mặt nổi.
Có lần một tàu hàng chở 60 chiến xa mới của Mỹ cho quân Quốc dân
đảng, được báo cáo bị chìm. Nhưng thực ra thì chiếc tàu chở hàng này chưa bao
giờ ra khơi, và 60 chiến xa cũng chưa bao giờ được chế tạo, nhưng số tiền trả
cho 60 chiến xa ấy đã tìm đường chạy vào túi nhà họ Tống. Theo đại sứ Hồ Thích
của Trung hoa tại Hoa Kỳ thì một vài tổ chức tư nhân của Mỹ mời bà Khánh Linh
viếng thăm Hoa Kỳ, nhưng bà được nhà họ Tống nói thẳng cho biết bà sẽ không bao
giờ được phép xuất ngoại. Chính những người nhà họ Tống đã tìm cách ngăn chặn,
giữ bà Khánh Linh ở lại Trùng Khánh như một tù nhân. Chính bà Khánh Linh đã cho
biết bà rất sợ "đám cướp nhà họ Tống" sẽ giết bà, vì sợ bà phanh phui
những thủ đoạn bòn rút tiền viện trợ của những người trong nhà họ Tống.
Thoạt đầu chỉ có bà Khánh Linh đứng tách hẳn những người khác
trong gia đình họ Tống, vì bà không chịu nổi lòng ham tiền bạc và say mê quyền
lực của họ. Nhưng về sau đã có sự bất hoà giữa Ái Linh, Mỹ Linh và Tống Tử Văn,
vì Tống Tử Văn tỏ ra quá độc lập và thường lấy phần hơn về cho mình. Tống Tử
Văn đã làm Tưởng tức giận và vợ chồng Khổng Tường Hy phải cảnh giác đề phòng.
Sự hục hặc giữa những người trong nhà họ Tống bắt đầu vào tháng 11-1943, và tất
cả đề nghị một cuộc gặp gỡ hòa giải vào tháng 12. Nhưng trong lần hòa giải này,
Tưởng đã nổi nóng và liệng một tách trà vào đầu Tống Tử Văn, và cuộc hòa giải
tan vỡ.
Không phải chỉ mình Ái Linh và Mỹ Linh nghĩ rằng không thể kiểm
soát được Tống Tử Văn, mà chính anh em Trần Quả Phu và Tưởng cũng cố gắng
chuyển tiền viện trợ Mỹ từ tay Tống Tử Văn vào sự kiểm soát của Khổng Tường Hỵ
Nhưng Tống Tử Văn không dễ dàng gì đầu hàng. Tống Tử Văn lập tức đặt các tổ
chức kinh tài hải ngoại của mình ra ngoài tầm tay của Tưởng. Ngay sau màn bị
ném tách trà vào đầu tại Trùng Khánh, Tống Tử Văn phái em trai là Tống Tử Lương
sang Hoa Kỳ trông coi việc dùng tiền viện trợ để mua bán những thứ cần dùng gửi
về Trung hoa. Trong thời kỳ này, nhiều kho hàng của Trung hoa tại Hoa Kỳ bị
khai báo có hỏa hoạn hoặc bị phá hoại, và rất nhiều hàng hóa được khai là thất
lạc, trong khi đó thì người lính tại Trung hoa phải chiến đấu thiếu thốn đủ mọi
thứ. Các cuộc hỏa hoạn ma đã giúp nhà họ Tống thu hút được cả tỷ đô la tiền
viện trợ của Mỹ. Kỹ thuật ăn cắp này cũng thường xảy ra tại Trung hoa nữa. Một
ông tướng điều khiển ngành chuyển vận có biệt tài làm cho hàng trăm xe vận tải
chứa đầy hàng hóa biến mất.
Viên giám đốc hãng Chuyên Chở Tây Nam có 600 xe vận tải chở hàng
cho quân đội cũng chính là Tống Tử Lương. Chỉ sau khi tới Trung hoa chừng hai
tiếng đồng hồ thì những hàng hóa viện trợ Mỹ xuất hiện ngay tại chợ trời. Tổng
cộng khoảng 3.5 tỷ đô la viện trợ Mỹ đã đi qua bàn tay của anh em Tống Tử Văn
và Tống Tử Lương. Rất ít hàng hóa viện trợ tới được nơi nhận. Một nhân viên
ngoại giao Anh quốc nhận xét, "Anh em nhà họ Tống đã bỏ túi hàng tỷ đô la
viện trợ Mỹ, và phần lớn số tiền này không bao giờ đi ra ngoài Hoa Kỳ."
Khi chuyển địa bàn hoạt động của Tống Tử Lương từ Trung hoa sang
Hoa Kỳ, Tống Tử Văn đã đặt em mình ra ngoài phạm vi quyền hạn của Tưởng Giới
Thạch, anh em nhà họ Trần và trùm mật vụ Thái Lý, và cả bà chị Ái Linh nữa.
Tống Tử Văn thuyết phục anh em Trần Quả Phu rằng họ nên đề phòng vợ chồng Khổng
Tường Hy, chứ không cần phải lo ngại mình. Thực ra anh em Trần Quả Phu vốn đã
ghét và sợ Ái Linh từ lâu rồi. Ngay Khánh Linh cũng đã nói về bà chị của mình,
"Nếu ÁI Linh là đàn ông thì Tưởng Giới Thạch đã bị giết rồi, và chính Ái
Linh đã cai trị Trung hoa từ 15 năm về trước."
Mỹ Linh không có khả năng như bà chị cả, và có vẻ thất bại trong
cuộc tranh chấp quyền hành với con trai của chồng. Kể từ lúc Mỹ Linh ở Hoa Kỳ
trở về Trùng Khánh, tình chồng vợ giữa Tưởng và Mỹ Linh cũng chẳng tốt đẹp hơn
trước. Nhưng Mỹ Linh không dễ dàng đầu hàng hoàn cảnh. Mỹ Linh bây giờ tuy vẫn
còn đẹp, nhưng bà có vẻ mệt mỏi và buồn bã. Tuy vậy lòng kiêu hãnh của bà khiến
bà vẫn giữ được bề ngoài là một bậc nữ lưu quyền cao chức trọng. Bà cho rằng
đời sống phải là giữ vững được lý tưởng và tinh thần hài hước để có thể đương
đầu với hoàn cảnh. Trong lúc dự hội nghị Cairo, Mỹ Linh bị ngất xỉu. Có lẽ bà
là một diễn viên cố gắng đóng trò tới tối đa khả năng của mình chăng. Bác sĩ
riêng của thủ tướng Churchill săn sóc cho Mỹ Linh, và ông ta có nhận xét,
"Bà Tống Mỹ Linh không còn trẻ nữa, nhưng ở bà vẫn còn một vẻ xuất chúng,
vẫn còn một sự duyên dáng của một xác chết."
Khi từ Cairo trở về Trùng Khánh, Mỹ Linh dời đến ở với Ái Linh,
chứ không ở chung với Tưởng nữa, và cố tránh né những cuộc ra mắt trước công
chúng. Thỉnh thoảng người ta mới thấy bà đứng bên cạnh chồng, nhưng hai người
có vẻ lạnh lùng với nhau. Bà có bệnh về da nên cố tránh các nhiếp ảnh gia. Và
kể từ đây quyền lực nhà họ Tống bắt đầu đi xuống. Vợ chồng Khổng Tường Hy và Mỹ
Linh bị mọi phía công kích. Người ta cho rằng hôn nhân giữa Tưởng và Mỹ Linh là
vì lý do chính trị, và Tưởng loại Mỹ Linh khi không còn cần đến bà nữa. Mỹ Linh
sửa soạn cho một chuyến đi nghỉ hè lâu dài tại ngoại quốc.
Tháng 6-1944, Khổng Tường Hy bị cách chức bộ trưởng tài chánh,
và Mỹ Linh rời Trung hoa sang Ba Tây, Nam Mỹ. Lần đầu tiên Ái Linh cùng xuất
ngoại với em gái và các con. Người ta đồn đãi Ái Linh bị loại trong một cuộc
tranh chấp quyền lực. Mỹ Linh tới Ba Tây để chữa bệnh, trong lúc Ái Linh thương
thảo với các lãnh tụ Ba Tây để chuyển các trương mục và mua một số tài sản và
doanh thương tại Sao Paulo, thủ đô Ba Tây. Gia đình nhà họ Tống trải tài sản
khắp Nam Mỹ, đầu tư vào các kỹ nghệ dầu hỏa, khoáng sản và hàng hải, và thị
trường chứng khoán. Đến tháng 9-1944, hai chị em Ái Linh và Mỹ Linh bay về New
York, và đến tháng 10 thì dọn vào ở dinh thự của họ Khổng tại Riverdale.
Tháng 11-1944, tờ Daily Mail tại Luân Đôn loan tin Mỹ Linh từ bỏ
chồng và sống vĩnh viễn tại Hoa Kỳ. Tưởng và Mỹ Linh sẽ không ly dị nhau, sợ có
hại cho tinh thần quân dân Trung hoa, nhưng Trần Khiết Như, người vợ cũ của
Tưởng, cùng đứa con mới sinh đã dọn vào dinh tổng thống ở với Tưởng. Hai người
con khác của Tưởng là Tưởng Kinh Quốc và Tưởng Vĩ Quốc đang hoạt động tích cực
trong quân đội Quốc dân đảng. Mỹ Linh ở lại Hoa Kỳ cho tới tháng 7-1945 mới trở
lại Trùng Khánh.
