CHƯƠNG 23 NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (1909-1997)
Ngày 30/10/1956, Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết 6 tiếng trước Mặt
Trận Tổ Quốc tại Hà Nội -3 giờ buổi sáng, 3 giờ buổi chiều- về
những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất. Trường Chinh, Xuân Thủy và Dương Bạch
Mai yêu cầu ông viết lại nội dung cuộc nói chuyện ứng khẩu thành văn bản. Ông
viết lại với tựa đề:"Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng
quan điểm lãnh đạo",đánh máy làm hai bản, trao cho Trường Chinh và Xuân Thủy,
chỉ giữ lại bản nháp viết tay.
Bài chính luận sâu sắc, chủ đích phân tích những sai lầm của chế độ, từ Cải Cách Ruộng Đất ở thôn quê, sang Cải Tạo Tư Sản, quản lý mậu dịch ở thị thành, chỉ ra nguồn cội của sai lầm: vì chế độ chính trị không dân chủ; và trình bàyphương pháp sửa đổi: thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, trong một chế độ dân chủ.
Bài chính luận sâu sắc, chủ đích phân tích những sai lầm của chế độ, từ Cải Cách Ruộng Đất ở thôn quê, sang Cải Tạo Tư Sản, quản lý mậu dịch ở thị thành, chỉ ra nguồn cội của sai lầm: vì chế độ chính trị không dân chủ; và trình bàyphương pháp sửa đổi: thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, trong một chế độ dân chủ.
Bài tham luận được gửi sang Rangoon, thủ đô Miến Điện, rồi đến
Pháp - theo Hoàng Văn Chí. Vậy Trường Chinh và Xuân Thủy, ai là người chuyển
băn bản Nguyễn Mạnh Tường ra ngoại quốc, và để làm gì? Để cho quốc tế biết tình
hình miền Bắc Việt Nam hay để buộc tội tác giả?
Nguyễn Mạnh Tường bị kiểm điểm rồi bị đuổi khỏi đại học, sống
trong hơn 30 năm sa mạc. 40 năm sau, ông viết tiểu thuyết Une voix dans la
nuit (Tiếng vọng trong đêm) về ba chính sách nòng cốt trong thời kỳ xây dựng
chế độ Cộng sản ở miền Bắc: Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Tư Sản, và Thanh Trừng
Trí Thức. Ông gửi bản thảo sang Paris. Đây là một trong 7 tác phẩm được hoàn tất
trong giai đoạn cuối đời, tất cả viết bằng tiếng Pháp, về hơn 60 năm
ông sống dưới chế độ cộng sản. Ngoại trừ cuốn Un excommunié - Kẻ
bị khai trừ, được Quê Mẹ in năm 1992 tại Paris, các tác phẩm khác, chưa
in.
Tại Paris trong bốn tháng -4/1989-1/1990- ông trả lời nhiều cuộc
phỏng vấn, được ghi âm, viết lại, in trên báo, và riêng chúng tôi cũng có dịp gặp
ông, nhờ đó, nhiều vấn đề được sáng tỏ hơn.
Ngày 27/7/2003, bác sĩ nha khoa Nguyễn Văn Lung (1916-2009)[1] người
tích cực hoạt động cho tổ chức Francophonie - Khối Pháp ngữ gửi đến
chúng tôi một tập tài liệu quan trọng về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, với lời
ghi: "Tôi xin gửi tới chị một số tài liệu về anh Tường để chị sẽ làm
hương hồn anh trở lại với chúng ta". Và ông Lung đề nghị cùng
chúng tôi làm một chương trình về luật sư Nguyễn Mạnh Tường trên đài RFI, dưới
dạng phỏng vấn, bởi ông biết rõ con người và đã được đọc nhiều tác phẩm chưa in
của Nguyễn Mạnh Tường. Đang chuẩn bị, thì ông được thư của bà Nguyễn Mạnh Tường
tỏ ý lo ngại, ông đành phải hoãn cuộc phỏng vấn, đợi khi nào thuận tiện hơn.
Tuy nhiên ông căn dặn chúng tôi có toàn quyền sử dụng tập tài liệu này trong
khuôn khổ văn hoá. Cũng xin nói thêm, Nguyễn Văn Lung và Joël Fouilloux, là hai
người có giấy ủy quyền của Nguyễn Mạnh Tường về việc in các tác phẩm của ông ở
ngoại quốc. Chúng tôi đang chờ đợi một dịp thuận tiện để công bố những tư liệu
này, thì ông Nguyễn Văn Lung đột ngột qua đời tại Paris ngày 8/10/2009.
