Tuesday, November 19, 2013

NHÂN VĂN GIAI PHẨM - THỤY KHUÊ - KỲ 10


CHƯƠNG 17
HỘI ĐỒNG BÀO THÂN ÁI
PHONG TRÀO ÁI QUỐC ĐẦU TIÊN TẠI PHÁP

● Phan Văn Trường thành lập hội Đồng Bào Thân Ái
Về sự thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái - La Fraternité des Compatriotes, Phan Văn Trường viết: "Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học từ năm 1910], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập Hội Ái Hữu Sinh Viên An Nam tại Pháp - Association amicale des étudiants annamites en France.
Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp đã có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay"[1].
Tuy nói vậy, nhưng rồi ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản Điều lệ và một bài quảng cáo dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái - La Fraternité. Hội có mục đích:
1/ Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn.
2/ Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp"[2].
Bản Điều lệ của Hội được Lê Thị Kinh tìm thấy, dịch và đưa vào "Phan Châu Trinh Qua Các Tài Liệu Mới[3]. Ở dưới có ghi: "Dịch nguyên văn từ quốc ngữ ra tiếng Pháp. Lorin, giáo viên dạy tiếng An Nam Trường Thuộc Địa",nhưng bà không tìm thấy bản quốc ngữ. Điều này dễ hiểu, vì Phan Văn Trường, bản tính thận trọng, viết bản điều lệ bằng tiếng Pháp, nhưng đề tên Lorin dịch, nên không hề có bản tiếng Việt. Lê Thị Kinh tìm thấy một số tư liệu quý về Phan Văn Trường và Hội Đồng Bào Thân Ái, mà có lẽ lúc còn sống chính ông Phan cũng không biết.
Về ngày lập hội, Phan Văn Trường ghi trong hồi ký: "Tôi chưa bao giờ gặp ông (Trinh) ở trong nước. Tôi quen biết ông tại Paris năm 1912"[4]. Ông Trường nói vì đồng bào thúc đẩy nên ông mới đứng ra lập hội, viết bản điều lệ và đặt tên làThân Ái nhưng ông không ghi rõ ngày tháng việc này. Albert Sarraut xác định chủ tịch là Phan Văn Trường. Và trong bản Điều lệ, khoản 1, ghi: "Nay thành lập một Hội của người nước Nam có tên gọi Hội "Đồng Bào Thân Ái". Trụ sở của hội tạm thời đặt ở nhà của vị chủ tịch".
Rất may Lê Thị Kinh tìm được mật báo đầu tiên về cuộc họp ở trường Parangon ngày 18/1/1912 về Hội Ái Hữu Đông Dương - Société de Secours Mutuels Indochinoise, trong có câu: "Sau đám tang của Dang [Đang?], ông Trinh và và những người cùng đi đã mời tất cả người Đông Dương đến họp nghe nói chuyện tại Parangon. Đó là một cuộc mời họp đột xuất. Ông Trinh cùng một người tôi không biết rõ tên đã nói trước tiên"[5].
Điều này ăn khớp với những gì Phan Văn Trường viết trong hồi ký: Sau đám tang một học sinh Parangon, một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái Hữu Sinh Viên An Nam tại Pháp. Tóm lại, ngày 18/1/1912 là buổi họp đầu tiên tại trường Parangon có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường tham dự[6]. Buổi họp này, vì chưa có hội, nên chưa có tên, mỗi người đưa ra một tên như: Ái Hữu Sinh Viên, Ái Hữu Đông Dương, Hội Tương Tế... Chỉ sau khi Phan Văn Trường đã viết xong bản điều lệ và đặt tên là Thân Ái-La Fraternité gửi cho Bộ Thuộc Địa, thì mới chính thức có Hội Đồng Bào Thân Ái.
 Phan Văn Trường viết: "Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận"[7].
 Bản Lý lịch Phan Văn Trường của sở Mật Thám ngày 19/12/1919 viết: "Năm 1912, y lập Hội Tương Tế lấy tên là Đồng Bào Thân Ái, chỉ gồm toàn người Đông Dương. Hội này chưa bao giờ khai báo với cảnh sát, không có trụ sở và thường hội họp ở các phòng trong của các tiệm cà phê, nhất là tiệm ăn Tầu ở 183 Đại lộ Montparnasse. Hội này hình như đã bị giải tán vào tháng bẩy năm 1913 (?)"[8]
Hội Đồng Bào Thân Ái là tế bào đầu tiên của người Việt yêu nước tại Pháp. Lúc đó có Bùi Kỷ, đang học trường Thuộc Địa, làm thư ký và Khánh Ký doanh nhân làm thủ quỹ.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo đầu tiên của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt năm 1914.
Cùng với việc lập Hội Đồng Bào Thân Ái, trong tháng 4/1912, Phan Văn Trường giúp Phan Châu Trinh viết lại bản điều trần Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký[9] sang tiếng Pháp gửi cho Hội Nhân Quyền. Trong hồi ký, ông nhắc đến văn bản này nhiều lần nhưng chỉ nhẹ nhàng nói rằng ông giúp Phan Châu Trinh đưa bản điều trần lên Hội Nhân Quyền.
Về văn bản này, Lê Thị Kinh mới đầu cũng nghĩ là Phan Văn Trrường viết, nhưng sau bà lại dẫn ý kiến Hémery cho rằng đây là một "công trình tập thể",được ông De Pressensé, chủ tịch Hội Nhân Quyền duyệt lại trước khi gửi cho bộ trưởng Thuộc Địa. Chúng tôi không đồng ý với ông Hémery, bởi vì dấu ấn Phan Văn Trường quá rõ, không thể là "tập thể" được, ngoài bút pháp mà Roux và Babut không thể sánh, còn có những điểm sau:
1/ Bỏ hẳn giọng hạ mình đối với chính quyền Pháp của Phan Châu Trinh.
2/ Xưng nước mình là Đế Quốc An Nam, ngôn ngữ tự hào dân tộc, sẽ thấy lại trong bản Thỉnh Nguyện Thư Tám Điểm 1919.
3/ Vô tình xưng mình quê ở huyện Hà Đông - trong khi Phan Châu Trinh quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Phan Văn Trường mới quê ở Hà Đông.
4/ Lối lập ngôn "Xét rằng" cao kỳ của một nhà luật học, phù hợp với ngôn ngữ trong bản tuyên ngôn nhân quyền.
Phan Văn Trường có đủ thẩm quyền hơn nhiều người khác về sự thận trọng, tài lập luận và dùng chữ; chỉ cần đọc những thư hoặc thư ngỏ ông viết cho toàn quyền, bộ trưởng, dân biểu... để bắt bẻ, thì thấy khả năng bút pháp của ông.
Bản điều trần đăng trên Báo của Hội Nhân Quyền và Dân Quyền - Bulletin de la Ligue des droits de l'homme et du citoyen số 20 ngày 31/10/1912. Và được ông chủ tịch hội Nhân Quyền chuyển đến Bộ Thuộc Địa ngày 25/9/1912. Đầu năm 1913, Albert Sarraut phải nhượng bộ, hứa thả dần tù nhân vụ Trung Kỳ dân biến.
 Toàn quyền Albert Sarraut gửi lá thư thứ nhất cho bộ trưởng Thuộc Địa về Hội Đồng Bào Thân Ái ngày 24/4/1912. Lá thư mở đầu bằng câu: "Theo điện số 1152 (V.P. Bộ Trưởng) Ngài đã chuyển cho tôi bản điều lệ của Hội Đồng Bào Thân Ái do những người An Nam ở Pháp thành lập. Chủ tịch là Phan Văn Trường, phụ giảng ở trường Ngôn Ngữ Đông Phương". Và kết thúc bằng câu:"Cần đề phòng ảnh hưởng của Phan Văn Trường, người có kiến thức rất uyên bác nhưng tự phụ, hay sinh sự và muốn có uy tín trong đồng bào mình ở Pháp và ở Đông Dương. Đồng Bào Thân Ái sẽ thành một Câu Lạc Bộ để trao đổi những cảm tưởng và ý nghĩ bất lợi cho sự thống trị của chúng ta, sẽ thảo luận các vấn đề chính trị nhiều hơn là những lợi ích vật chất và tinh thần của Hội. Tôi nghĩ cần phải theo dõi kỹ hành động của Hội này và mong ngài sẽ có những chỉ thị cần thiết cho việc đó"[10].
Toàn quyền Albert Sarraut viết lá thư thứ hai cho bộ trưởng Thuộc Địa ngày 5/7/1912, tỏ rõ ý lo ngại hơn về Hội Đồng Bào Thân Ái, Sarraut nhấn mạnh: "Tôi đã yêu cầu ngài hạ lệnh theo dõi hoạt động của các thành viên, đặc biệt là Phan Văn Trường, chủ tịch Hội"[11].
Và lần này có kết quả: Để trừng trị, Bộ Thuộc Địa ra lệnh cho hiệu trưởng trường Sinh Ngữ Đông Phương phải sa thải Phan Văn Trường.
Nhưng sự trừng phạt không dừng ở đó. Albert Sarraut lo ngại hai ông Phan dùng hội Đồng Bào Thân Ái để liên lạc với các tổ chức chống Pháp ở trong nước, đặc biệt Phan Châu Trinh liên lạc với Lương Văn Can và Phan Văn Trường với 5 anh em ông[12], một gia đình nổi tiếng nhiều nhân tài ở đất Bắc, khiến Nguyễn Văn Vĩnh viết: "Nếu nước An Nam chúng ta có độ mươi gia đình như gia đình này, thì chúng ta sẽ có đủ nhân tài để bố trí làm tất cả những công việc cần thiết"[13].
Lợi dụng việc Quang Phục Hội của Phan Bội Châu ném bom giết chết hai sĩ quan Pháp tại một quán cà phê ở Hà Nội tháng 4/1913, mật thám bắt người anh cả của ông Trường là Phan Tuấn Phong và con trai 13 tuổi là Phan Trắc Cư. Khám nhà em ông là Phan Trọng Kiên, tìm được thư của ông Trường, trong có câu:"Mong nước mình rồi sẽ có ngày 14/7", tức là ngày cách mạng Pháp phá ngục Bastille năm 1789. Hai anh em bị kết án chung thân biệt xứ vì "tội đã giết quan tư[14] Chapuis và Montgrand", tại Hà Nội[15]. Cha con ông Phong và ông Kiên bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.

Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường được mời diễn thuyết tại trường Cao Đẳng Xã Hội, Albert Sarraut lại can thiệp với Bộ Thuộc Địa, không cho Phan Văn Trường nói, nhưng không thành - các trường lớn và các đại học rất ghét sự can thiệp của chính quyền. Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài: Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ. Lần đầu tiên ông chính thức dùng chữ Les revendications - thỉnh nguyện, đòi hỏi, về sau chữ này sẽ trở lại vớiBản Thỉnh Nguyện Tám Điểm, năm 1919.
Tiếp theo đó là vụ bắt Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, tù từ tháng 9/1914 đến tháng 7/1915. Theo một mật báo thì Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán năm 1916[16].
Nhóm Người An Nam Yêu Nước ra đời.

● André Salles, con bài của Bộ Thuộc Địa để trừ khử Phan Văn Trường và Hội Đồng Bào Thân Ái
André Salles, thanh tra thuộc địa về hưu, mạnh cánh trong Bộ Thuộc Địa, là Bí thư - Secrétaire- của Ủy Ban Paul Bert trực thuộc Alliances Françaises- Liên Minh Pháp Ngữ, cơ quan truyền bá tiếng Pháp ở nước ngoài. Uỷ Ban Paul Bert có nhiệm vụ kiểm soát du học sinh đến từ thuộc địa. Học sinh đến Pháp được Salles đưa vào trường Parangon, một trường tiểu học tư ở Joinville le Pont, ngoại ô Paris, do Salles đỡ đầu, để dễ kiểm soát. Salles cực lực chống việc cho Phan Châu Dật vào trường Parangon, mặc dù lúc đầu y cũng tỏ vẻ "nâng đỡ" Phan Châu Trinh. Học sinh nào tỏ dấu hiệu khó bảo thì cha mẹ sẽ bị trừng trị. Ngay từ lúc mới sang, Phan Văn Trường đã được Salles mời đến gặp, chủ ý muốn "thu phục",nhưng thái độ của Phan Văn Trường lơ là, Salles đem lòng thù oán. Y tiếp tục theo dõi, coi hai ông Phan là phần tử xấu, ảnh hưởng đến học sinh, reo rắc mầm mống nổi loạn.
 Trong một bản mật báo gửi Arnoux, một trong những xếp mật thám ở bộ Thuộc Địa, Salles viết: "Nghỉ hè năm 1910, khi gặp tại Ngân khố một trong các trẻ thơ đỡ đầu của chúng tôi mới 17 tuổi, đến nay vẫn chưa tốt nghiệp trung học, y (tức Phan Văn Trường) đã nói: "Chúng ta là những nô lệ, vì vậy tôi sẽ xin nhập quốc tịch Pháp". Sau đó, y đưa cho nó một danh mục sách bảo nên mua đọc:
- Dân ước của Rousseau.
- Thực chất luật pháp (tức Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu.
- Thử bàn về sử (Khảo luận sử học) của Chateaubriand (...) hành động của Trường đúng là chứng tỏ cách làm của lãnh đạo Hội Đồng Bào. (...) "Học vấn cao và đúng hướng sẽ nẩy sinh tư tưởng cách mạng", đó là chủ trương của Hội Đồng Bào. (...) Hội Đồng Bào năm 1912 có vẻ muốn nối tiếp truyền thống của Hội Đồng Bào năm 1908 ở Trung Kỳ (...) Chủ trương mới này mang tính lâu dài hơn nhưng còn khôn khéo hơn nhiều, có thể tóm tắt như sau: "Nấp dưới luật pháp của Pháp để chống chính sách của Pháp ở Đông Dương"[17].
 Được hỏi về việc này, Phan Văn Trường trả lời vắn tắt: Tưởng cứ đọc Dân Ước thì làm cách mạng được à, sao dễ thế! Nhưng những việc Salles tố giác không "oan": Nguyễn Thế Truyền là một trường hợp điển hình, có thể coi là môn đệ của Phan. Phan Văn Trường lại tỏ thái độ rất coi thường Salles, khiến y càng tức tối, tìm hết cách để triệt hạ ông và Hội Đồng Bào Thân Ái. André Salles là đầu mối các việc: Phan Văn Trường mất chức giảng dạy ở trường Sinh Ngữ, thay bằng Cao Đắc Minh, tay chân của Salles. Anh, em ông Trường ở Hà Nội bị bắt và bị đi đầy. Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt.
Đến tháng 2/1916, André Salles viết đơn yêu cầu mở lại vụ án, đòi đuổi Phan Văn Trường khỏi Công Binh Xưởng Toulouse. Nhưng sau lá thư trả lời dứt khoát của Bộ Quốc Phòng ngày 13/3/1916, từ chối việc thuyên chuyển ông Trường, André Salles bị mất chức bí thư Uỷ Ban Paul Bert, thay thế bằng Lorin là người đã ký tên dịch bản điều lệ Hội Đồng Bào Thân Ái của Phan Văn Trường.

● Nhóm An Nam Yêu Nước
Sự xuất hiện bút hiệu Nguyễn Ái Quấc.
Nếu Hội Đồng Bào Thân Ái ra đời một cách chính thức, có điều lệ nội quy gửi lên Bộ Thuộc Địa để xin phép, thì Nhóm An Nam Yêu Nước là một tổ chức không chính thức, không là Hội - Association mà chỉ là Nhóm- Groupe.
Hémery cho rằng: "Nhóm nhỏ Người An Nam Yêu Nước do Trinh và Trường lập năm 1918. Một thứ "cộng đồng" nhiều nhất độ 15 người ở nhà Phan Văn Trường số 6 Villa des Gobelins"[18]. Câu này có chỗ sai: Năm 1918, Phan Văn Trường đang ở Toulouse, chưa ở nhà số 6 Villa des Gobelins. Nhưng rất có thể nhóm này đã hình thành từ khi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền ở Toulouse.
Phan Văn Trường để ý đến Nguyễn Thế Truyền từ khi Truyền còn là học sinh trường Parangon. Hai người về sau lại cùng sống ở Toulouse từ 1916 đến 1919: Phan Văn Trường, tại ngũ, làm thông ngôn cho lính thợ và Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Song (em), Nguyễn Thế Phu (chú), Nguyễn Thế Tắc (em họ), đều là sinh viên ở Toulouse từ 1916 trở đi, và đều trở thành những nhà cách mạng trong nhóm Nguyễn Thế Truyền.
 Hémery nói đến năm 1918, vì 1918 tên Nguyễn Ái Quốc/Quấc xuất hiện trên báo, nhưng chắc nhóm An Nam Yêu Nước đã hoạt động tại Toulouse từ 1916.
Sau khi Phan Văn Trường ra tù, được gửi về Công Binh Xưởng Toulouse, André Salles vẫn ngấm ngầm vận động mở lại vụ án, đòi chuyển Phan Văn Trường khỏi Toulouse, nhưng giám đốc Công Binh Xưởng trả lời: Phan Văn Trường có thái độ đúng đắn, không hề có triệu chứng gì đáng nghi ngờ. Salles bèn viết tiếp lá thư thứ nhì, vẫn nhân danh bộ trưởng Thuộc Địa, lần này y nhấn mạnh: "Về thái độ đúng của Phan Văn Trường ở Toulouse: Do y biết đang bị theo dõi nên hết sức giữ gìn. Y sẽ làm việc một cách kín đáo giấu giếm như y đã làm trong Hội Đồng Bào với các sinh viên An Nam, ngoài sự kiểm soát của người quản lý các sinh viên đó. Và y có nhiều thuận lợi: y ở ngoài phố và thợ người Nam từ 19 đến 21 giờ và chiều ngày chủ nhật được tự do. Như vậy tha hồ trò chuyện không bị kiểm soát. Đó là những hoạt động ngầm rất khó phát hiện (...) Bộ trưởng Thuộc Địa rất ngại Phan Văn Trường sẽ thực hiện với thợ thuyền người An Nam ở Toulouse những điều y đã làm với sinh viên Đông Dương và chuẩn bị cho họ phản kháng lại kỷ luật của các nhà cầm quyền Pháp (...) Vì vậy nên đưa tên lính Phan Văn Trường ra khỏi Toulouse và cho y đến một nơi không có có nhóm thợ An Nam nào làm việc."[19].
Lần này bộ trưởng Quốc Phòng gửi thư đáp lại bộ trưởng Thuộc Địa, bác bỏ hẳn đề nghị đổi Phan Văn Trường đi chỗ khác vì đang cần một thông dịch viên giỏi ở Toulouse[20]. Thu Trang trích một mật báo, năm 1919, không ghi ngày, như sau:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia vào năm 1915, tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc"[21].
Điểm đáng chú ý đầu tiên là câu: "Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực", Câu này chỉ có thể là thời kỳ Phan Văn Trường ở Toulouse, vì chỉ ở Toulouse mới có Công Binh Xưởng, hội tụ nhiều binh lính An Nam. Vậy mật báo này xác nhận việc Phan Văn Trường đã quy tụ nhóm An Nam Yêu Nước ở Toulouse. Lo lắng của Salles không phải là vô bằng cớ.
Điểm thứ nhì đáng chú ý là câu: "tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc", câu này trong mạch văn, có thể có các ý nghiã:  
1/ Cái tên Nguyễn Ái Quốc/Quấc đã xuất hiện trong khoảng 1914-1918, ít nhất là từ 1918. Tức là trước khi Nguyễn Tất Thành sang Paris rất lâu - Tất Thành sang Paris tháng 6/1919, như đã nói ở trên.
2/ Nhóm Người An Nam Yêu Nước đã hình thành trong khoảng 1914-1918.Như vậy, chỉ có thể ở Toulouse, nơi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền, em và chú, cùng học từ 1916. Trong thời gian này Phan Văn Trường bị buộc tội xúi giục binh lính An Nam làm loạn viết đơn xin giải ngũ. Nhóm Nguyễn Thế Truyền có lẽ còn là sinh viên nên chưa bị để ý - Sẽ nói đến sau.
3/ Nguyễn An Ninh được ba người bạn thân Lê Văn Thử, tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh[22], Phương Lan Bùi Thế Mỹ, tác giả Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899-1943[23] và Hồ Hữu Tường, tác giả 41 năm làm báo[24] đều ghi nhận Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc - Quấc chứ không phải Quốc - nếu có từ năm 1918, phải là dấu ấn của Nguyễn An Ninh. Ninh là người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết Quấc. Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền người Bắc, không viết như thế. Quấc và Quốc cùng được sử dụng trong một thời gian, sau Nguyễn Thế Truyền chỉ dùng tên Quốc.
4/ Bộ Thuộc Địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quốc vào khoảng tháng 10/1919. Báo cáo của Jean[25] tháng 10/1919, có đoạn như sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté[26] Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp[27] Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)"[28].
Theo báo cáo này, Jean đến tháng 10/1919, vẫn chưa xác định được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh - người Sàigòn, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền - học ở bên này đã lâu lắm, và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.
 Những báo cáo của mật thám và chỉ điểm, trong hai năm 1919-1920 về Nguyễn Ái Quốc của Jean, của Edouard (cũng có tên là Đốc Phủ Bẩy) và của tổng thanh tra Pierre Guesde[29], trong thời gian này đều có tính rối mù như thế, nghiã là như một nhân vật có đầy đủ khả năng biện luận, diễn thuyết, biết rõ tình hình Việt Nam và thế giới, đang viết và dịch sách Tây ... tóm lại là khả năng của nhiều người họp lại.
5/ Về hoạt động của nhóm An Nam Yêu Nước, Daniel Hémery viết: "Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Le Popupaire (Người bình dân), L'Humanité (Nhân loại), Le Libertaire (Người tự do tuyệt đối), báo của CGT (một công đoàn), La vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền)và Le Peuple (Dân chúng). Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn Độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation (Bản Án Chế Độ Thực Dân) và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois (Vạn pháp tinh lý)sang Quốc ngữ"[30].
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng vì dùng tài liệu sai của mật thám, nên Hémery đã nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Ái Quốc/Nguyễn Tất Thành.
Trong các bài viết hoặc diễn thuyết của mình, Nguyễn An Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Nguyễn An Ninh thời ấy là một thanh niên để tóc dài kiểu hippie, làm "người mẫu" để kiếm tiền học, chơi thân với Paul Vigné d'Octon và nhóm anarchiste - vô chính phủ, cộng tác với báoLe Libertaire của nhóm này. Mỗi cuối tuần, Ninh ra ngoại ô Paris, vào rừng tập nói, để diễn thuyết cho hùng hồn. Đó là Nguyễn An Ninh những năm 1918-1922 ở Pháp. Theo Phạm Quỳnh[31], thập niên 1920 ở Pháp, diễn thuyết là một cái mốt, hầu như cuộc hội họp nào cũng có diễn thuyết. Nguyễn An Ninh còn viết cuốn La France en Indochine - Nước Pháp ở Đông Dương, chống Pháp mãnh liệt, in năm 1924, mang về Việt Nam trong chuyến đi với Phan Châu Trinh, sách này đã bị tịch thu[32]. Ninh dịch Contrat social - Dân ước của Rousseau và có ý dịch cảL'Esprit des lois - Vạn pháp tinh lý của Montesquieu.
Vậy hình ảnh một thanh niên tên Nguyễn, chơi thân với nhóm anarchiste, diễn thuyết hùng hồn, viết hết sách này đến sách khác, vào cuối 1919 đầu 1920, mà mật thám Jean mô tả và Hémery ghi lại trên đây, chỉ có thể là Nguyễn An Ninh, vì Nguyễn Tất Thành, đến tháng 6/1919, mới sang Pháp, đang học tiếng Pháp, làm sao cuối năm 1919, đã có thể "đăng đàn diễn thuyết", viết sách, và dịch Montesquieu được?
6/ Một mật báo khác viết: "Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10 năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành"[33].
Những thông tin trong đoạn đầu, khá đúng, duy việc Phan Văn Trường định"ám sát" Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người thận trọng, ghét bạo lực, hành động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút. Nguyễn Thế Truyền sôi nổi và nóng nẩy hơn khi viết những bài đả kích Sarraut.