Khoảng cuối năm 1943, các tướng trẻ của Trung hoa, những người
tiến lên nắm các chức tư lệnh bằng chiến công trong thời chiến, quyết định rằng
nếu muốn cứu vãn Trung hoa thì cần phải loại bỏ Tưởng Giới Thạch và bè lũ tham
nhũng của Tưởng ngay tức khắc. Các tướng này bày tỏ quan điểm với tướng Mỹ
Timberman, người phụ trách huấn luyện cho quân đội Quốc dân đảng tại miền đông,
và yêu cầu ông tìm sự hỗ trợ của người Mỹ trong việc loại bỏ Tưởng và phe nhóm
của Tưởng. Người Mỹ chính thức từ chối, nhưng cơ quan OSS âm thầm trợ giúp các
tướng trẻ, và sửa soạn một cuộc đảo chánh. Cuộc đảo chánh dự định vào dịp kỷ
nhiệm ngày Tưởng bị bắt cóc tại Tây An, trong lúc Tưởng đi Cairo Ai Cập dự hội
nghị thượng đỉnh với Roosevelt và Churchill. Tưởng sẽ phải chấp nhận một sự
việc đã rồi.
Tuy nhiên Thái Lý biết được âm mưu đảo chánh Tưởng, và trưng
bằng cớ chứng minh những người trong chính gia đình nhà họ Tống tổ chức và tham
gia cuộc đảo chánh. Không biết điều Thái Lý nói có đúng sự thực hay không,
nhưng đây là một cơ hội tốt cho Thái Lý và anh em Trần Quả Phu ra tay triệt hạ
gia đình họ Tống. Tuy nhiên Tống Tử Văn vẫn thoát hiểm, và vẫn giữ được quyền
lực của mình. Với sự đồng ý của Tưởng, Thái Lý bắt giữ hơn 600 sĩ quan, và ngày
Tưởng từ Cairo trở về thì 16 tướng trẻ và có khả năng nhất bị đem xử tử. Ngay sau
đó Tưởng phục hồi chức vụ cho Tống Tử Văn, và ra lệnh cho Khổng Tường Hy phải
đem vợ con ra khỏi Trung hoa.
Vợ chồng Ái Linh thua cuộc trong khi Tống Tử Văn không hề hấn
gì, có lẽ vì Tống Tử Văn đi theo Thái Lý và anh em Trần Quả Phụ Cuối năm 1944,
Tống Tử Văn lại nắm chức quyền thủ tướng, và vẫn kiêm nhiệm chức bộ trưởng
ngoại giao. Sáu tháng sau, Tống Tử Văn được cử làm thủ tướng, kiêm nhiệm bộ
trưởng ngoại giao, và còn được giao thêm chức bộ trưởng tài chánh của Khổng
Tường Hỵ Tống Tử Văn trở thành một người mạnh nhất Trung hoa, ít nhất là trên
giấy tờ.
Đây là giai đoạn đi xuống của gia đình nhà họ Tống, khi anh chị
em chia rẽ nhau vì quyền lợi. Kể từ năm 1944, trừ Khánh Linh, mọi người trong
nhà họ Tống nỗ lực xây dựng tài sản của họ tại Hoa Kỳ nhiều hơn là tại Trung
hoa. Tài sản nhà họ Tống lên đến trên ba tỷ đô lạ Theo Bách Khoa Tự Điển của
Anh Quốc thì Tống Tử Văn được coi là người giầu có nhất thế giới.
CHƯƠNG 19: NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG TẠI TRUNG HOA
Người ta phải sống tại Trùng Khánh mới cảm thấy được ảnh hưởng
lớn của những nhân vật cao cấp trong Quốc dân đảng. Chính phủ kiểm duyệt gắt
gao mọi tin đồn xấu xa về các tệ đoan của chính quyền, trong khi tham nhũng
thối nát thì đầy rẫy khắp nơi. Người ta không còn được công khai bàn thảo những
vấn đề thời sự quan trọng hàng đầu của Trung hoa, như: nạn đói, lạm phát, mối
liên hệ với ngoại quốc hoặc nhân cách của những viên chức cao cấp trong chính
quyền.
Bầu không khí căng thẳng ngột ngạt của Trùng Khánh đã ảnh hưởng
tới tâm thần của những người sinh sống tại đây. Tại Trung hoa có tới hai loại
mật vụ. Một ngành phục vụ cho Hội đồng Quân sự Quốc gia, và một ngành trực
thuộc Quốc dân đảng. Điệp viên và mật vụ của hai ngành này hiện diện khắp nơi.
Người dân Trung hoa tại bất cứ đâu cũng có thể bị mật vụ bắt, ném vào trại giam
hoặc trại tập trung vì bất cứ lý do gì, hoặc cũng chẳng cần lý do gì.
Quốc dân đảng đang bị chi phối bởi một nhóm người tham nhũng,
dưới quyền kiểm soát của anh em Trần Quả Phụ Quốc dân đảng đã thực sự kiểm soát
được tư tưởng của quốc gia bằng sự kết hợp của mật vụ, quyền lãnh đạo, gián
điệp và quyền hành chánh. Trần Quả Phu, người anh lớn, kiểm soát mọi sự gặp gỡ
với Tưởng Giới Thạch. Mọi giấy tờ trước khi chuyển tới tay Tưởng đều được Trần
Quả Phu kiểm soát trước. Trần Quả Phu chỉ muốn Tưởng được gặp, được đọc những
gì có lợi cho anh em nhà họ Trần. Người em là Trần Lập Phu còn quan trọng hơn
nữa. Trần Lập Phu là một người đẹp trai, làm việc không biết mệt. Người ta nói
Trần Lập Phu cũng tạo được những thành tích văn chương rất đáng kể.
Tưởng Giới Thạch hoàn toàn xa lìa thực tế. Một hôm Tưởng rất đỗi
kinh ngạc khi nghe tin lính Quốc dân đảng chết đói ngoài đường phố Trùng Khánh.
Tham nhũng đã bóc lột cả phần ăn ít ỏi của người lính. Tưởng phái người con cả
là Tưởng Kinh Quốc đi điều trạ Khi Kinh Quốc xác nhận việc lính chết đói là có
thực, Tưởng đòi tự mình đi để trông thấy tận mắt. Kinh Quốc cho Tưởng xem một
trại tân tuyển có những người lính mới chết đói vì sự tham nhũng và tắc trách
của cấp chỉ huỵ Tưởng nổi giận cầm can vụt vào mặt viên sĩ quan chỉ huy, tống
viên sĩ quan ấy vào tù, và bổ nhiệm người khác thay thế. Tuy vậy lính Quốc dân
đảng vẫn tiếp tục chết đói. Tháng 8-1944, người ta nhặt được 138 xác quân nhân
chết đói ngoài đường phố Trùng Khánh. Con số thường dân chết đói thì rất nhiều,
trong lúc các nhà quyền quý mở những bữa tiệc thật lớn, đến nỗi thực khách phải
móc họng nôn đồ ăn trong bụng ra, để có thể tiếp tục ăn nữa.
Tưởng Giới Thạch viết một cuốn sách, cuốn Định Mệnh Trung Hoa,
cố tình bóp méo sự thực để minh chứng cho hành động của mình. Tưởng đổ lỗi cho
các thế lực ngoại quốc đã gây nên nỗi thống khổ của người Trung hoa. Trong số
những người trong gia đình nhà họ Tống thì chỉ còn một mình Tống Tử Văn còn hợp
tác với Tưởng. Tống Tử Văn đại diện cho Tưởng gặp gỡ những người mà Tưởng không
ưa. Họ Tống đảm nhiệm chức vụ quyền thủ tướng, và kiêm chức bộ trưởng ngoại
giao. Tống Tử Văn sống một một cuộc đời cực kỳ xa hoa giữa một xã hội thượng
lưu tham nhũng thối nát và hàng triệu người Trung hoa chết đói. Cuộc đời của
Tống Tử Văn cứ thế lên mãi cho đến khi xảy ra vụ "Quan tiền vàng".