Trong tập tài liệu này, ngoài hình ảnh, thư từ viết bằng tiếng
Pháp, trao đổi giữa Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung cùng một số người
Pháp, về vấn đề Francophonie, về việc in sách của luật sư tại Pháp, còn có bản
chụp hai cuốnContruction de l'Orient - Apprentissage de la Méditerranée - Xây
dựng Đông phương - Kinh nghiệm Địa Trung Hải và Le voyage et le
sentiment - Du hành và cảm xúc, kịch. Ngoài ra, có một bản đánh
máy, kê khai gần đủ các tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường, phần lớn chưa
in, và nhất là bản thảo đánh máy cuốn Une voix dans la nuit - Tiếng
vọng trong đêm do Nguyễn Mạnh Tường sửa lỗi.
Qua những tư liệu này, chúng tôi sẽ dựng lại chân dung Nguyễn Mạnh
Tường, chủ yếu dẫn trích từ các tác phẩm và từ lời nói của ông trong các buổi gặp
gỡ, trả lời phỏng vấn Phạm Trần, Hoà Khánh, ở Paris, và giáo sư Nguyễn Văn
Hoàn, học trò ông ở Hà Nội.
Phần thứ hai, chúng tôi sẽ giới thiệu tác phẩm Une voix
dans la nuit, cho tới nay, là cuốn sách duy nhất do một trí thức tự
do viết về những bi kịch đau thương còn khép kín. Như các tác phẩm khác của
Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit, có bút pháp mạnh mẽ, đầy hấp
lực và hình ảnh, mỉa mai châm biếm, chặt chẽ trong lập luận pháp lý, là sự đồng
quy của văn chương và luật pháp trong một ngòi bút nhà văn. Tập tài liệu của
nha sĩ Nguyễn Văn Lung trao cho chúng tôi năm 2003, với những bút tích quý giá
này, sẽ được gửi về Viện Bảo Tàng Văn Học hoặc Lịch Sử, khi điều kiện cho phép.
Ở trong nước, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh 16/9/1909
– 16/9/2009, qua một số bài viết, Nguyễn Mạnh Tường được thần tượng hoá trở lại,
với những mỹ từ "thông minh siêu việt, lưỡng khoa tiến sĩ, kỷ lục chấn
động học đường nước Pháp, nhà sư phạm lỗi lạc"... Những điều đó ít
nhiều có thật, tiếc rằng còn một sự thật đáng nói hơn là cuộc đời và tác phẩm của
ông, hiện vẫn bị chôn vùi trong bóng tối.
Duy chỉ có giáo sư Nguyễn Văn Hoàn là trung thành với lời nói của
thày Tường, còn một số học trò cũ, nay đã thành các nhà giáo nhân dân, không ngần
ngại xoá bỏ quãng đời sa mạc hơn 30 năm của thầy Tường, để thay thế bằng một sự
nghiệp liên tục tốt đẹp, không vết phong trần, ông Trần Văn Hà, giáo sư tiến
sĩ, viết: "Chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại, toàn gia
đình giáo sư Nguyễn Mạnh Tường mới trở về Hà Nội. Giáo sư tiếp tục giảng dạy tại
trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội và làm việc tại Viện Nghiên Cứu Giáo Dục từ 1954
đến 1970. Từ khi nghỉ hưu, giáo sư dạy Pháp ngữ tại nhà theo yêu cầu, và theo
đuổi những công trình khoa học của mình."[2]
Viết không đúng sự thực là cách chôn thày thêm lần nữa, đáng ngại
là nó xẩy ra ở những ngòi bút của các giáo sư đại học, mà sự chính xác phải là
châm ngôn giảng dạy:
Ví dụ, về việc Nguyễn Mạnh Tường gặp chủ tịch Hồ Chí Minh trong
đại hội"Liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc" năm
1952 ở Việt Bắc, ông Nguyễn Đình Chú, nhà giáo nhân dân, cho rằng: "Riêng
đối với giáo sư [NMT]đây là những giây phút (...) gắn bó thiêng liêng máu
thịt giữa giáo sư với cách mạng, với lãnh tụ, đến mức cực độ". Không
biết ông căn cứ vào đâu mà viết như vậy, bởi Nguyễn Mạnh Tường là người rất thận
trọng trong lời nói cũng như chữ viết, khó có thể tìm thấy một tình cảm "cực
độ" của ông đối với một đối tượng nào.