● Hội Liên Hiệp Thuộc Địa và báo Le Paria
Hội Liên Hiệp Thuộc Địa - Union Intercoloniale là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại Pháp, sau nhóm An Nam Yêu nước. Hội quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria - Người cùng khổ.
Trần Dân Tiên khoe vai trò của mình trong tờ báo này:
 "Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc"[34].
Hồng Hà cũng viết: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924 (...) Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn"[35].
Sự thực không như thế.
Hội Liên Hiệp Thuộc Địa được sáng lập tháng 7/1921, tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong ban chấp hành. Trụ sở số 9 rue Vallette, sau dời đến số 3 rue Marché des Patriarches. Tờ báo của hội là tờ Le Paria ra hàng tháng, dưới sự bảo trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ngày 1/4/1922 và số 38, ngày 1/4/1926.
Thành phần của Hội khi mới thành lập gồm có: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey, Phi Châu, tổng thư ký, Nguyễn Ái Quốc, đại diện Đông Dương, Jean Baptiste, đại diện Guadeloupe; v.v... Lúc đầu có khoảng 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở của Hội hoặc ở Hội trường Hội Bác Học - Salle des Sociétés savantes, rue Danton. Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe[36].
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông"; phải đủ những điều kiện: có óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp mới viết được. Nguyễn Ái Quốc làm đại diện cho Đông Dương trên tờ báo này là đúng, vì bút hiệu Nguyễn Ái Quốc năm 1922, đã rất nổi tiếng. Nhưng những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc có phải do Nguyễn Tất Thành viết không?
 Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền ngụ ý: tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam, vậy ông đã kín đáo thổ lộ sự thật về cái bút hiệu chung này. Báo Le Paria số 4, tháng 7/1920, có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La haine des races- Sự căm thù chủng tộc và Les cilivisateurs - Những kẻ giáo hoá. Bài L'Humanité coloniale - Nhân nghiã thực dân trong số 6 ra tháng 7/1920, có kèm ảnh những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của những con người văn minh[37].
Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề Un bolchevick jaune- Một người Bôn-sơ-vích da vàng, nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quốc bị báo La Dépêche Coloniale - Bản tin thuộc địa đả kích, trong bài này, Nguyễn Thế Truyền ngụ ý: Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam, như đã nói ở trên.
Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện nhiều hơn và tên Nguyễn Ái Quốc giảm dần, nhưng vẫn tồn tại đến 1927, chứng tỏ Nguyễn Thế Truyền tuy đã viết bằng tên thật nhưng vẫn còn tiếp tục dùng tên Nguyễn Ái Quốc trong 4 năm nữa[38].
Số 21 ra ngày 1/12/1923, trong bài Le vase de Chine - Chiếc bình sứ Trung Hoa, Nguyễn Thế Truyền đả kích kịch liệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông Dương về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Diện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Nguyễn Thế Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt[39].
Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 ra tháng 10/1925, toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót - số 38, tháng 4/1926- rồi đình bản[40].

● Ai là tác giả những bái báo ký tên Nguyễn Ái Quốc?
Nhờ cuốn sách của Đặng Hữu Thụ, mà chúng ta biết rõ hoạt động của Nguyễn Thế Truyền và nhóm của ông tại Pháp trong đó có em trai là Nguyễn Thế Song, chú ruột là Nguyễn Thế Phu và các anh em họ và người làng, đều đi du học Pháp từ 1916 và làm cách mệnh.
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh Nguyễn Thế Truyền khuyên con: "chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc"[41].
Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chung, tên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành, và sự bí mật về cái tên Nguyễn Ái Quốc gần như toàn diện, đến cả cụ thân sinh Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc! Sự bí mật này trở thành chiến lược của nhóm Ngũ Long, chúng tôi sẽ trở lại trong phần phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc.
Trần Dân Tiên/Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, tác giả các bài báo.
 Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại:
1/ Khả năng tiếng Pháp: Một người đến Pháp năm 1919, mới bắt đầu học viết báo tiếng Pháp, một thời gian sau không thể viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quốc, kể cả khi người ấy ở Pháp nhiều năm. Viết được như vậy phải học trường Pháp từ nhỏ và có văn tài.
2/ Chính quyền Pháp cũng không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc:Trong thư gửi toàn quyền Đông Dương ngày 12/9/1923, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tổng thanh tra Pierre Guesde còn viết: "Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên".
 Nguyên văn: "Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom"[42].
 Một thư khác, Pierre Guesde gửi toàn quyền Đông Dương ngày 6/7, nhưng không đề năm, chắc vào khoảng 1920-1921, có đoạn như sau: "Tôi được thông báo là Phan Văn Trường sẽ từ Mayence về Paris những ngày sắp tới. Tôi đã dặn Cảnh Sát Cuộc phái người theo dõi trong thời gian y ở lại thủ đô. Ông Babut có đến thăm tôi và nói rằng tất cả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc đều do Phan Văn Trường gợi hứng. Babut xác định với tôi rằng Phan Văn Trường là linh hồn của tất cả những gì xẩy ra trong môi trường Villa des Gobelins"[43].
Theo báo cáo này thì Ernest Babut không hẳn đã có lòng tốt với Phan Châu Trinh mà Babut còn "làm việc" với chính phủ Pháp nữa.
 Nhiều chứng cớ cho thấy Babut và Roux, hai ân nhân của Phan Châu Trinh, còn hành động dưới quyền điều khiền của Pierre Guesde và Albert Sarraut.
 Báo cáo 20/1/1921 của Josselme, trưởng Cơ Quan Kiểm Soát ở Marseille gửi Guesde về lời khai của François Albert, một luật sư gốc Việt - Miên đã ở trong nhóm Phan Văn Trường: "Ngày 17/1/1921, theo ý kiến của François Albert thì có khả năng nhân vật Nguyễn Ái Quốc không có thật mà đó chỉ là một bí danh của Phan Văn Trường, tiến sĩ luật khoa. François Albert nói: Tôi chưa bao giờ trông thấy Nguyễn Ái Quốc ở Paris. Tất cả các bài báo đăng cũng như các yêu sách của dân Đông Dương gửi đến hội nghị hoà bình đều do Phan Văn Trường thảo ra"[44].
3/ Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc, đều thấy một sự thực hiển nhiên: Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Hoàng Xuân Hãn viết: "bí danh này có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi"[45].
Những điều này giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết khi còn giả thuyết Nguyễn Tất Thành sang Pháp từ năm 1917.