Vì đồng tiền Trung hoa bị lạm phát mất giá nên Tưởng đưa ra một
kế hoạch mới, đặt ra một đơn vị tiền tệ mới, có vàng bảo đảm, gọi là "quan
tiền vàng". Tưởng muốn quần chúng nộp vàng cho chính phủ và đổi lấy tiền
giấy bảo đảm của Tưởng. Tống Tử Văn tiết lộ tin này ra cho một số người thân
tín biết, nên họ vội rút vàng trong ngân hàng ra, nếu không sẽ bị Tưởng đổi
vàng lấy tiền giấy. Hôm đó là ngày Thứ Sáu. Lệnh mới của Tưởng sẽ áp dụng vào
ngày Thứ Hai tuần lễ sau đó. Một số người biết tin lập tức rút vàng cất đi, và
đổ xô mua thêm vàng nữa, vì tuần lễ sau đó vàng chắc chắn sẽ lên giá. Ngân hàng
hôm đó phải mở cửa tới 9 giờ tối để thỏa mãn nhu cầu của người mua vàng. Cơn
sốt vàng lan rộng ra nhiều thành phố khác. Tưởng nổi giận Tống Tử Văn đã biến
Tưởng thành một trò hề trước quần chúng, nên yêu cầu Tống Tử Văn từ chức thủ
tướng, và bổ nhiệm họ Tống vào chức tỉnh trưởng Quảng Đông. Chức vụ tỉnh trưởng
Quảng Đông là một cơ hội may mắn cho Tống Tử Văn, đặt họ Tống một vị trí thuận
tiện nhất để chuyển tài sản ra Hương Cảng.
Tưởng Giới Thạch cử người con trai Tưởng Kinh Quốc vào nhiệm vụ
thi hành luật lệ tiền tệ mới. Tưởng Kinh Quốc được lệnh giải quyết vùng Thượng
Hải trước. Kinh Quốc đã thi hành thật đúng lệnh của Tưởng, tích cực chống lại
tham nhũng, thị trường đen và áp dụng luật sắt máu mà Kinh Quốc học được từ Nga
sô, như thiết lập tòa án ngoài đường phố và xử tử nạn nhân ngay tại chỗ. Biện
pháp mạnh của Kinh Quốc cũng có hiệu quả một phần nào, nhưng Kinh Quốc đã phạm
phải hai lỗi lầm lớn. Kinh Quốc đã bắt giam con trai của Bố già Đỗ Đại Nhĩ, vì
con trai của Đỗ Đại Nhĩ đã bán hàng triệu cổ phần chứng khoán ra thị trường
ngay trước khi luật lệ mới về tiền tệ có hiệu lực. Hiển nhiên Bố già Đỗ Đại Nhĩ
đã ngầm báo cho con trai biết sự thay đổi của luật lệ.
Con trai của Bố già Đỗ Đại Nhĩ tốt nhgiệp trường đại học MIT
danh tiếng của Mỹ, và đã bị Kinh Quốc đem xử và kết án mau lẹ. Tuy nhiên con
trai của Đỗ Đại Nhĩ chỉ bị phạt 8 tháng tù về tội bán các cổ phần chứng khoán
trái luật, nhưng hắn không phải ngồi tù ngày nào, nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của
Bố già Đỗ ĐạI Nhĩ. Sự bắt giữ và xử tội con trai Bố già Đỗ Đại Nhĩ là dấu hiệu
của một sự thay đổi mới, và Thượng Hải bây giờ không còn là Thượng Hải trước
kia nữa. Có lẽ một phần vì Đỗ Đại Nhĩ đã già yếu rồi, sau nhiều năm nghiện hút,
không còn nắm vững được Lục Hội như trước. Cuối cùng bị áp lực từ bên trong Lục
Hội, Đỗ Đại Nhĩ bắt đầu di chuyển tài sản sang Hương Cảng, và Đỗ Đại Nhĩ phải
sống chuỗi ngày tàn tại Hương Cảng.
Lỗi lầm thứ hai của Kinh Quốc là bắt giam Khổng Lệnh Kiệt, con
trai của ÁI Linh và là cháu ruột của Mỹ Linh. Kinh Quốc khám phá được nhiều
hàng hóa Mỹ và Âu Châu trong kho hàng của hãng Phát Triển Dương Tử Giang. Kinh
Quốc ra lệnh bắt giữ tổng giám đốc là Khổng Lệnh Kiệt. Mỹ Linh đang ở Nam Kinh
thì được tin không may đó. Bà tức giận và chất vấn chính Tưởng Giới Thạch,
nhưng Tưởng từ chối không trả lời vì không biết gì về nội vụ. Mỹ Linh bay ngay
đến Thượng Hải và yêu cầu giao lại Khổng Lệnh Kiệt cho bà. Sau đó Mỹ Linh gửi
Khổng Lệnh Kiệt đi Hương Cảng và đi thẳng Florida, Mỹ quốc. Công ty của Khổng
Lệnh Kiệt đóng cửa tại Thượng Hải ngay tức khắc.
Kinh Quốc bắt giữ Khổng Lệnh Kiệt và con trai Đỗ Đại Nhĩ có thể
là do lòng nhiệt tâm muốn giữ cho luật lệ được thi hành đúng đắn, mà cũng có
thể là thâm ý muốn triệt hạ uy tín địch thủ của mình là Tống Mỹ Linh. Cả Mỹ
Linh và Kinh Quốc đều muốn kế vị Tưởng. Tuy nhiên sau vụ này, Kinh Quốc bị
Tưởng khiển trách. Bị mất mặt, Kinh Quốc từ chức, và thua bà kế mẫu hiệp đụng
độ đầu tiên.
Tưởng Kinh Quốc có ba con trai là Tưởng Hiếu Văn, Tưởng Hiếu Vũ,
Tưởng Hiếu Dũng, và một con gái là Tưởng Hiếu Chương. Đó là những đứa con chính
thức với vợ cả người Ngạ Nhưng hồi năm 1938, khi được 30 tuổi, Tưởng Kinh Quốc
được bổ nhiệm làm chuyên viên hành chánh khu Cán Nam. Tại đây Kinh Quốc ban
hành lệnh cấm hút thuốc và cờ bạc, và mở lớp huấn luyện thanh niên cả nam và nữ
để đào tạo những cán bộ có khả năng hoạt động cho các chương trình của nhà
nước. Trong một lớp học, Kinh Quốc chú ý tới một thiếu nữ rất xinh đẹp, và
người thiếu nữ này cũng thường nhìn Kinh Quốc một cách khâm phục trìu mến.
Người thiếu nữ ấy là Chương Á Nhược, một người thông minh, lịch
thiệp và có một nhan sắc mê hồn. Lúc ấy Kinh Quốc để vợ và các con ở lại Phụng
Hóa, và sống một mình tại Cán Nam. Dần dần Chương Á Nhược và Kinh Quốc trở nên
thân mật, và Á Nhược giúp Kinh Quốc rất nhiều trong cả công việc hành chánh và
đời sống riêng tư của Kinh Quốc. Rồi hai người yêu nhau say đắm, và Á Nhược dọn
về sống chung với Kinh Quốc. Người vợ cả của Kinh Quốc là người Nga, nên Kinh
Quốc cảm thấy có sự khác biệt về văn hoá, nên khi gặp Á Nhược, một thiếu nữ
Trung Hoa dịu dàng khả ái, Kinh Quốc tìm thấy hạnh phúc mà từ trước Kinh Quốc
chưa bao giờ được hưởng. Nhưng Kinh Quốc không dám công khai kết hôn với Á
Nhược, vì sợ tai tiếng có hại cho sự nghiệp chính trị, nhất là Kinh Quốc đang
lép vế trước một Tống Mỹ Linh đầy uy quyền. Kinh Quốc khuyên Á Nhược tạm thời
nhẫn nhục và tránh có thai.
Nhưng Á Nhược vừa yêu vừa phục Kinh Quốc nên muốn có một đứa con
để ràng buộc với Kinh Quốc, và tạo một địa vị trong gia đình họ Tưởng. Hai
người sống chung một thời gian thì Á Nhược hân hoan báo cho Kinh Quốc biết nàng
đã có thai. Kinh Quốc lo lắng gửi Á Nhược tới tạm trú tại trường lục quân Quế Lâm.
Đến ngày lâm bồn, Á Nhược rất sung sướng khi sinh đôi được hai đứa con trai.
Nhưng Á Nhược không sống được lâu để hưởng hạnh phúc chồng con. Chỉ vài ngày
sau khi sinh con, Á Nhược chết một cách bí mật, trước khi gặp lại người tình
yêu dấu. Cái chết bí ẩn của Á Nhược đã giúp Kinh Quốc vượt qua được một vụ tai
tiếng chính trị, nhưng không phải là Kinh Quốc không đau lòng. Kinh Quốc đặt
tên cho hai đứa con là Chương Hiếu Nghiêm và Chương Hiếu Từ. Kinh Quốc không
dám cho hai con trai của Á Nhược mang họ Tưởng, và gửi chúng về cho cho người
em ruột của Á Nhược là Chương Hạo Nhược nuôi nấng.
Hiếu Nghiêm và Hiếu Từ về sau du học tại Hoa Kỳ, cùng đậu tiến
sĩ và giữ những địa vị quan trọng tại Đài Loan. Tuy vậy Tưởng Kinh Quốc không
dám công khai nhìn nhận hai đứa con trai ngoại hôn, vì quyền lợi chính trị. Có
thể Kinh Quốc đã ngầm giúp đỡ Hiếu Nghiêm và Hiếu Từ. Mãi sau này khi Kinh Quốc
chết, Tống Mỹ Linh cho phép Hiếu Nghiêm và Hiếu Từ được chính thức về chịu tang
thân phụ.