Riêng về đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ, Hoàng Cầm kể lại
như sau: Năm 1952, tôi đem đội văn công của tôi đi phục vụ Đại Hội Chiến Sĩ Thi
Đua Anh Hùng Toàn Quốc. Đó là đại hội đầu tiên bầu ra các mặt anh hùng lao động,
công nghiệp, nông nghiệp, quân đội... Tôi phải phục vụ đại hội trong 10 ngày,
tôi nhìn thấy Trần Đức Thảo và Nguyễn Mạnh Tường và có nói chuyện với hai ông.
Trong đại hội, bác Hồ có phát biểu một câu ngăn ngắn thôi về trí thức: "Trí
thức là những người mà nếu đứng về phía nhân dân làm việc phục vụ nhân dân tốt
thì xứng đáng gọi là trí thức xã hội chủ nghiã, còn nếu trí thức chỉ có sách vở
chẳng làm gì thực tế để giúp cho đời sống của nhân dân thì cái trí thức ấy
không bằng cục phân". Tôi nghe thấy hơi khó chịu, kể ra thì cũng đúng
đấy, nhưng mà người đứng đầu một nước không nên nói như thế, nhất là cái câu ấy
ông Mao đã nói ở bên Trung Quốc rồi, ông Hồ chẳng qua chỉ nhắc lại thôi"[3].
Trong bối cảnh ấy, làm sao nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường có thể "cảm
thấy gắn bó thiêng liêng máu thịt với cách mạng và lãnh tụ đến cực độ được?" Hoặc
để chứng minh những"vinh quang chói lọi" của thày Tường, ông
Nguyễn Đình Chú không ngần ngại xác định: "thân phụ là một công nhân", "Nguyễn
Mạnh Tường đã liên tiếp tốt nghiệp cao đẳng văn chương, cử nhân văn chương, cử
nhân luật khoa, làm luật sư toà thượng thẩm Montpellier, cao đẳng ngôn ngữ, và
văn tự cổ"; và luận án tiến sĩ được phê "siêu ưu" (ông
dịch chữ très bien)[4].
Chẳng hiểu Pháp có các bằng cao đẳng văn chương, cao đẳng ngôn ngữ, và văn
tự cổ từ thủa nào? Và Nguyễn Mạnh Tường chỉ mới tập sự luật sư, khi ở
Pháp.
Ông Phong Lê, giáo sư, Viện trưởng Viện Văn Học, viết: "Năm
1928, đỗ cao đẳng văn chương, năm 1929, đỗ cử nhân văn chương, cũng năm 1929, đỗ
cử nhân Luật. Năm 1931, đỗ cao đẳng ngôn ngữ văn tự cổ (tức chữ La Tinh và Hy Lạp
cổ). Rồi ông giải thích thêm: "Mà cử nhân thì còn lâu mới đến Tiến
sĩ, sau khi vượt được cái ngưỡng cửa Thạc sĩ. (Lúc này tất cả các thầy Pháp ở Đại
học Đông Dương đều mới chỉ có bằng Thạc sĩ)"[5]. Thì
ra các giáo sư Nguyễn Đình Chú và Phong Lê chẳng hiểu gì về văn bằng ở Pháp.
Riêng ông Phong Lê còn nhầm Thạc Sĩ - Agrégé của Pháp, một kỳ thi tuyển
rất khó, với văn bằng hiện nay ở Việt Nam gọi là Thạc Sĩ, tương đương với Maîtrise của
Pháp, hay Master của Mỹ. Khi dịch Maîtrise hay Master thành Thạc
Sĩ, Bộ Giáo Dục, vì không hiểu lịch sử của hai chữ Thạc Sĩ, nên đã gây lầm
lộn như thế.
Thạc sĩ là một kỳ thi tuyển - concours chọn các giáo
sư của Pháp để dạy các trường trung học, là thạc sĩ văn chương, khoa học, hay
đại học là thạc sĩ luật hayy khoa - nay đã bỏ. Để dự thi thạc
sĩ văn chương hay khoa học, thí sinh phải có bằng cử nhân- licence
ngày trước, maîtrise hiện nay, riêng thạc sĩ luật và y khoa đòi hỏi phải có bằng
tiến sĩ.