● Nhóm Ngũ Long
 Hồ Hữu Tường là người đầu tiên "tiết lộ bí mật" về nhóm Ngũ Long. Hồ viết theo lời Phan Văn Trường kể lại khi họ gặp nhau ở Paris năm 1930, sau khi Phan ra tù lần thứ nhì, và sắp lên đường về nước. Những lời Hồ viết dưới đây có vài chi tiết sai, nhưng đại thể là đúng: "Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn sang nhập bọn. Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh.
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung.
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt Nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh"[46].
Câu: "Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung", ăn khớp với sự khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở chương sau.
Vẫn về việc này, Lê Thị Kinh viết lại lời Phan Châu Trinh: "Cụ Phan Châu Trinh trên giường bệnh tháng 3/1926 tại Sài Gòn đã kể lại vắn tắt với cụ Nguyễn Sinh Huy: "Ban đầu, Nguyễn Ái Quốc là tên chung của nhóm, khi cảnh sát đưa giấy cho Phan Châu Trinh ở số 6 Villa des Gobelins gọi Nguyễn Ái Quốc ra trình diện thì Tất Thành mới ra nhận"[47].
Hồ Hữu Tường cũng kể lại việc này và pha trò theo cách của ông: "Bộ trưởng Thuộc Địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ Thuộc Địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Trinh, nên được chú tôi đưa lại. Không thì lạc mất rồi! (...) Ngày ấy, cụ Tây Hồ xỏ Tây tế nhị xong, xuống chợ Mouffetard mua lòng lợn về mời đủ năm Rồng xơi một tiệc "khải hoàn"[48].
Trong thời gian từ 1919 đến 1923, nhóm Ngũ Long, qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quấc/Quốc, rồi từ 1923 đến 1927, chỉ còn lại Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, đã tả xung hữu đột, tranh đấu quyết liệt cho sự độc lập và dân chủ của đất nước. Sự phân công có thể như sau:
Phan Châu Trinh là nhà ái quốc lão thành, nhưng cách tranh đấu của ông không còn phù hợp với hoàn cảnh mới ở bên Pháp, cho nên chỉ giữ vai lãnh đạo tinh thần.
Phan Văn Trường là nhà lãnh đạo đích thực.
Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh viết nhanh, viết mạnh.
Nguyễn Tất Thành phụ trách phần tin tức, việc quản trị và cổ động bán báo, in truyền đơn...
Phần lớn những người tham gia kháng chiến chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học giỏi nổi tiếng, nhưng đã gạt văn bằng sang một bên để dấn thân. Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt, dù con quan, nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc ngữ kém, tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống rất cực khổ, làm bồi bếp trong suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919, trước khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có hai năm ở nhà Phan Văn Trường là khá, sau này ra Compoint, một khu nghèo nàn thợ thuyền, sống rất cơ cực, với mặc cảm sâu xa đối với các bạn đồng hành trí thức. Đó là những lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo cộng sản, mặc dù ông chưa hiểu rõ lý thuyết cộng sản như thế nào.
Sau này, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên là ông sẽ bắt mọi người phải kính nể, phải gọi ông bằng "Bác", phải cúi đầu trước chân dung ông, và riêng đối với trí thức, ông sẽ dành cho họ những nhục nhằn mà ông đã phải gánh chịu trong suốt cuộc đời thanh niên.





Phụ bản

Chúng tôi in lại bản Revendications du Peuple Annamite dưới đây, nguyên văn tiếng Pháp, bản dịch sang tiếng Việt, và bài thơ Việt Nam Yêu Cầu Ca.

♦ Revendications du Peuple Annamite
Depuis la victoire des Alliés, tous les peuples assujettis frémissent d'espoir devant la perspective de l'être de droit et de justice qui doit s'ouvrir pour eux en vertu des engagements formels et solennels, pris devant le monde entier par des différentes puissances de l'entente dans la lutte de la Civilisation contre la Barbarie.
En attendant que le principe des Nationnalités passe du domaine de l'idéal dans celui de la réalité par la reconnaissance effective du droit sacré pour les peuples de disposer d'eux-même, le peuple de l'ancien Empire Annam, aujourd'hui Indo-Chine Française, présente aux Nobles Gouvernements de l'Entente en général et à l'honorable Gouvernement Français en particulier les humbles revendications suivantes:
1- Amnistie Générale en faveur de tous les condamnés politiques indigènes.
2- Réforme de la justice indochinoise par l'octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu'aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d'exception qui sont des instruments de terrorisation et d'oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite.
3- Liberté de presse et d'opinion.
4- Liberté d'association et de réunion.
5- Liberté d'émigration et de voyage à l'étranger.
6- Liberté d'enseignement et création dans toutes les provinces des écoles d'enseignements techniques et professionnels à l'usage des indigènes.
7- Remplacement du Régime des lois[49].
8- Délégation permanente d'indigènes élus auprès du Parlement Français pour le tenir au courant des désidérata indigènes.
Le peuple Annamite, en présentant des revendications ci-dessus formulées, compte sur la justice mondiale des toutes les Puissances et se recommande en particulier à la bienveillance du Noble Peuple Français qui tient son sort entre ses mains et qui, La France étant une République, est censée d'avoir pris sous sa protection. En se réclamant de la protection du Peuple Français, Le Peuple Annamite, bien loin de s'humilier, s'honore au contraire; car il sait que le Peuple Français représente la liberté et la justice, et ne renoncera jamais à son sublime idéal de Fraternité universelle. En conséquence, en écoutant la voix des opprimés, le Peuple Français fera son devoir envers la France et envers l'Humanité.
Pour le Groupe des Patriotes Annamites:
Nguyễn Ái Quấc




♦ Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam
Từ khi Đồng Minh thắng trận, các cường quốc long trọng cam kết rõ ràng trước thế giới quyết tâm tranh đấu, lấy Văn Minh chống lại Hung Tàn; tất cả những dân tộc bị áp bức đều nôn nao hy vọng, trước viễn ảnh, sẽ được sống trong công bằng và luật pháp.
Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc tự quyết, từ lý tưởng sang thực hành, bằng sự nhìn nhận thực sự quyền thiêng của mỗi dân tộc, tự định đoạt lấy số phận mình; Chúng tôi, Thần dân của Đế quốc An Nam ngày trước, nay là Đông Dương Pháp, trình bày với Cao Quyền Đồng Minh nói chung và Kính Quyền Pháp nói riêng, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:
1- Đại xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông Dương, bằng cách bảo đảm cho người dân bản xứ, những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bỏ hẳn các toà án đặc biệt là công cụ khủng bố và đàn áp thành phần lương thiện nhất của dân tộc An Nam.
3- Tự do báo chí và tư tưởng.
4- Tự do lập hội và hội họp.
5- Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6- Tự do giáo dục và xây dựng những trường kỹ thuật và thực nghiệp tại các tỉnh cho người bản xứ.
7- Thay thế Chế độ pháp lý.
8- Có phái đoàn đại diện thường trực dân biểu bản xứ tại Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.
Dân tộc An Nam, qua những thỉnh nguyện trên đây, tin tưởng ở công pháp quốc tế của các cường quốc và đặc biệt trông cậy vào lòng thành của dân tộc Pháp cao quý, đang cầm vận mệnh của chúng tôi trong tay; nước Pháp là một nước Cộng hoà, cầm bằng như đã bảo hộ chúng tôi. Khi thỉnh cầu sự bảo trợ của Dân tộc Pháp, Dân tộc An Nam, không hề tự hạ mình, mà ngược lại còn lấy làm vinh hạnh, vì họ biết Dân tộc Pháp biểu hiện tự do và công bằng, không bao giờ từ khước lý tưởng cao cả: Tứ hải giai huynh đệ. Vì vậy, khi đáp ứng tiếng kêu của người bị áp bức, Dân tộc Pháp không những làm tròn bổn phận đối với nước Pháp mà còn đối với cả Nhân loại.
Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước - Nguyễn Ái Quấc.
 (Thụy Khuê dịch)


♦ Việt-Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cầy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lí giứt hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang-sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Giám xin đại quấc soi qua chút nào.
1 xin tha kẻ đồng-bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
2 xin phép luột sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc-biệt bất công
Giám xin bỏ giứt rộng giung dân lành
3 xin rộng phép học hành
Mở mang kỵ nghệ, tập tành công thương
4 xin được phép hội hàng
5 xin nghị ngượi nói bàn tự gio
6 xin được phép lịch giu
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
7 xin hiến-pháp ban hành
Trăm đều phải có thần-linh pháp quyền.
8 xin được cử nghị-viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công giân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp giân nức tiếng xưa nay.
Đồng-bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Giân Nam một giạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự-gio.
Rộng xin giân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Gịch mấy chữ quấc âm bày tỏ
Để đồng-bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lí, đoạ đày gia-man
Nay gặp hội khải hoàn hĩ hạ
Tiếng vui mừng khắp cả đồng-giân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
                      *
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì giân khôn
Hai mươi triệu quấc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự gio
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý giài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa
                                         Nguyễn Ái Quấc