Trong thời gian còn làm chúa tể Hoa Lục, Tưởng Giới Thạch
nghiêng về Tống Mỹ Linh trong cuộc tranh chấp quyền thừa kế chính trị giữa Tống
Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc, vì lúc đó vai trò của Tống Mỹ Linh có lợi cho Tưởng
Giới Thạch hơn. Nhưng dần dần ảnh hưởng của Mỹ Linh với Tưởng Giới Thạch cũng
suy giảm đi, khi mà Tưởng thấy không còn cần đến sự trợ giúp của nhà họ Tống
nữa, đặc biệt là sau khi chạy ra hải đảo Đài Loan.
Sau nột năm sống tại Hoa Kỳ, Mỹ Linh trở về Trung hoa khi đệ nhị
thế chiến chấm dứt. Bề ngoài người ta tưởng cuộc tình duyên giữa Tưởng và Mỹ
Linh vẫn tốt đẹp như trước. Khi Mỹ Linh trở về thì cũng là lúc Trần Khiết Như
ra đi. Trần Khiết Như đã sinh được một con trai cho Tưởng Giới Thạch, nhưng
hình như đứa bé chết yểu. Trần Khiết Như trở lại California, và cuối cùng quay
về sống tại Hương Cảng cho tới lúc chết, đem theo nhiều bí ẩn về cuộc tình giữa
nàng và Tưởng.
Tình hình quân sự và chính trị của Trung hoa mỗi lúc một thêm
đen tối. Lực lượng cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo ngày một tiến thêm và
mạnh thêm trong khi khu vực của Tưởng ngày một thu hẹp lại. Người Mỹ cũng có
một cái nhìn khác về Trung hoa. Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1948, phe
Tưởng liên kết với ứng cử viên cộng hòa Thomas Dewey chống lại tổng thống
Truman. Nhưng cuối cùng Truman thắng cử. Truman từ chối viện trợ Ồ ạt cho Tưởng
để đánh lại cộng sản. Mỹ Linh qua thủ đô Hoa kỳ yêu cầu một ngân khoản trợ cấp
3 tỷ đô la, trong lúc Quốc hội với đa số thuộc đảng Cộng Hòa chỉ chấp thuận cho
Tưởng vay một tỷ đô lạ Người Mỹ cho rằng đã quá trễ để trợ giúp Tưởng.
Trong năm 1948, viễn tượng thất bại của Tưởng đã quá rõ ràng.
Đúng ngày bầu cử tổng thống Mỹ năm 1948, cộng quân mở cuộc tấn công vào đạo
quân Quốc dân đảng trấn giữ vùng đồng bằng Trung hoa tại Hoài Hải. Trận đánh
kéo dài hai tháng và quân Quốc dân đảng thất trận. Trong số 550 ngàn quân Quốc
dân đảng tại Hoài Hải thì 325 ngàn bị cộng quân bắt làm tù binh. Trong những
giây phút cuối cùng của trận đánh, Tưởng ra lệnh oanh tạc chính quân Quốc dân
đảng để tránh đồ quân nhu rơi vào tay cộng sản.
Chuyến đi cầu viện của Mỹ Linh hoàn toàn thất bại, và bà chán
nản lui về sống ẩn dật trong khu dinh thự của nhà họ Khổng tại New York. Trong
lúc đó tổng thống Truman nói về những con người lừa đảo trong chính phủ Trùng
Khánh, và cho rằng một tỷ đô la viện trợ của Mỹ hiện đang ở ngay Hoa Kỳ, trong
những trương mục của các viên chức thối nát Quốc dân đảng. Khi thế chiến thứ
hai chấm dứt, chế độ Quốc dân đảng sụp đổ mau lẹ, như một cây cột đã bị thối
mục bên trong.
Cuộc điều tra của Hoa Kỳ cho thấy nhiều trương mục của Khổng Tường
Hy và Tống Tử Văn đến từ các ngân hàng của chính hai người này tại Trung hoa.
Nhiều người trong nhà họ Tống làm chủ nhiều bất động sản tại khắp nước Mỹ. Tống
Tử Văn và Khổng Tường Hy làm chủ nhiều chứng khoán rất lớn. Nhiều nhân viên làm
việc tại sứ quán Trung hoa cuối cùng trở thành tù nhân bên trong khu dinh thự
của nhà họ Khổng. Những người này không được viết thư về quê nhà, không được ra
khỏi khu vực, và không được trả lương. Một số bỏ trốn, nhưng bị bắt lại. Nhà họ
Khổng dạy các người dám bỏ trốn này một bài học bằng cách treo họ lên trần nhà,
và đánh đập tàn nhẫn.
Sau này trong một cuộc phỏng vấn, tổng thống Truman nhận xét về
gia đình nhà họ Tống, "Tất cả họ là những tên ăn cắp, từng người một. Họ
ăn cắp trên 750 triệu đô la trong số 3 tỷ 8 mà chúng ta gửi viện trợ cho Tưởng.
Họ ăn cắp tiền đó và đầu tư về nhà đất tại Ba Tây và ngay tại New York."
Tại Trung hoa, Tưởng rất bận rộn sửa soạn cho cuộc đào tẩu ra
Đài Loan. Một người dám ra lệnh ném bom vào ngay quân của mình để giữ một ít đồ
quân nhu khỏi rơi vào tay cộng sản, thì sẽ không bao giờ để lại tài sản của
mình mà không mang theo. Tưởng đặt những người trung thành nhất vào công việc
vơ vét tiền bạc tại các ngân hàng, và đồ quý vật tại các bảo tàng viện. Từ
nhiều năm trước, Tưởng theo lời một cố vấn, đã cất dấu kho tàng nghệ thuật từ
thời vua Càn Long, ông vua thứ tư nhà Thanh. Triều đại Càn Long là một thời kỳ
vàng son của văn học nghệ thuật Trung hoa, và vua Càn Long đã thu thập nhiều
tác phẩm nghệ thuật thành một bảo tàng viện đầu tiên của Trung hoa. Bây giờ
Tưởng coi kho tàng này là di sản thuộc về mình. Các nhân viên của Tưởng đóng
những nghệ phẩm thành từng kiện hàng, rồi di chuyển từ Bắc Kinh xuống Nam Kinh,
và các tỉnh hẻo lánh, để tránh bị Nhật Bản và cộng sản chiếm được.
Trước khi trận đánh quyết định Hoài Hải kết thúc, trên hai trăm
ngàn họa phẩm, đồ sứ quý, ngọc thạch và tượng đồng được di chuyển qua Đài Bắc.
Mười một ngày trước khi trận Hoài Hải chấm dứt, Tưởng từ chức tổng thống ngày
21-1-1949. Tưởng nhận thấy tình thế tuyệt vọng nên từ chức để tránh cái nhục
bại trận. Nhưng tuy đã từ chức, Tưởng vẫn giữ quyền lực trong tay, vẫn có quân
đội, công chức, vật liệu, phi cơ, tất cả vẫn chờ đợi lệnh Tưởng. Các tướng Quốc
dân đảng vẫn mong đợi một cơ hội nắm quyền, và chức tổng thống rơi vào tay một
địch thủ của Tưởng trong Quốc dân đảng là tướng Lý Tông Nhân. Việc làm đầu tiên
của Lý Tông Nhân là tìm cách thương thuyết với Mao Trạch Đông. Điều kiện của
Mao là phải nộp vợ chồng Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, và vợ chồng Khổng Tường
Hy để xử tội. Tuy nhiên những người Mao Trạch Đông muốn bắt giữ thì đã cao chạy
xa bay rồi.
Khổng Tường Hy từ giã chính trường. Khi chiến tranh chấm dứt,
Khổng đã 65 tuổi. Hai vợ chồng Khổng Tường Hy và Tống Ái Linh đã thu thập được
một tài sản trị giá một tỷ đô là và đã chuyển ra nước ngoài. Năm 1946, vợ chồng
Khổng Tường Hy trở lại thăm Thượng Hải một lần cuối cùng để thanh toán tài sản,
và chuyển tất cả những gì có thể chuyển được sang Hương Cảng và ngoại quốc. Năm
1947, vợ chồng Khổng Tường Hy trở về thăm quê nhà tại Sơn Tây một lần cuối cùng
trước khi lâu đài nhà họ Khổng bị cộng quân chiếm. Vợ chồng Khổng Tường Hy trỏ
lại sống tại New York kể từ đó.
Tống Tử Văn cũng vội vã ra đi, vì Tống biết mình bị coi là tội
phạm chiến tranh hàng đầu, và có kẻ thù ở cả hai phía cộng sản và Quốc dân
đảng. Phe Quốc dân đảng tố cáo Tống Tử Văn đã ăn cắp của công quỹ khá nhiều
tiền, và yêu cầu Tống Tử Văn phải trả lại phân nửa tài sản cho quốc gia. Ngày
24-1-1949, Tống Tử Văn thấy thế nguy liền từ chức tỉnh trưởng Quảng Đông, và cùng
vợ trốn sang Hương Cảng. Chưa bao giờ Tống Tử Văn trông chán nản như thế. Hai
phe quốc gia và cộng sản đều muốn bắt Tống và Tống phải nhờ cảnh sát Anh bảo vệ
tại Hương Cảng. Ngày 16-5, Tống Tử Văn sang Pháp "để chữa bệnh", và
đến ngày 10-6 thì trở lại Hoa Kỳ.
Tháng hai năm 1949, mặc dầu không còn là tổng thống nữa, Tưởng
thu xếp đưa tất cả số vàng dự trữ của quốc gia sang Đài Bắc. Như vậy chính phủ
của Lý Tông Nhân không có tiền để trả lương cho quân đội còn đang cầm cự với
cộng quân. Khi Lý Tông Nhân thấy công quỹ hết tiền, liền nhờ đại sứ Mỹ cầu cứu
chính phủ Hoa Kỳ trợ giúp, để có đủ thời giờ thương thuyết với Mao Trạch Đông.
Đại sứ Mỹ khuyên Lý Tông Nhân nên kêu gọi sự đóng góp ái quốc của các viên chức
Quốc dân đảng đã ăn cắp hàng triệu đô la viện trợ Mỹ.
Tưởng Giới Thạch xúi giục Tôn Khoa, con trai Tôn Dật Tiên, đứng
ra lập một chính phủ độc lập tại Quảng Đông, và Tưởng sẽ giúp Tôn Khoa mở một
cuộc Bắc Phạt nữa. Thoạt đầu Tôn Khoa định nghe lời khuyên của Tưởng, nhưng sau
nhận ra tình thế tuyệt vọng của Quốc dân đảng, Tôn Khoa bỏ đi sang Pháp sống
một cuộc đời lưu vong. Tưởng liền chuyển số quân đội trung thành còn lại qua
Đài Loan. Tưởng hy vọng rằng với tài sản khổng lồ mang theo được và có đủ quân
số, Tưởng có thể giữ vững được Đài Loan mãi mãi, và nuôi hy vọng chiếm lại Hoa
Lục.
Tưởng ghé Thượng Hải một lần chót vào tháng 4 để gặp Bố già Đỗ
Đại Nhĩ lần cuối cùng. Lý do chính Tưởng đến Thượng Hải là muốn nhờ Lục Hội và
Đỗ Đại Nhĩ giúp Tưởng cướp Ngân hàng Trung hoa. Tưởng vẫn nhắm cái kho tàng gồm
sáu triệu cân vàng của Ngân hàng Trung hoa từ lâu. Phân nửa số vàng này đã đi
theo Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn. Bây giờ Tưởng muốn lấy nốt phần còn lại.
Quân đội của Tưởng bao vây cả khu vực ngân hàng, và hàng trăm đàn em của Đỗ Đại
Nhĩ giả làm cu li lũ lượt khiêng vàng xuống tàu đậu ngay dưới bến, trước cửa
Ngân hàng Trung hoa. Sau đó Bố già Đỗ Đại Nhĩ trốn sang Hương Cảng vài ngày
trước khi hồng quân tiến vào thành phố ngày 25-5. Tại Hương Cảng, Đỗ Đại Nhĩ
sống thêm được hai năm nữa. Đỗ Đại Nhĩ bị tê liệt và chết ngày 16-8-1951. Tưởng
Giới Thạch gửi một điện tín phân ưu cái chết của Đỗ Đại Nhĩ, trong đó Tưởng ca
ngợi Đỗ Đại Nhĩ để lại cho hậu thế một tấm gương trung thành và ngay thẳng.
Đầu tháng 5-1949, Tưởng bỏ chạy sang Đài Loan. Bộ trưởng quốc
phòng Trần Thành đã sửa soạn Đài Loan từ tháng 10 năm trước. Nhiều nơi hẻo lánh
tại Trung hoa vẫn còn nằm trong tay quân đội Quốc dân đảng. Tháng 8-1949, Tưởng
Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc bay trở lại Trùng Khánh. Tại Trùng Khánh lúc đó
vẫn còn một người tử tù của Tưởng là sứ quân Dương Hổ Thành, người đã cùng
Trương Học Lương bắt cóc Tưởng tại Tây An. Dương Hổ Thành thoạt đầu bỏ trốn qua
Pháp, nhưng ít lâu sau tìm cách trở lại Trung hoa, và bị mật vụ của Tưởng bắt
được. Trong suốt 11 năm, Dương Hổ Thành cùng với người con trai, con gái và vợ
chồng người thư ký trung thành, sống rên siết trong trại tập trung của trùm mật
vụ Thái Lý. Bây giờ trước khi vĩnh viễn rời bỏ lục địa, Tưởng làm một chuyến đI
đặc biệt để ra lệnh xử tử Dương Hổ Thành và gia đình. Toàn gia Dương Hổ Thành
và vợ chồng người thư ký bị hành quyết ngay trước mắt Tưởng.
Tháng 1-1950, bà Tống Mỹ Linh trở về Đài Loan từ New York. Dân
chúng trên đảo chống lại phe Quốc dân đảng, và chính phủ của Tưởng đã phải dùng
biện pháp khủng bố đàn áp. Đây là một hòn đảo rất thơ mộng và giàu tài nguyên,
đủ sức tự túc về kinh tế. Nhưng khi quân đội Quốc dân đảng chạy qua thì hòn đảo
trở thành một nơi máu lửa. Đã có nhiều cuộc tàn sát dã man. Trên mười ngàn
người gốc Đài Loan bị quân đội tàn sát trong một cuộc nổi loạn tại thủ đô Đài
Bắc. Khoảng trên hai chục ngàn người khác cũng bị giết trước khi Tưởng thiết
lập được một chính phủ ổn định tại Đài Loan. Các nhà lãnh đạo gốc Đài loan phải
trốn tránh, một số trốn sang Nhật Bản. Tại hòn đảo nhỏ này, mật vụ của Tưởng tỏ
ra rất hữu hiệu, và mật vụ đã đối xử với dân chúng gốc Đài Loan như họ đã từng
đối xử với dân Thượng Hải hồi tháng 4-1927.
Dù những va chạm trước kia với chế độ của Tưởng Giới Thạch, bây
giờ Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn cũng vẫn là những cây cầu cần thiết nối liền
mối quan tâm của Hoa Kỳ với Đài Loan. Các anh chị em nhà họ Tống vẫn họp bàn để
tìm cách giúp đỡ chế độ Quốc dân đảng tại Đài Loan. Mỹ Linh trở về Đài Loan năm
1950 với mục đích tranh quyền kế vị Tưởng. Nhưng trong thời gian Mỹ Linh vắng
mặt, Tưởng Kinh Quốc được giao phó trọng trách phụ tá cho Tưởng Giới Thạch, và
được bổ nhiệm đứng đầu phòng chính trị của bộ quốc phòng. Trong hai mươi năm
sau đó, mỗi khi Mỹ Linh quay lưng đi thăm viếng Hoa Kỳ thì ở nhà Kinh Quốc lại
tiến lên một nấc thang quyền hành, càng ngày càng tới gần việc thay thế Mỹ Linh
để trở thành người thừa kế của Tưởng Giới Thạch. Một lần Mỹ Linh viếng thăm Hoa
Kỳ một thời gian dài, từ tháng 8-1952 cho đến tháng 3-1953. Khi trở về Đài Loan
Mỹ Linh được tin Tưởng Kinh Quốc được mời viếng thăm bộ ngoại giao và quốc
phòng Hoa Kỳ. Tưởng Kinh Quốc còn được mời thảo luận với tổng thống Mỹ
Eisenhower, một vinh dự mà Mỹ Linh không có từ năm 1943.
Tuy vậy Mỹ Linh vẫn thân cận Tưởng Giới Thạch, và trong nhiều
trường hợp, nói thay cho Tưởng Giới Thạch. Nhiều tướng lãnh và nhân vật cao cấp
Quốc dân đảng cũng không dám làm mất lòng Mỹ Linh. Ngay Tưởng Kinh Quốc cũng
phải e dè Mỹ Linh, vì Mỹ Linh rất dễ nổi giận, và thường là có sự trả đủa ngay
khi bà nổi giận. Tháng 4-1954, Mỹ Linh thăm viếng Hoa Kỳ sáu tháng để tranh đấu
chống lại việc nhận Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc. Khi bà trở về Đài Loan để dự
lễ thọ 67 tuổi của Tưởng Giới Thạch thì thấy quyền hành đã tuột khỏi tay bà
rồi. Năm 1958, Tưởng Kinh Quốc được thăng chức một lần nữa, và Mỹ Linh tức giận
bỏ sang Hoa Kỳ 14 tháng. Lúc đó bà đã 61 tuổi. Sau khi Mỹ Linh đi Hoa Kỳ được
hai tháng, Tưởng Kinh Quốc được bổ nhiệm chức bộ trưởng không bộ. Mỹ Linh trở
lại Đài Loan và sống tại đó luôn sáu năm nữa.