[1] Phan Văn Trường, Une histoire de conspirateurs annamites à Paris ou la vérité sur L'Indochine - Chuyện những người An Nam âm mưu ở Paris hay Sự thật về Đông Dương, L'Insomniaque, 2003, trích dịch trang 87.
[2] Phan Văn Trường, sđd, trang 87-88.
[3] Quyển 3, tập 1, trang 138
[4] Phan Văn Trường, sđd, trang 68.
[5] Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 134-135.
[6] Phan Văn Trường viết trong hồi ký là quen Phan Châu Trinh năm 1912. Vậy họ biết nhau trong những ngày đầu tháng Giêng, khi sửa soạn lập Hội.
[7] Phan Văn Trường, sđd, trang 89.
[8] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 115.
[9] Bản dịch in trong Lê Thị Kinh, tập 1, quyển 4, trang 250-276.
[10] Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 146-147.
[11] Lê Thị Kinh, tập 1, quyển 3, trang 148.
[12] Theo Nguyễn Văn Vĩnh, gia đình Phan Văn Trường 6 anh em, đều có học thức, tri thức, và có khuynh hướng khác nhau. Hai anh: Phan Tuấn Phong, anh cả, nhà nho, nhà văn, nhà hùng biện, nhà ái quốc theo đạo Khổng; Phan Cao Lũy, chánh thư ký toà án tối cao, theo đạo thiên chúa, và ba em: Phan Trọng Kiên, đạo Phật, người em thứ là bạn của Nguyễn Văn Vĩnh, triết gia. Và người em út Phan Văn Dương, làm trác đại tư (thiết kế) cho Sở Công Chánh, theo trường phái Epicure.
[13] Nguyễn Văn Vĩnh, bđd.
[14] Thiếu tá.
[15] Tổng hợp lý lịch Phan Văn Trường, Lê Thị Kinh, sđd, Tập 2, quyển 1, trang 115.
[16] Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, trang 43.
[17] Theo Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 3, trang 155-157.
[18] Hémery, sđd, trang 42.
[19] Lê Thị Kinh, tập 1, quyển 4, trang 206-208.
[20] Lê Thị Kinh, sđd, trang 213-214.
[21] Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 44.
[22] Nam Việt ấn hành 1949.
[23] Thúy Phương, Sàigòn, 1970.
[24] Đông Nam Á, Paris, 1984
[25] Tên một người Việt làm chỉ điểm cho Tây.
[26] An ninh.
[27] Ông đội thông ngôn.
[28] Thu Trang, sđd, trang 54.
[29] Được Lê Thị Kinh sưu tầm trong tập 2, quyển 2, trang 123 -150.
[30] Hémery, sđd, trang 45.
[31] Trong Pháp du hành trình nhật ký.
[32] Bài La France et L'indochine đăng trên Europe số 31, ra ngày 15/7/1925, tóm lược nội dung cuốn sách.
[33] Thu Trang, sđd, trang 45.
[34] Trần Dân Tiên, trang 44.
[35] Hồng Hà, trang 150 và 156.
[36] Đặng Hữu Thụ, Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, tác giả xuất bản, Paris, 1993, trang 40.
[37] Thu Trang, trang 144.
[38] Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh về nước cuối năm 1923 và Nguyễn Tất Thành đi Nga, giữa 1923.
[39] Đặng Hữu Thụ, trang 43.
[40] Đặng Hữu Thụ, trang 51.
[41] Đặng Hữu Thụ, sđd, trang 19.
[42] Thư của tổng thanh tra quân đội Đông Dương và người Đông Dương gửi toàn quyền Đông Dương ngày 12/9/1923 - Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois à Gouverneur général de L'Indochine le 12/9/1923) (Slotfom Série I, Carton II - Đặng Hữu Thụ, trang124).
[43] Thu Trang sđd, Phụ lục, chú thích 7, chương 5.
[44] Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua các tài liệu mới, Tập 2, quyển 1, trang 122.
[45] Thu Trang, sđd, trang 114.
[46] Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19.
[47] Lê Thị Kinh, sđd, Tập 2, quyển 1, trang 28.
[48] Hồ Hữu Tường, sđd, trang 19-20.
[49] Trong bản in ở cuốn sách của Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, trang 125, điều 7 này được viết như sau:Remplacement du régime des decrets par le régime des lois (Thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp lệnh). Chúng tôi dùng bản in trong sách của Thu Trang vì có bài thơ viết tay Việt Nam Yêu Cầu Ca đính kèm. Văn bản này trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập đã được sửa hết các lỗi chính tả.
CHƯƠNG 18
NGUYỄN ÁI QUỐC LAI LỊCH VÀ VĂN BẢN

Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn[1], 8410 trang, gồm:
- 80% diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản gần 1000 trang, có thể chia làm hai phần: Phần dịch từ tiếng Pháp những bài ký Nguyễn Ái Quốc và phần tiếng Việt gồm những bài ký bút hiệu khác.
Phần tiếng Việt: Gồm những bài đăng báo Việt Nam, ký C.B tập 7 và 8 - C.B là viết tắt của Của Bác, theo Bùi Tín, ký Trần Lực, tập 9 và 10 và ký Chiến Sĩ, tập 11. Loạt bài tiếng Việt phản ảnh tư chất thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, không lý thuyết lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích thực là văn viết của Hồ Chí Minh. Bài Việt Nam Yêu Cầu Ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm thơ nôm na của ông Hồ. Sau này, còn có nhiều bài khác, cùng một phong cách như thơ chúc Tết, thơ Trung Thu và thơ ngâm vịnh. Lối thơ này được in lại trong tập 3.
Phần ký Nguyễn Ái Quốc: Khoảng 700 trang -bản CD bị cắt một số đoạn, so với sách in- là bản dịch những bài viết trên báo Pháp, từ 1919 đến 1927. Bản dịch chưa lột hết cá tính nguyên văn, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng, lòng ái quốc và chí khí của người viết. Chính loạt bài này đã "thành danh" Nguyễn Ái Quốc, xác định "tư tưởng Hồ Chí Minh", làm cho ông trở thành thần tượng ngay từ thập niên 1920-1930 của thế kỷ trước.
Nguyên bản tiếng Pháp trên báo, được ký dưới hai dạng: Nguyễn Ái Quấc, trong thời kỳ đầu, sau Nguyễn Thế Truyền giữ lại Nguyễn Ái Quốc.
Phần khảo này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc.
Để truy nguyên lai lịch Nguyễn Ái Quốc, ta phải trở lại sự thành lập Nhóm An Nam Yêu Nước tại Toulouse.

● Hoạt động của Phan Văn Trường
tại Công Binh Xưởng Toulouse
Ra tù năm 1915, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử "nguy hiểm", luôn luôn bị theo dõi. Mật thám dò hỏi người giữ cửa immeuble về mọi hoạt động, giao du của ông. Trong thời gian ở Toulouse, ông không ở trong trại lính, thuê nhà ở riêng, đổi nhà 2 lần, đều ở phố Taur - Rue du Taur. Vì biết mình luôn luôn bị mật thám theo dõi và vẫn tiếp tục chống Pháp, ông giấu kín việc gia đình, có người vợ không giá thú, và con trai không ở cùng địa chỉ.
Ông Khánh Ký cũng xuống Toulouse, ở số 23 đường Braqueville. Nguyễn Thế Truyền, em, chú và em họ cũng về Toulouse học.
Thời kỳ đó, Phan Châu Trinh trải qua nhiều bất hạnh đớn đau, có lẽ không liên lạc thường xuyên với anh em trong một thời gian dài. Bà Phan Châu Trinh mất khi ông ở tù và ông cũng bị chặn tin, không hề hay biết, như trường hợp Nguyễn Thế Truyền. Ra tù, ông bị chính quyền thực dân cắt trợ cấp, hy vọng không biết tiếng Pháp, không thể xoay xở nổi, Phan sẽ phải về nước.
 Nhưng Phan học nghề ảnh với Khánh Ký và tự lập được. Ông di chuyển nhiều nơi: Chartres, Pons, Bordeaux, Le Havre, kiếm sống sung túc. Đến tháng 3/1917 Phan lâm trọng bệnh phải vào bệnh viện Cochin 2 tháng. Ra viện, tiền dành dụm đã hết, lại yếu quá không làm việc được. Châu Dật phải nghỉ học, làm việc ở siêu thị Bon Marché để nuôi cha. Marius Moutet can thiệp, Dật được học bổng trở lại, học tiếp niên khoá 1917-18, nhưng đã mắc bệnh lao vì quá vất vả. Pháp không chữa được.
Phan hy vọng cho con về Việt Nam thời tiết ấm hơn, Châu Dật lên tầu về nước ngày 27/9/1919 và mất ở Huế ngày 2/2/1921.
Từ 1916, Phan Văn Trường ở Toulouse vẫn bị André Salles theo dõi nhưng không làm hại được. Đến tháng 9/1917, nhân việc Phan dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, mọi sự lại dấy lên lần nữa, Phan bị khám xét nhà cửa. Bộ Quốc Phòng bắt buộc phải mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính thợ phải khai rằng chính Phan đã "chủ mưu xúi giục" họ viết đơn xin giải ngũ. Thực ra, Phan chỉ dựa trên việc chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi, rằng đi lính chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người "tình nguyện" đi lính cho Tây. Nhưng lần này Phan không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ huy trưởng Malacamp có thiện cảm với ông, và nhất là nhờ những người lính thợ, không những không khai mà còn nói chính ông Phan đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải ngũ![2] Tướng Mas xuống gặp Phan, và sau đó mọi chuyện được dàn xếp ổn thoả.
Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm của an ninh: Bộ Thuộc Địa vẫn nghi ngờ hoạt động bí mật của Phan Văn Trường tại Công Binh Xưởng Toulouse, họ theo dõi để diệt trừ. Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi "oan" vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động của ông tại Toulouse[3].
Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, vì đó là một chiến lược: Ông muốn vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ quan và binh lính Việt. Cũng giống như ông đã gieo vào đầu óc học sinh trường Parangon tinh thần chống Pháp tại Pháp. Và ông luôn luôn khôn khéo, không hành động ra ngoài khuôn khổ luật pháp: Việc lính thợ xin hồi hương, là đúng luật, đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã hứa hẹn. Việc này Phan còn làm lại, trên báo L'Annam ở Sài Gòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, ông phải sang Pháp tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù năm 1929.

● Nội dung các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Đọc những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai tác phẩm Bản Án chế độ thực dân và Đông Dương (1923-1924), ta có thể hiểu được hoạt động của nhóm Người An Nam Yêu Nước tại Toulouse: Nội dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong toàn bộ các văn bản ký Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho thấy đây là một công trình dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước khi các tác giả chấp bút.
Thời kỳ Phan Văn Trường ở Toulouse, cùng Khánh Ký là thời gian hình thành cuộc cách mạng bằng ngòi bút trên báo chí Pháp từ 1919 trở về sau, với sự trợ giúp của nhóm Nguyễn Thế Truyền (sinh 1898), em Nguyễn Thế Song (1902) và chú Nguyễn Thế Phu (1900)[4], cùng ở Toulouse trong thời điểm đó và cùng giúp Nguyễn Thế Truyền trong các tờ Le Paria, Việt Nam Hồn, Phục Quốc và La Nation Annamite.
Vậy có thể kết luận rằng từ 1916 đến 1919, tại Toulouse, nhóm An Nam Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút về sau:
1/ Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua hồ sơ quân đội Pháp mà Phan tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người lính thợ Việt Nam hàng ngày kể lại với ông, khi họ nghỉ việc ở xưởng từ 19 đến 21 giờ mới phải vào trại và có nửa ngày chủ nhật nghỉ, như Salles cho biết. Vì vậy "ê-kíp" của ông mới có thể gặp gỡ và ghi lại những nhân chứng nói về các trường hợp cụ thể tội ác thực dân đã xẩy ra ở từng nơi, từng làng.
2/ Năm 1918, Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn sang - trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội học hai năm. Ông biết rõ tình hình cả Nam lẫn Bắc. Sau này, ông còn về nước nhiều lần.
3/ Năm 1919 có nhiều yếu tố hội tụ: Tháng 1, Hội Nghị Hoà Bình khai mạc ở Versailles. Tháng 6, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn sang Pháp. Bản Thỉnh Nguyện Thư do Phan Văn Trường viết, nhưng Tám điểm hẳn là một sự bàn cãi tập thể, vì Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều học Luật.
4/ Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong kỹ sư, về quê một năm từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921. Thời gian này, ông quan sát tác dụng của phong trào: tên Nguyễn Ái Quốc được người trong nước coi như một vị anh hùng, và khi trở lại Pháp, Nguyễn Thế Truyền đã thuật lại trong bài "Một người Bôn-Sê-Víc da vàng". Ông mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ Le Paria của hội Liên Hiệp Thuộc Địa cùng với các nhà văn, nhà báo Châu Phi, Madagascar. Tại trụ sở Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thông tin, qua chứng từ của các nhà báo và của người đọc ở Châu Phi gửi về toàn soạn.
Tất cả dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng để viết những bài báo, chính ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồiNguyễn Ái Quấc/Quốc. Nguyễn Tất Thành là người đứng ra nhận tên Nguyễn Ái Quốc.

● Nguyễn Tất Thành / Nguyễn Ái Quốc
một lầm lẫn vô tình hay cố ý
Khi viết về thời kỳ lịch sử này, hầu hết các nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc là ba nhân vật chính của phong trào chống Pháp. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện:Nguyễn Tất Thành là người nhận tên Nguyễn Ái Quốc nhưng không phải là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sở dĩ chưa ai soi tỏ sai lầm này, vì các lý do sau đây:
1/ Vì Hồ Chí Minh tự nhận là Nguyễn Ái Quốc, nên không ai dám cãi lời"Bác". 1948, khi viết "hồi ký" ký Trần Dân Tiên, ông Hồ cần dựa trên uy tín của Nguyễn Ái Quốc -cái tên mà người Việt đã biết, đã coi như anh hùng, qua những bài báo chống Pháp thập niên 1920 tại Pháp- để lập cho mình một căn cước "lãnh tụ tuyệt vời" đúng như lời Lữ Phương: Cuốn "tiểu sử" viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm 1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước cộng sản trước tình hình mới - một lãnh tụ tuyệt vời và chỉ có lãnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi". Cho nên ông đã tạo ra các bằng chứng để biện minh Nguyễn Tất Thành chính là Nguyễn Ái Quốc.
2/ Sự kiện này, có thể làm được năm 1948, vì ba người trong cuộc: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đã qua đời. Nguyễn Thế Truyền bị bắt từ tháng 5/1941, bị đầy đi Madagascar. Đến tháng 6/1946, Moutet can thiệp, hai anh em ông Truyền mới được thả, nhưng bị quản thúc tại Sài Gòn đến 1947. Tóm lại, 1948, ở Việt Bắc, Hồ Chí Minh tưởng Nguyễn Thế Truyền vẫn đang bị đi đầy, nhóm Ngũ Long không còn ai, vậy mình có thể nhận là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Le Paria, là người lập ra nhóm An Nam Yêu Nước mà không bị ai phản bác. Đúng như dự tính của ông Hồ: không bao giờ Nguyễn Thế Truyền đả động đến việc viết chung bút hiệu. Chỉ khi cuốn hồi ký 41 năm làm báo của Hồ Hữu Tường được in ra năm 1984 tại Paris sau khi ông mất, việc này mới tỏ.
3/ Một mặt khác, sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh, mặc cảm này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu đứng đắn.Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc nhưng rồi vẫn mặc nhiên coi Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Riêng đối với những đảng viên cộng sản Pháp như sử gia Alain Ruscio, và đặc biệt Léo Poldès, người quản lý Câu Lạc Bộ Faubourg, nơi Nguyễn Tất Thành đến học nói tiếng Pháp trước công chúng, thì sự tôn sùng lãnh tụ Hồ Chí Minh còn có ý"kể công" và tuyên truyền cho đảng Cộng Sản Pháp.
4/ Nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc, một mặt, không biết rõ những khó khăn của một người ngoại quốc học viết tiếng Pháp, một mặt, tưởng Nguyễn Tất Thành cũng như hầu hết những thanh niên Việt sang Pháp thời ấy, đều giỏi tiếng Pháp.
5/ Thu Trang trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp,rồi Thu Trang-Gaspard trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris, và Lê Thị Kinh trong bộPhan Châu Trinh qua các tài liệu mới, là những trường hợp đặc biệt, mặc dù hết sức trung thành với "Bác Hồ", nhưng vẫn đưa ra được những bằng chứng nghi ngờ Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc.
6/ Sau cùng, sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng những báo cáo sai lầm của mật thám. Yếu tố sau cùng này là rường mối của các sai lầm mà chúng tôi gọi là sai lầm của những nhà nghiên cứu đứng đắn và sự kiện này cần được mổ xẻ, phân tích kỹ càng.

● Nguyễn Như Chuyên
Nguyễn Như Chuyên là loại thám tử trà trộn vào hàng ngũ "địch" vẫn thấy trong các phim trinh thám. Khi chính quyền thực dân thả Phan Châu Trinh và cho ông đi Pháp, họ đã gài sẵn một thám tử đi theo hai cha con, là Nguyễn Như Chuyên, thông dịch viên ở Đông Dương, đi với tư cách "sinh viên" được học bổng 3 năm của Pháp, cùng chuyến tầu[5]. Nhiệm vụ của Chuyên có lẽ chỉ bộ trưởng, toàn quyền và một vài người được giao trách nhiệm trực tiếp biết, vì các bộ não an ninh dường như cũng không biết rõ, vẫn coi Chuyên là "đồng bọn" với hai ông Phan.
 Tới Pháp, Chuyên vào học trường Jules Ferry tại Versailles ít lâu rồi bỏ, thường đi về giữa Paris và Le Havre, khai là có cửa hàng ở Le Havre. Gần gụi Phan Châu Trinh, làm thông dịch cho ông, trao đổi thư từ "tâm huyết" với ông trong nhiều năm, được ông coi là đồ đệ. Chuyên ở cùng khách sạn với Phan Châu Trinh, rue l'Abbé de l'Epée, rồi rue Cujas. Khi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt, Chuyên cũng bị bắt, bị điều tra thẩm vấn hệt như "tòng phạm" của hai ông Phan. Chuyên có mon men làm thân ông Trường nhưng ông Trường là người cực kỳ thận trọng, đã cảnh báo ông Trinh, nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi ký, ông Trường trách ông Trinh "khinh xuất" là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên đã mạo khai để hai ông Phan bị bắt về tội "phiến loạn".
Cũng nên đọc qua một đoạn hỏi cung "cò mồi" của quan ba Caron với Chuyên:
"- Hỏi: Hôm khám nhà anh 14/10/1914 ở khách sạn Flandres, 16 Cujas, thấy trong lò sưởi có nhiều giấy tờ đã đốt. Giấy tờ gì vậy?
- Đáp: Chính là các thư của Phan Châu Trinh vì tôi sợ nên đã đốt. Chính qua các thư đó mà tôi biết các khoản tiền chính phủ Đức giúp Phan Châu Trinh cũng như dự định nổi dậy ở Đông Dương trong đó có các thư của Phan Văn Trường về quan hệ của ông ta ở Tàu và sự giúp đỡ của Tàu cho các nhà cách mạng Đông Dương.
- Hỏi: Anh nói thêm chi tiết về kế hoạch nổi dậy?
- Đáp: Phải chờ cơ hội thuận tiện và chiến cuộc ở Âu châu có thể là hiệu lệnh cho cuộc nổi dậy. Quân cách mạng sẽ được các nhà cầm quyền Tàu ở biên giới cấp vũ khí tiền bạc cùng với các lãnh sự Đức ở Tầu. Quan hệ với Tàu do Phan Văn Trường, còn Phan Châu Trinh phải quan hệ với nhà cầm quyền Đức"[6].
Tổ chức mua súng ống là bịa đặt vì hai ông Phan hoàn toàn chống lại bạo động cách mạng. Những câu hỏi được dàn dựng một cách ngu xuẩn: "Hôm khám nhà anh thấy đốt... tư liệu gì vậy? Tại sao Chuyên biết sẽ bị khám nhà mà đốt? Lại nhè đúng lúc công an sắp đến mới đốt để cho họ thấy tro? Tại sao không giữ những thư của Phan Châu Trinh nhận tiền của Đức, nếu có? Tại sao những giấy tờ Phan Văn Trường liên lạc với Tàu làm cách mạng, lại ở nhà Nguyễn Như Chuyên? Phương pháp làm việc của Caron và đồng bọn quả đúng là ô nhục như lời luật sư Moutet nhận định sau này.
Dù là "sinh viên", Chuyên "được" giam vào ngục nhà binh Cherche-Midi ở tù chung với Phan Văn Trường! "Phan Châu Trinh cứ khen Nguyễn Như Chuyên thông minh và là chính trị gia khéo léo, chứ tôi thấy y rất tồi trong vai thám tử mà người ta giao cho hắn đóng cạnh tôi trong ngục Cherche-Midi"[7].
 Sau khi đi cung về Chuyên thuật lại với ông Trường: "Họ đã quyết định chặt đầu cả ba đấy. Đây là chiến thuật của Sarraut muốn đánh một cú vang dội. Ông phải viết thư ngay tức khắc cho thủ lãnh luật sư đoàn, hay cho Quan ba Caron, hay một người có quyền thế nào khác, kêu xin cầu cứu đi". Phan Văn Trường chẳng động đậy.
Lần cung hôm sau, ra về, y nói: "Họ đã bắt tôi phải khai là ông nhận tiền của của lãnh sự Đức để mua súng vậy ông còn chần chừ gì nữa". Phan Văn Trường vẫn không nhúc nhích.
Cuối cùng, hắn quát to bằng tiếng Pháp: "Đấy! đấy! Tôi đã bảo hắn là việc hết sức quan trọng, tôi đã khuyên hắn phải viết thư xin những vị có thẩm quyền can thiệp, mà hắn chẳng coi ra gì, cứ rắn như đá, dù hắn đã có hai anh em bị đi đầy"[8].
Sau cùng, Chuyên giả điên, nhẩy vào cắn Phan Văn Trường, một người lính canh cản lại. Chuyên được chuyển vào nhà thương điên, Phan Văn Trường vẫn nghĩ đó chỉ là một vở hài kịch được dàn dựng. Cớ điên để vô hiệu hoá những lời khai man của Chuyên và có cớ xử hai ông được miễn tố. Sự miễn tố này, là công của luật sư Marius Moutet, đồng nghiệp của Phan Văn Trường tại toà Thượng thẩm, và Phan đã gặp trong hội nghị về nhân quyền ở Lille năm 1914, đã là người bảo vệ hai ông Phan, hiệu quả nhất. Quan tư Roux có can thiệp cho ông Trinh, nhưng chỉ thêm rách việc, vì Caron nói thẳng với ông Trinh: Ông đừng tưởng cứ quen Roux mà xong đâu!
Tại Quốc hội, tháng 2/1925, trong cuộc đối chất với Outrey, Moutet kể lại lúc còn đang đi lính, ông được tin Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, bạn đồng nghiệp của ông tại toà Thượng Thẩm bị bắt. Đang đóng ở Vosges, ông đã viết nhiều thư can thiệp nhưng vô hiệu. Phải đợi đến lúc đắc cử dân biểu, về Quốc Hội, ông mới đến gặp Thủ tướng Viviani và nói rằng: "Tôi muốn trình thủ tướng người ta đã dùng những phương pháp ô nhục. Là thủ tướng, ông cho phép tôi mở lại hồ sơ, tôi muốn chứng minh rằng nó hoàn toàn trống rỗng". Ông Viviani gọi trách nhiệm toà án binh đến và ra lệnh: "Tôi yêu cầu ông đưa ngay hồ sơ cho ông Moutet". Thưa quý vị, tôi đã mở hồ sơ và quả nó trống rỗng. Người ta bảo tôi: "Trống đấy, nhưng hồ sơ thật ở bên Đông Dương kia!"[9]
Albert Sarraut không còn lối thoát. Đành phải tính cách thối lui cho khỏi mất mặt. Và có lẽ bi hài kịch Nguyễn Như Chuyên giả điên được dàn dựng trong hoàn cảnh đó.
Ngày 2/3/1918, một mật báo cho biết: Nguyễn Như Chuyên được đưa vào nhà thương điên Bicêtre từ 22/4/1915 đến 16/4/1916 được ra. Sau khi vào bệnh viện lần thứ nhì, ngày 13/2/1918 Chuyên được ra khỏi để "đi đến Toulouse, số 23 đường Braqueville, nhà người chụp ảnh Khánh Ký, người đã cam kết nhận y để kiếm việc làm cho y"[10]. Vậy Bicêtre có lẽ là "địa chỉ tạm thời" mà Chuyên được ở với bệnh danh "trầm cảm" do bác sỹ cấp, để đánh lạc hướng, và Chuyên sẽ về Toulouse với ông Khánh Ký, để tiện bề theo dõi nhóm Yêu Nước.
Sau chiến tranh, Phan Văn Trường trở lại Paris làm luật sư, mật thám vẫn theo dõi các thân chủ của ông, đe dọa nếu mượn Phan Văn Trường, một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp biện hộ, thì có ngày mang họa.