Năm 1965 Mỹ Linh thăm viếng Hoa Kỳ cùng với Tưởng Kinh Quốc, lúc
đó là bộ trưởng quốc phòng. Người Mỹ muốn quân đội của Tưởng Giới Thạch tham
chiến tại Việt Nam, trong lúc họ Tưởng chỉ muốn người Mỹ hỗ trợ một cuộc đổ bộ
tấn công chiếm lại Trung hoa lục địa. Mỹ từ chối giúp Tưởng vì nghĩ rằng Tưởng
không có hy vọng thắng Trung Cộng, và do đó Tưởng cũng không chịu đem quân sang
tham chiến tại Việt Nam. Năm 1966 Mỹ Linh mua một căn nhà sang trọng tại khu
Manhattan, New York. Sức khoẻ của bà bây giờ rất suy kém, và những chuyến đi
thăm Hoa Kỳ của bà chỉ là để dự tang lễ của thân nhân hoặc là để chữa bệnh.
Trong suốt hàng chục năm, Mỹ Linh vẫn được coi là một trong số
mười người đàn bà nổi tiếng nhất thế giới. Nhưng vinh dự đó chấm dứt năm 1967,
và những tin tức về bà chỉ xuất hiện trên các trang phụ của báo chí Mỹ.
Khổng Tường Hy vẫn tích cực hoạt động về tài chánh khi sang sống
tại Hoa Kỳ. Mãi năm 1966 Khổng Tường Hy mới từ chức giám đốc Ngân hàng Trung
hoa vì sức khỏe suy kém. Tháng 8-1967, Khổng Tường Hy được đưa vào bệnh viện
New York và ngày 15-8 thì từ trần, hưởng thọ 87 tuổi. Sáu năm sau Ái Linh cũng
từ trần theo chồng, hưởng thọ 85 tuổi. Đây là người đàn bà giầu nhất thế giới,
và tài sản của bà do chính tay bà tạo dựng lên.
Cuộc đời lưu đầy của Tống Tử Văn lúc nào cũng đầy hoạt động, cả
chính trị lẫn tài chánh. Tống Tử Văn có nhiều cơ sở thương mại tài chánh lớn,
và lúc nào cũng hoạt động cho quyền lợi chính trị của chế độ Quốc dân đảng. Tuy
vậy Tống Tử Văn không bao giờ dám trở về Đài Loan, mặc dầu nhiều lần được Tưởng
mời. Những đảng viên Quốc dân đảng cao cấp căm thù Tống Tử Văn làm giàu phi
pháp, nhưng cũng không có cách gì trả thù được, trái lại họ rồi cũng chết dần.
Trùm mật vụ Thái Lý chết trong một tai nạn máy bay sau khi cuộc chiến Quốc Cộng
chấm dứt, có lẽ phi cơ bị đặt bom. Kẻ thù thứ nhì của Tống Tử Văn là Trần Quả
Phu thì chết tại Đài Bắc năm 1951, lúc được 60 tuổi. Khi người anh chết, Trần
Lập Phu cũng từ bỏ việc điều khiển mật vụ, và về hưu tại Đài Loan.
Tháng 4-1971, lúc được 77 tuổi, Tống Tử Văn cùng vợ đi thăm San
Francisco một lần nữa để thăm họ hàng và bạn bè. Vào tối ngày 24-4, các bạn bè
cũ tại Ngân hàng Trung hoa mở đại tiệc khoản đãi Tống Tử Văn. Trong bữa dạ tiệc
sang trọng có nhiều món ăn ấy, Tống Tử Văn có vẻ rất vui vẻ hưởng của ngon vật
lạ. Bỗng Tống Tử Văn đang ăn thì chợt ngừng lại, trông có vẻ ngơ ngác, đứng dậy
ho khan rồi gục xuống. Một lát sau Tống Tử Văn tắt thở. Cuộc giải phẫu tử thi
cho biết một miếng đồ ăn mắc kẹt vào ống khí quản khiến Tống Tử Văn bị chết
nghẹn. Tay đại tham nhũng của Quốc dân đảng chết nghẹn vì ăn! Tổng thống Nixon
và ngoại trưởng Kissinger vội đánh điện chia buồn, nhưng điện văn lại gửi cho
Tưởng Giới Thạch và Mỹ Linh.
Trong thời gian này, giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng chưa có quan hệ
ngoại giao chính thức, nhưng Hoa Kỳ đang bí mật thương thuyết với Trung Cộng
trong mưu lược tách Trung Cộng ra khỏi Nga Sộ Tổng thống Nixon gửi điện văn
sang Bắc Kinh, trịnh trọng mời bà Tống Khánh Linh sang Hoa Kỳ tham dự tang lễ
của Tống Tử Văn. Trung Cộng trả lời bức điện văn của tổng thống Nixon như sau:
"Về việc bà Tống Khánh Linh sang Hoa Kỳ dự tang lễ Tống Tử Văn: vì hai
nước Hoa Kỳ và Trung Hoa chưa thiết lập quan hệ ngoại giao nên không có chuyến
bay trực tiếp từ Trung Hoa sang Hoa Kỳ. Chúng tôi đã liên lạc với một công ty
hàng không Anh quốc để bà Tống Khánh Linh sang Luân Đôn trước, sau đó sẽ đi từ
Luân Đôn sang Hoa Kỳ."
Đồng thời tổng thống Nixon cũng nhận được điện văn của bà Tống
Ái Linh cho biết sẽ đến dự tang lễ của em bà. Lúc đó Tống Ái Linh đang sống tại
Hoa Kỳ. Còn Tống Mỹ Linh cũng cho biết sẽ dùng chuyến phi cơ bay thẳng từ Đài
Loan sang Hoa kỳ để tham dự tang lễ của người anh ruột. Tổng thống Nixon tin
tưởng cả ba chị em nhà họ Tống đang trên đường sang Hoa Kỳ, và ông dự định lợi
dụng cơ hội ba chị em nhà họ Tống hội ngộ nhau để thúc đẩy công việc bang giao
với Trung Cộng.
Nhưng khi Tống Mỹ Linh dừng chặng đầu tiên tại phi trường
Honolulu, thì bà nhận được một điện tín của Tưởng Giới Thạch như sau: "Bà
đang rơi vào cái thòng lọng của Trung Cộng. Hãy dừng ngay việc sang Mỹ dự tang
lễ Tống Tử Văn." Ngày hôm sau gia đình Tống Tử Văn nhận được điện thoại
của Tống Ái Linh cho biết Tống Ái Linh quyết định không tham dự tang lễ của Tống
Tử Văn nữa. Tổng thống Nixon liền đánh điện cho Tưởng Giới Thạch xác nhận việc
tang lễ của Tống Tử Văn là vấn đề riêng tư của gia đình nhà họ Tống, và không
liên quan gì đến Trung Cộng.
Hai ngày nữa trôi qua, Tống Mỹ Linh vẫn ở lại Honolulu, và không
có ý định tiếp tục cuộc hành trình nữa. Khi chỉ còn một ngày trước lễ an táng
của Tống Tử Văn, chính phủ Hoa Kỳ nhận được điện văn của Trung Cộng cho biết
không thuê được chuyến bay thẳng, nên bà Tống Khánh Linh không sang Hoa Kỳ
được. Nixon chỉ biết thở dài và thông báo cho Tưởng Giới Thạch biết không có bà
Tống Khánh Linh trong tang lễ, và đề nghị hai bà Tống Ái Linh và Tống Mỹ Linh
hãy vì tình ruột thịt mà sớm đến dự tang lễ của người thân.
Mọi cố gắng của tổng thống Nixon đều thất bại. Tống Mỹ Linh sợ
mắc bẫy vào ý đồ chính trị của Trung Cộng nên quay trở về Đài Loan. Tống Ái
Linh cũng do dự không dám quyết định. Gia đình Tống Tử Văn vẫn mong đợi, cố kéo
dài thêm nửa ngày nữa, hy vọng các chị em sẽ tới. Cuối cùng tang lễ của Tống Tử
Văn phải cử hành mà không có sự tham dự của ba chị em nhà họ Tống. Tổng thống
Nixon phải thốt lên: "Mối quan hệ của chị em nhà họ Tống tế nhị đến mức
không sao hiểu nổi." Các báo chí New York loan tin Tống Tử Văn chết đi chỉ
để lại gia tài một triệu đô la, chia cho vợ và các con. Bản tin này làm nhiều
người tại các thủ đô tài chánh trên thế giới phải mỉm cười.
Ngày 5-4-1975, Tưởng Giới Thạch từ trần, hưởng thọ 87 tuổi. Ba
tuần lễ sau, Tưởng Kinh Quốc lúc đó đã là thủ tướng, trở thành chủ tịch Quốc
dân đảng và tổng thống Đài Loan. Mỹ Linh bị loại ra ngoài chính trường và bà
trở lại cuộc sống lưu vong tại Hoa Kỳ. Mỹ Linh sống âm thầm tại khu dinh thự
của Khổng Lệnh Kiệt, và chỉ có vệ sĩ mới vào được khu vực bà cư ngụ. Mỹ Linh
sống một cuộc đời âm thầm lặng lẽ tại Hoa Kỳ cho tới năm 1986 thì trở về Đài
Loan. Trong những năm cuối của tuổi già, Mỹ Linh khi thì sống tại Đài Loan, khi
thì tại Hoa Kỳ. Hiển nhiên bà là người thọ nhất trong ba chị em nhà họ Tống.