● Vấn đề chỉ điểm, mật thám
Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, dễ len lỏi vào môi trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean, chuyên theo dõi Nguyễn Tất Thành hay Désiré, theo dõi Nguyễn Thế Truyền, đều là Việt. Trong số mật thám có cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp. Nhưng mật thám có thể đưa những thông tin sai lầm:
Cuốn Cochinchine - Nam Kỳ[11] của Léon Werth, là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của Werth đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam Kỳ dưới sự áp bức của bọn thực dân vô giáo dục trên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng cam chịu. Léon Werth kể lại câu chuyện sau đây: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại đi theo Dejean de la Bâtie[12]. Khi Werth và Ninh rời Sài Gòn đi Lục tỉnh, mật thám vẫn tiếp tục theo dõi La Bâtie và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch Giá đánh điện lên, Sài Gòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi![13]
Trong năm 1919, Edouard đưa ra những bản báo cáo về Nguyễn Ái Quốc rất dài và tỉ mỉ, đặc biệt mật báo về cuộc thảo luận tối 19/12/1919 ở Villa des Gobelins[14] mà ông được dự - Edouard hình như là Đốc phủ Bẩy, công chức ở bộ Thuộc Địa, "chơi thân" với nhóm Yêu Nước- chép lại lời Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết rất hùng hồn về hiện tình Việt Nam và thế giới, trong lúc chính sở mật thám cũng chưa biết Nguyễn Ái Quốc là ai! Đọc bản báo cáo này, người ta có thể nhận ra Nguyễn Thế Truyền vì phù hợp với lối phát biểu của ông, nhất là chi tiết:"Nguyễn Ái Quốc" lấy tàu đi Toulouse.

● Theo dõi Nguyễn Ái Quốc
Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc rất phức tạp, vì những lý do sau đây:
1/ Người Pháp và người Tây phương nói chung, thường dùng Họ thay Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quấc, đều là M. Nguyễn. Ấy là chưa kể các Nguyễn khác trong nhóm Yêu Nước, riêng gia đình Nguyễn Thế Truyền có đến bốn năm Nguyễn.
2/ Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 nhân vật chính: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành[15]. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam, tứcNguyễn An Ninh, hoặc học ở Pháp từ nhỏ, tức Nguyễn Thế Truyền. Có mật báo còn nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Chuyên[16], rồi nhầm Nguyễn Chuyên với Nguyễn Như Chuyên... Đến khi chụp được ảnh Nguyễn Tất Thành, mới vỡ lẽ. Nhưng từ bộ trưởng, toàn quyền đến thanh tra, tất cả đều cho là Thành mạo nhận.
3/ Chính Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền cũng tung hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ đã viết cho Nguyễn Tất Thành đem khoe với mật thám rằng mình vừa viết xong.
 Vì thế, từ cuối 1919, đã có những bản mật báo ghi rõ: Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, dịch cuốn sách kia... và Daniel Hémery đã dựa vào những báo cáo này để viết câu: "Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã "sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés- Những Kẻ Bị Đàn Áp, có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation - Bản Án Chế Độ Thực Dân và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm Tây phương, như L'Esprit des lois- Vạn Pháp Tinh Lý sang Quốc ngữ."[17]. Sự thể đã trở thành khôi hài: một người mới sang Pháp 6 tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao có thể có những dự tính "đội đá vá trời" như vậy?
Việc vở kịch Le dragon de bambou - Rồng tre, là một ví dụ. Có thể Truyền hay Ninh viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, đảng viên cộng sản, người điều khiển các buổi nói chuyện ở Câu Lạc Bộ Ven Đô - Club du Faubourg, khu 17, nơi Tất Thành, từ 14/7/1921, ở ngõ Compoint gần đấy, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, đã giúp việc dựng kịch. Ông nhận xét về vở kịch này như sau: "Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như lối khôi hài của Aristophane"[18].
4/ Ngày 12/10/1919, Guesde báo cáo cho bộ trưởng: "Nguyễn Ái Quốc đã được mời ra sở cảnh sát để hỏi và chụp ảnh ngày 20/9/1919. Anh ta kiên quyết khai tên là Nguyễn Ái Quốc mặc dù ta biết là khai man"[19].
5/ Mật báo ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng tình trạng hoả mù ấy: "Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L'Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại. Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới một giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (...) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật"[20].
Phan Văn Trường cho biết nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường - Villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang. Vậy thám tử "tìm thấy" Nguyễn Tất Thành ở số 6 Villa des Gobelins là đương nhiên, và Tất Thành nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Sự tranh luận sôi nổi có thể về đề tài những bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, theo Phan Văn Trường, mọi người đều đến thư viện, đọc và học, vì không có tiền mua than củi để sưởi nhà, rất dễ nhầm người này với người kia, nhất là những người cùng tên Nguyễn.
6/ Ngày 16/9/1920 tổng thanh tra Pierre Guesde thông tri cho Cảnh Sát Cuộc:"Phải gọi Nguyễn Ái Quốc đến hỏi lại: Tên thật là gì? Gốc gác ở đâu? Cha mẹ tên gì? ...
Vì ở Đông Dương mọi người đều phải có thẻ căn cước, giấy thông hành, thẻ thuế thân, không thể có chuyện một người đến Pháp mà không có giấy tờ gì cả"[21].
 7/ Ngày 12/10/1920, Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi lên bộ trưởng, tình hình vẫn hết sức lộn xộn: Cơ quan an ninh Pháp vẫn chưa xác định được ai là người viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, vì họ không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Chắc chắn do sự khác biệt quá lớn giữa thứ tiếng Pháp mới học của Nguyễn Tất Thành, và thứ tiếng Pháp nhuần nhuyễn tinh vi trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo một tài liệu Vidéo của Viện Quốc Gia lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh Pháp INA - Institut National Audiovisuel về buổi Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một nhà báo Pháp tháng 6/1964[22], thì quả đúng như thế: Ông Hồ nói tiếng Pháp dở, nhiều lỗi sơ đẳng, có câu ông dịch tiếng Việt từng chữ một, người Pháp không nói như thế. Có chỗ ông không hiểu câu hỏi của phóng viên. Một trình độ Pháp văn như vậy không thể viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Đứng trước tình trạng: có một "bóng ma" Nguyễn Ái Quốc rất tài tình được mô tả trong các bản mật báo: diễn thuyết liên miên, phát biểu trong các buổi họp của đảng Xã hội, viết sách, viết báo, dịch sách, trả lời phỏng vấn báo Triều Tiên, báo Mỹ... Và một "người thật" là Nguyễn Tất Thành tự xưng mình là Nguyễn Ái Quốc, mà lại nói không thông tiếng Pháp, Pierre Guesde, tường trình về sự hoang mang của mật vụ như sau:
"Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ Trưởng,
(...) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An Nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là "Nguyễn yêu nước". Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc - Préfecture de Police cung cấp chẳng có gì chính xác (...) Trong buổi nói chuyện với ông thanh tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông toàn quyền Đông Dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: "Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (...)"
Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông thanh tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 (20/9/1920). Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận."
Nhưng ngay sau đó, trong bức thư, Pierre Guesde lại viết những lời ngược lại:
"Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở thuộc địa, dưới cái tựa "Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam". Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc" (...)
Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung Hoa, Triều Tiên, Nga, Ái Nhĩ Lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã Hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua (1/5/1920) và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Những lời trên đây chứng tỏ sự bối rối của cơ quan an ninh Pháp: Một mặt cho rằng có một Nguyễn Ái Quốc giả, tức là kẻ đến trình diện, tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Một mặt lại tin rằng có một Nguyễn Ái Quốc thật -qua các mật báo- người ấy mới chính là Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết và là tác giả các văn bản.
 Thời gian từ 1919 đến tháng 5/1920, Nguyễn Ái Quốc "thật" được các chỉ điểm Pháp mô tả như một người đã "liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung Hoa, Triều Tiên, Nga, Ái Nhĩ Lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua (1/5/1920) và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Chân dung này chính là Nguyễn An Ninh, nhờ ba yếu tố: vô chính phủ, diễn thuyết liên miên và viết sách đòi độc lập cho Đông Dương. Nguyễn Thế Truyền lúc đó còn học ở Toulouse, chắc không đi về Paris thường xuyên và Nguyễn Tất Thành, mới sang, không rành tiếng Pháp, không thể diễn thuyết và viết sách tiếng Pháp được.
 Pierre Guesde viết tiếp: "Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L'Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L'Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu do Phan Văn Trường thuê. Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn. Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. (...) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên"[23].
Bản tường trình của Pierre Guesde bị rối loạn vì những thông tin sai lầm của thám tử, nhất là khi François Albert, một người trong nhóm Yêu Nước, bị hỏi cung cũng khai chẳng hề gặp Nguyễn Ái Quốc bao giờ.
Thực ra những thám tử của Guesde lầm mà không lầm vì vô tình, họ đã xác định được 1/3 sự thực: Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh.
Bởi vì, người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm Xã Hội, nhóm Vô Chính Phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1919-1920, chính là Nguyễn An Ninh. Người "vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương" cũng là Nguyễn An Ninh, có thể đó là cuốn La France en Indochine. Người viết Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh - Sẽ giải thích sau. Trong bản báo cáo, Pierre Guesde rất tinh tường qua những nhận xét khác của ông:
- Một mực không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Đọc các văn bản Nguyễn Ái Quốc, ông ta đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp. Đặc biệt ông ta chú ý đến những bài quan trọng như La question des indigènes en Indochine -Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương do Phan Văn Trường viết; bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison - Đông Dương và Triều Tiên, một sự so sánh lý thú và bài Lettre à Monsieur Outrey - Thư gửi ông Outrey do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông ta xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.
Tóm lại, tới ngày 12/10/1920, Pierre Guesde vẫn đinh ninh Nguyễn Tất Thành là người "gánh" cái tên Nguyễn Ái Quốc cho Phan Văn Trường. Điều này cũng không sai, nhưng Guesde cũng chỉ tìm ra 1/3 sự thật: Phan Văn Trường cũng là Nguyễn Ái Quốc.
Trong phụ bản số 2 của bản báo cáo gửi bộ trưởng Thuộc Địa, Guesde kết luận:
"Sau khi trao đổi với toàn quyền Đông Dương, thấy cần phải biết rõ Nguyễn Ái Quốc là ai. Ngày 20/9/1920 đã đưa giấy gọi Nguyễn Ái Quốc đến sở cảnh sát để chụp ảnh và hỏi lai lịch (kết quả kèm theo đây). Thấy rõ đây vẫn là lời khai man"[24].
Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, năm 1923, trong thư gửi toàn quyền Đông Dương ngày 12/9/1923 Pierre Guesde còn viết: "Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên"[25].

● Nguyễn Tất Thành trở thành
Nguyễn Ái Quốc và xin vào hội Tam Điểm
Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris tháng 6/1919, Hội Nghị Hoà Bình đã khai mạc từ 18/1/1919 ở Versailles. Mục đích của hội nghị là xây dựng những quốc gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm Yêu Nước muốn lợi dụng tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt Nam, một đất nước đã bị mất chủ quyền. Có thể họ đã thảo luận với đại biểu các nước khác trong hậu trường Hội Nghị, trước khi tung bản thư Thỉnh Nguyện.
Khi bản Thỉnh Nguyện hoàn tất, tại sao Phan Văn Trường giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác?
Bởi Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt mới, vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật thám bao vây. Lần xuất hiện đầu tiên này, chưa ai biết Nguyễn Tất Thành là ai.
Nguyễn Tất Thành, xa nước từ 1911, sống vất vả trên tàu, rồi biệt lập ở Luân Đôn, vừa sang Pháp, chưa biết rõ những thông tin về tình hình trong nước, cũng không đủ kiến thức và không rành tiếng Pháp, nên chỉ có thể giữ vai trò khiêm tốn:học Pháp văn, giữ sổ sách chi thu, tập viết những mẩu tin, phụ trách việc in và phát truyền đơn. Không thể viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc, nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành xung phong nhận tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là chặng đầu. Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn phải do sự sắp đặt của Phan Văn Trường -có thể Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm- vì Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
 Theo Pierre Brocheux: "Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được"[26].
-Theo Thu Trang: Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm"[27]
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Hội Tam Điểm từ chối. Nhưng đến tháng 6/1922, ba năm sau, Nguyễn Tất Thành đã "chính thức"trở thành Nguyễn Ái Quốc, một tên tuổi trong làng báo chống thực dân. Hội Tam Điểm mới chấp nhận. Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Tam Điểm, vì sao?
 Tam Điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cao quý "Thân ái -Fraternité- giữa người và người". Nhưng trên thực tế, hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người làm chính trị vào hội Tam Điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc. Trần Trọng Kim cũng ở trong hội Tam Điểm, vì vậy khi làm chính trị, ông có thể nói thẳng mà không sợ chính quyền thuộc địa đàn áp.
Có thể Phan Văn Trường đã tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành vào hội Tam Điểm khi Thành mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này, và muốn có một thế lực hậu thuẫn cho Tất Thành. Nhưng khi được vào hội rồi, Nguyễn Ái Quốc/Tất Thành không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả của hội, nhất là trong những trao đổi, Thành không thể không để lộ những trống vắng về ngôn ngữ và kiến thức của mình trước các thành viên là những phần tử ưu tú của xã hội Pháp. Ngoài ra, còn có thể bị áp lực của đảng Cộng Sản Pháp, nên ít lâu sau Nguyễn Tất Thành đã bỏ hội Tam Điểm.
Về việc Nguyễn Ái Quốc có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã Hội Pháp, cuối năm 1920, Hoàng Văn Chí cho rằng do Nguyễn Thế Truyền sắp đặt. Có lẽ không đúng, mà vẫn do Phan Văn Trường lo liệu, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt Nam.
Ta cần phải biết rằng giới chính khách và trí thức Pháp -hay ở nước nào cũng vậy- không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao, nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng là sự thật. Vừa đến Paris, làm thợ ảnh, tiếng Pháp chưa thông, làm sao Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới Pháp? Nếu không được những trí thức thực sự như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, giới thiệu, và phải "có tên tuổi" trong làng báo như Nguyễn Ái Quốc.
 Nhờ những yếu tố này, Tất Thành/Ái Quốc mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp. Nhưng "đội" tên Nguyễn Ái Quốc cũng là một gánh nặng, mà đôi khi chính bản thân Nguyễn Tất Thành không kham nổi. Việc tìm lối thoát đi Nga có thể cũng là một cách giải quyết hợp lý hợp tình.
[1] Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
[2] Phan Văn Trường, sđd, trang 170-171.
[3] Vì hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích để "vạch trần chính sách thực dân" nên không phải việc gì cũng "công bố" được.
[4] Nguyễn Thế Phu là con tuần phủ Nguyễn Duy Hàn người đã bị bom của Quang Phục Hội (Phan Bội Châu) giết chết, nhưng gia đình Nguyễn Thế Truyền không hề nghĩ đến "thù" riêng, khi Phan Bội Bội Châu bị bắt, ông Truyền đã hết sức vận động: diễn thuyết, viết bài trên báo Le Paria và vận động Hội Nhân Quyền cứu cụ Phan khỏi án tử hình. Đặng Hữu Thụ ghi lại rất rõ những hoạt động của "đảng" Nguyễn Thế Truyền tại Pháp.
[5] Theo thư của Bùi Kỷ viết cho Ngô Đức Kế, Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 3, trang 183.
[6] Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 4, trang 117. Thu Trang, sđd, trang 61.
[7] Phan Văn Trường sđd, trang 141.
[8] Phan Văn Trường, sđd, trang 144- 145-146.
[9] Tranh luận tại quốc hội, ghi lại trên Echo Annamite ngày 11 và 12/1925, Phan Văn Trường trang 208-223.
[10] Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 4, trang 124.
[11] Nhà xuất bản Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997.
[12] Chủ báo La cloche fêlée, người Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An Ninh.
[13] Cochinchine, trang 156.
[14] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 126.
[15] Xin nhắc lại thời kỳ này hầu như mọi người đều có mặt: Nguyễn An Ninh ở Pháp từ 1918- 10/1922, chỉ về nước một lần trong hè 1920. Nguyễn Thế Truyền về nước một năm từ 8/1920 đến tháng 8/1921.
[16] Một người họ Nguyễn trong nhóm Yêu Nước.
[17] Daniel Hémery, Ho Chi Minh, De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, 1990, trang 45.
[18] Trích bài của Léo Poldès, trên báo Ici Paris Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong Hồ Chí Minh Le procès de la Colonisation française, L'Harmattan, 2007, trang 195. Aristophane là kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp.
[19] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 49
[20] Thu Trang-Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83.
[21] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 73.
[22] Được đưa lên Youtube, và ông Nguyễn Ngọc Quỳ ở Paris ghi lại trên mạng diendantheky ngày 16/4/2011.
[23] Carton 87, S. III, Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108.
[24] Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 74.
[25] Slotfom Série I, Carton II - Đặng Hữu Thụ, trang124.
[26] Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses de Sciences PO, 2000, trang 110.
[27] Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, trang 193.

1   2   3   4    5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17

No comments:

Post a Comment