CHƯƠNG 20: NGƯỜI Ở LẠI TRUNG HOA
Gia đình nhà họ Tống vẫn còn một người ở lại Trung hoa. Đó là bà
Tống Khánh Linh, góa phụ của Tôn Dật Tiên. Bà thù ghét phe Tưởng Giới Thạch đến
nỗi không chịu theo gia đình ra ngoại quốc hoặc Đài Loan. Chị em bà hầu hết
lánh nạn tại Hoa Kỳ; người con chồng của bà là Tôn Khoa thì sang Pháp. Tháng 5-1949,
quân cộng sản tiến vào Thượng Hải thì bà quyết định ở lại. Mao Trạch Đông và
Chu Ân Lai gửi thư riêng cho bà, mời bà lên Bắc Kinh tham dự lễ tuyên cáo thành
lập tân chế độ. Thoạt đầu bà Khánh Linh từ chối, lấy lý do Bắc Kinh là nơi gợi
cho bà những kỷ niệm buồn vì chồng bà chết tại đó. Cuối cùng chính quyền cộng
sản phải cử bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, thân hành xuống tận Thưởng
Hải mời bà. Lúc đó bà mới nhận lời. Bà dùng xe lửa đi Bắc Kinh. Khi xe lửa của
bà tới Bắc Kinh, bà được đông đủ lãnh tụ cộng sản cao cấp nhất ra tận sân ga
đón chào, gồm có cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức và nhiều
người khác.
Ngày 1-10-1949, Bà đứng cạnh Mao Trạch Đông tại khán đài trên
Thiên An Môn để nghe Mao Trạch Đông tuyên cáo thành lập nước Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa, và chứng kiến hàng triệu người diễn hành. Lúc đó bà đã 57 tuổi.
Phe cộng sản phải trọng vọng biệt đãi bà Tống Khánh Linh, và mời
bà lên khán đài Thiên An Môn mặc dù bà không phải là một đảng viên cộng sản, vì
bà có một uy tín rất lớn trước quảng đại quần chúng Trung hoa. Người Trung hoa
vẫn tôn kính chồng bà là Tôn Dật Tiên. Kể từ lúc Tôn Dật Tiên chết, bà được coi
là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng của chồng bà và của Trung hoa. Quần chúng
càng ngưỡng mộ bà hơn khi bà tỏ ra thù ghét chế độ Quốc dân đảng thối nát do
Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Bà không bao giờ hùa theo phe Tưởng để phe Tưởng có
thể lạm dụng uy tín chính trị của bà. Không những thế, trong những năm cuối
cùng của phe Tưởng tại Trùng Khánh, bà hầu như bị giam lỏng tại gia.
Khi cuộc nội chiến Quốc Cộng chấm dứt, Khánh Linh trở về sống
tại căn nhà cũ tại Thượng Hải. Khi chính phủ Trung cộng thành lập, bà được mời
làm phó chủ tịch chính phủ tại Bắc Kinh, một chức vụ tượng trưng, hữu danh vô
thực, vì cộng sản đang cần đến uy tín của bà. Căn nhà bà từng sống chung với
Tôn Dật Tiên trên đường Molière tại Thượng Hải được biến thành một thánh tích
quốc gia. Bà dọn về căn nhà cũ của thân phụ. Trong chính quyền Trung cộng, bà
chỉ quý mến thân thiện với Chu Ân Lai. Bà chỉ gặp Mao Trạch Đông một vài lần,
nhưng thường cố ý tránh né. Năm 1960 bà bị bệnh ung thư bạch huyết và sống bệnh
tật trong hai mươi năm cuối cuộc đời bà.
Năm 1950 cuộc chiến tại Triều Tiên bùng nổ. Trung Cộng cho rằng
Mỹ muốn dùng Triều Tiên như một bàn đạp để xâm chiếm Trung hoa cho phe Tưởng
Giới Thạch, nên tung mấy triệu chí nguyện quân sang chiến đấu giúp Bắc Triều
Tiên. Bà Khánh Linh kịch liệt tố cáo Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến tại Triều
Tiên, và bà nỗ lực tranh đấu cho hòa bình thế giới. Năm 1951 bà được trao tặng
giải Hòa Bình Stalin. Tháng 12-1952, bà lãnh đạo một phái đoàn Trung cộng tham
dự Hội Nghị Hòa Bình Các Dân Tộc tại thủ đô nước Áo, tại đó bà ngồi ghế chủ tọa
cùng với những nhân vật nổi tiếng thế giới. Bà tố cáo Hoa Kỳ dùng chiến tranh
vi trùng tại Triều Tiên. Vào giữa tháng 1-1953, trên đường về nước, bà ghé qua
Mạc tư khoa, và là người khách ngoại quốc cuối cùng gặp Stalin trước khi Stalin
chết.
Kể từ năm 1950, bà Khánh Linh dấn thân vào các hoạt động bảo vệ
thiếu nhị Bà bị xẩy thai đứa con duy nhất của bà năm 1922, bây giờ bà dành tất
cả tình thương cho mọi trẻ con trong xã hội. Địa vị của Khánh Linh vượt quá cả
cái giới hạn tượng trưng mà người cộng sản dành cho bà. Năm 1957, khi Mao Trạch
Đông đi Mạc tư khoa tham dự Hội nghị Cộng đảng Quốc tế, Mao mời bà Khánh Linh
làm một thành viên của phái đoàn Trung cộng. Mao Trạch Đông mời bà ngồi cạnh
khi Mao ký bản tuyên ngôn vào lúc bế mạc hội nghị. Là một người vừa lôi cuốn,
khôn khéo và tận tình dâng hiến cho phúc lợi của quần chúng, bà Khánh Linh đã
biểu tượng cho những hình ảnh đẹp nhất cho Trung hoa. Bà đã tham dự nhiều
chuyến du hành thiện chí trên thế giới và đã tạo được những ấn tượng rất thuận
lợi. Tại thủ đô Ấn Độ năm 1955, thủ tướng Nehru đã nói về Khánh Linh:
"Trong những năm vừa qua, dù Trung Hoa trải qua bất cứ cơn bão tố nào,
niềm tin của bà Tống Khánh Linh không bao giờ lung laỵ Bao giờ bà cũng lên
tiếng cho hòa bình."
Người cộng sản cũng biết ơn sự ủng hộ của bà Khánh Linh, và đã
cung cấp cho bà một cuộc sống sang trọng. Nhà riêng của bà tại Bắc Kinh là một
dinh thự bên trong Cấm Thành, nơi trước kia vua Phổ Nghi của nhà Thanh chào
đời. Bà cũng được cung cấp một số đông đảo gia nhân. Chính cái dinh thự sang
trọng dành cho bà đã khiến bà bị chỉ trích đã sống một đời xa hoa trong khi quần
chúng mỗi gia đình chỉ có một phòng ngủ. Thực ra bà không có một lương tâm phạm
tội. Nếu bà chọn lựa con đường vật chất tiền tài thì bà có thể sống sang trọng
gấp trăm lần như thế, như các chị em của bà. Nhưng bà từ chối mọi của cải vật
chất, và chỉ sống một cuộc đời thanh đạm. Bà coi của cải và sự hoang phí của
quá khứ là kết quả của sự khai thác bóc lột. Chính vì thế bà thích sống trong
căn nhà cũ của thân phụ tại Thượng Hải hơn là cái dinh thự nguy nga đồ sộ dành
cho bà tại Bắc Kinh.
Có một người quyền lực tại Bắc Kinh thù ghét bà Khánh Linh. Đó
là Giang Thanh, vợ cuối cùng của Mao Trạch Đông. Giang Thanh rất căm giận khi
Khánh Linh được coi là người phụ nữ số một của Trung hoa. Giang Thanh nghĩ rằng
địa vị ấy phải là của mình. Năm 1966, khi Giang Thanh phát động cuộc Cách mạng
Văn hóa, thì một trong những nạn nhân đầu tiên của Giang Thanh là bà Khánh
Linh. Năm đó bà Khánh Linh đã 73 tuổi. Thoạt đầu một người vệ sĩ của bà chết
một cách bí mật. Hồng vệ binh của Giang Thanh trương biểu ngữ tố cáo Khánh Linh
là tư sản phản động, vì bà rất yêu thích những nghệ phẩm đẹp, vẫn để tóc dài và
không chịu gia nhập đảng cộng sản. Trước đó chính quyền cộng sản cho xây một
ngôi đền thờ Tôn Dật Tiên tại nơi sinh quán của Tôn Dật Tiên. Bây giờ đền thờ
này bị Hồng vệ binh đập phá san bằng. Hồng vệ binh tố cáo Tôn Dật Tiên làm một
cuộc cách mạng tiểu tư sản. Cuối năm 1966, mộ của song thân bà bị khai quật
lên, và Hồng vệ binh gán cho vợ chồng Tống Giáo Nhân là đầu sỏ của một gia đình
độc ác, đã sinh sản ra những kẻ thù của nhân dân. Bà Khánh Linh rất đau lòng
khi mộ của cha mẹ bị khai quật xúc phạm đến như thế.
Một ngày tháng 9-1966, Hồng vệ binh Thượng Hải tràn vào nhà bà
Khánh Linh để đập phá đồ đạc và cướp đồ. Chúng định cắt mớ tóc dài của bà. May
mắn lúc đó bà không có nhà, nhưng bà không khỏi kinh hoàng và cảm thấy có thể
bị làn sóng đỏ tràn ngập. Chu Ân Lai được tin bà bị tấn công, vội vàng đứng ra
can thiệp, cảnh cáo Hồng vệ binh không được đụng chạm tới bà. Chu Ân Lai ra
nghiêm lệnh: "Tuyệt đối không được đụng chạm tới đồng chí Tống Khánh
Linh." Ngôi mộ của song thân bà được trùng tu lại, và quân đội được phái
tới canh gác tư thất của bà và ngôi mộ của song thân bà. Chu Ân Lai đã hết sức
bảo vệ bà Khánh Linh. Trong buổi lễ kỷ niệm sinh nhật của Tôn Dật Tiên ngày 12-11-1966,
Chu Ân Lai phải trích dẫn những bài diễn văn dài của Mao Trạch Đông ca ngợi Tôn
Dật Tiên năm 1956, khi Mao xác nhận vai trò lịch sử quan trọng của Tôn Dật
Tiên. Nhờ thế Giang Thanh mới chịu bỏ qua và để bà Khánh Linh được yên thân.
Tuy bà Khánh Linh không còn bị xúc phạm trực tiếp nữa, nhưng bà
vẫn sống trong sự bất ổn và lo sợ. Bà sống trong một tình trạng căng thẳng,
không dám đi ra khỏi nhà và cũng không dám tiếp khách. Mọi hoạt động của bà
ngừng hẳn. Nhiều người bà con bên ngoại của bà bị Hồng vệ binh tấn công vì tội
có thân nhân ở ngoại quốc. Bà Khánh Linh bất lực không thể cứu giúp gia đình họ
hàng được. Nhưng bà cương quyết bênh vực lý tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên.
Bà cũng vẫn tìm cách bênh vực giúp đỡ những đảng viên cộng sản bị Giang Thanh hành
hạ. Khi bà Vương Quang Mỹ, vợ của Lưu Thiếu Kỳ, bị tống giam vào ngục tối,
chính bà Khánh Linh đã tìm cách giúp các con của Vương Quang Mỹ được vào thăm
mẹ. Nhưng cũng phải sáu năm sau, mãi đến năm 1972, các con của Vương Quang Mỹ
mới được gặp lại mẹ. Vương Quang Mỹ là một tuyệt thế giai nhân, thế mà chỉ mấy
năm nằm trong tù của Giang Thanh, Vương Quang Mỹ đã trở thành một người khác
hẳn, yếu đến nỗi không thể đứng dậy được, tóc rụng gần hết và ho khạc ra máu.
Năm 1966, khi địa vị của Mao Trạch Đông được đưa lên ngang hàng
với thần thánh, và tiền nhân bị chê bai, thì bà đọc một bài diễn văn rất dài
trong buổi lễ kỷ niệm Tôn Dật Tiên. Bà trình bày rất chi tiết mọi hoạt động
cách mạng của Tôn Dật Tiên. Bài diễn văn của bà năm đó không có những khẩu hiệu
cuối diễn văn: "Vạn tuế đại lãnh tụ Mao chủ tịch!" như thường lệ.
Cuộc đời bà sống với cộng sản thực ra cũng chỉ là một thứ đi đầy trong sự hào
nhoáng bề ngoài. Bà không khỏi đau lòng khi thấy tên em gái là Tống Mỹ Linh bị
coi là tội phạm chiến tranh số một tại Trung Cộng, và gia đình nhà họ Tống bị
coi là một trong bốn gia đình tội ác nhất Trung hoa.
Khánh Linh đã có một đời góa phụ dài nhất, suốt 56 năm kể từ năm
1925 khi Tôn Dật Tiên từ trần và bà còn rất trẻ, mới chỉ có 32 tuổi, cái tuổi
đẹp nhất của một người đàn bà. Bà có rất nhiều người ái mộ, cả người Trung hoa
và người ngoại quốc. Thủ tướng Nehru của Ấn Độ gặp bà năm 1927 tại Mạc tư khoa
đã vô cùng say mê bà. Về sau này trong phòng làm việc của Nehru lúc nào cũng có
treo hai tấm hình đàn bà, một tấm là hình của người vợ đã chết và một tấm là
hình của Khánh Linh.
Ngoài Nehru ra còn nhiều ký giả ngoại quốc cũng say mê bà sau
khi gặp bà. Sau này người ta đồn rằng bà có một mối tình khác đối với người thư
ký riêng của bà, nhưng chuyện đó có thể là sản phẩm tưởng tượng của Giang Thanh
nhằm hạ uy tín của bà. Người Trung hoa thương xót bà phải sống cảnh góa bụa khi
còn rất trẻ, nhưng họ cũng không muốn bà kết hôn một lần nữa. Họ muốn bà là một
hình ảnh đẹp vĩnh hằng. Thực ra Khánh Linh lúc nào cũng thận trọng giữ gìn
tiếng thơm của bà. Bà không phải chỉ là một góa phụ thủ tiết thờ chồng đã chết,
và cũng không phải chỉ là một góa phụ đạo đức bảo vệ danh tiếng trong sạch của
mình. Đúng ra bà đã kết hôn với lý tưởng của bà, và không muốn làm nguy hại đến
những lý tưởng đó để kẻ thù có thể làm ô nhục bà.
Khánh Linh không có con. Bà bị xảy thai một lần trong lúc phải
chạy trốn khi dinh tổng thống tại Quảng Châu bị quân phản loạn của Trần Quýnh
Minh tấn công. Trong những năm cuối cùng của bà, Khánh Linh để hết tâm trí chăm
sóc hai người con gái nuôi. Khi phong trào Hồng vệ binh tan rã, và Giang Thanh
bị bắt, cuộc đời bà lại trở lại bình lặng. Lần xuất hiện cuối cùng của bà trước
công chúng là ngày 8-5-1981, khi bà nhận bằng tiến sĩ luật khoa danh dự tại đại
học Victoria, Gia Nã Đại.
Khánh Linh ủng hộ đường lối kinh tế thực nghiệm của Đặng Tiểu
Bình. Khi nhóm Giang Thanh bị bắt, và Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền, bà đã
hết sức vui mừng và viết trong bài "Ý Chí Nhân Dân Nhất Định Thắng":
"Hôm nay tôi đã ngoài 80 tuổi. Nhưng khi tôi được chứng kiến con tàu của
nước Tân Trung Hoa đi đúng đường sau khi suýt bị lật chìm, và bây giờ đang
thẳng tiến một cách huy hoàng, vượt qua được mọi sóng gió, thì không lời nào
diễn tả hết được niềm vui và hạnh phúc của tôi. Bây giờ chúng ta lại có hy vọng
cho Trung Hoạ"
Ngày 16-5-1981, bà Khánh Linh được Trung Cộng phong chức Tổng
thống Danh dự của Trung cộng. Và tuần lễ sau đó bà bị bắt buộc gia nhập đảng
cộng sản Trung hoa. Nhưng thực ra lúc ấy Khánh Linh không biết gì về việc được
bầu làm tổng thống và việc gia nhập đảng cộng sản, vì bà đã hôn mê vì bệnh ung
thư rồi. Ngày 19-5-1981, bà từ trần tại Bắc Kinh, hưởng thọ 88 tuổi. Các lãnh
tụ lớn của Trung cộng như Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đặng Dĩnh Siêu... đã
tới nghiêng mình trước giường chết của bà.
Bà Khánh Linh để lại chúc thư xin được chôn cất tại Thượng Hải,
bên cạnh mộ phần của song thân, mặc dù khi còn sống, thân phụ bà là Tống Giáo
Nhân đã từ bà khi bà nhất quyết kết hôn với Tôn Dật Tiên. Bà không muốn được
chôn bên cạnh mộ chồng. Bà muốn chứng tỏ rằng bà cũng là một chiến sĩ độc lập
tranh đấu cho đất nước Trung hoa, chứ không phải chỉ là một cái bóng mờ bên
cạnh Tôn Dật Tiên.
Bà Khánh Linh tận tụy suốt cuộc đời cho lý tưởng yêu mến nước
Trung hoa của bà. Bà đã đạt được mục đích ấy khi cả nước Trung hoa kính trọng
biết ơn bà, và bà là người đã làm rạng danh nhà họ Tống. Bà Tống Khánh Linh quả
thực là một người phụ nữ vĩ đại nhất của Trung hoa trong thế kỷ 20. Hai người
chị và em của bà là Ái Linh và Mỹ Linh cũng thỏa mãn được chí nguyện của họ. Ái
Linh đã thành công về tiền bạc và là người giầu nhất nước Trung hoa. Mỹ Linh
cũng đã trở thành người đàn bà uy quyền nhất Trung hoa trong địa vị một tổng
thống phu nhân, vợ của nhà độc tài quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Người Trung hoa
đã nhận xét rất đúng về ba chị em nhà họ Tống, khi họ nói: "Trong ba chị
em nhà họ Tống thì một người yêu tiền, một người yêu quyền và một người yêu
nước Trung Hoạ"
Hết
No comments:
Post a Comment