Việt Nam có Nguyễn Mạnh Tường đỗ 2 bằng Tiến sĩ quốc gia năm
1933, Phạm Duy Khiêm đỗ thạc sĩ văn chương năm 1935, Hoàng Xuân Hãn, thạc sĩ
toán năm 1936, ... sau này về y khoa có thạc sĩ Trần Đình Đệ... đều là những
người học giỏi nổi tiếng. Cũng xin nói thêm rằng Pháp coi ngành giáo dục rất mực
quan trọng, cho nên, những người đậu thạc sĩ văn chương hay khoa học, là những
phần tử ưu tú hàng đầu của nước Pháp, được đưa vào dạy trung học. Việc dạy
trung học, không có nghiã là bằng thạc sĩ yếu thế hơn bằng tiến sĩ, mà chứng tỏ
Pháp coiviệc rèn luyện học sinh trung học quan trọng hơn việc dạy đại học, vì
bậc trung học mới là nền tảng của thanh niên. Nguyễn Mạnh Tường, tuy đỗ bằng tiến
sĩ, sau này dạy đại học, nhưng cũng như tất cả những tiến sĩ khác ở Pháp, ông
không thể không kính trọng những người như Phạm Duy Khiêm, Hoàng Xuân Hãn, đỗ bằng
thạc sĩ mà chỉ dạy trung học.
● Tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường
Trong lá thư đề ngày 16/8/1994 gửi Nguyễn Văn Lung, Nguyễn Mạnh
Tường viết: "Tôi vẫn tiếp tục làm việc, dậy học và hoàn tất cuốn tiểu
thuyết mới nhất Palinodies- Phủ nhận, cuốn sách thứ 18 của tôi". Như
vậy tạm coi Palinodies là tác phẩm cuối cùng, và là cuốn sách thứ 18 của
ông.
Với những tư liệu hiện hành, xin tạm kê khai những tác phẩm của
Nguyễn Mạnh Tường như sau:
♦ Thời kỳ 1932, các luận án, tác phẩm Pháp văn:
1/ L'Individu dans la vieille cité annamite- Essai de
synthèse sur le Code de Lê - Cá nhân trong xã hội cổ Việt Nam - Tổng luận Luật
Hồng Đức: Luận án tiến sĩ Luật.
2/ Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset
- Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset, luận án chính (thèse
principale), tiến sĩ văn chương.
3/ L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières - Việt
Nam trong văn chương Pháp, tác phẩm của Jules Boissières, luận án phụ
(thèse complémentaire), tiến sĩ văn chương.
♦ Thập niên 1940, tác phẩm Pháp văn:
4/ Sourires et larmes d'une jeunesse - Nụ cười và
nước mắt tuổi trẻ, Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937.
5/ Construction de l'Orient - Pierres de France - Xây
dựng Đông Phương - Nền tảng Pháp, Revue Indochinoise, 1937.
6/ Construction de l'Orient - Apprentissage de la
Méditerranée - Xây dựng Đông Phương - Kinh nghiệm Địa Trung Hải, Collection
Tendances, Hà Nội, 1939.
7/ Le voyage et le sentiment - Du hành và cảm xúc,
kịch ba màn, Collection Tendances, Hà Nội, 1943.
♦ Sau 1950, tác phẩm Việt văn:
8/ Một cuộc hành trình, nửa hồi ký, nửa nghị luận.
Hành trình một người trí thức tham gia kháng chiến, Minh Đức, Hà Nội, 1954.
♦ Sau 1958, tác phẩm Việt văn:
9/ Lý luận giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ
Erasme tới Rousseau - Doctrines pédagogiques de l'Europe du XVI au XVIIIe
siècle, d'Erasme à Rousseau, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994.
10/ Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp - Eschyle et la
tragédie grecque, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1996.
11/ Orestia, dịch và chú giải bi kịch của Eschyle sang tiếng
Việt. Chưa in.
12/ Virgile, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại Tên
gốc:Virgile và anh hùng ca La tinh - Virgile et l'épopée latine, nxb Khoa
Học Xã Hội, 1996.
Bắt đầu viết tự truyện, tiếng Pháp: Larmes et sourires
d'une vieillesse.
♦ Sau khi đi Pháp về (1990-1994),
hoàn tất các tác phẩm, Pháp văn:
13/ Larmes et sourires d'une vieillesse - Nụ cười và nước mắt
tuổi già, tự truyện, ba cuốn, chưa in.
14/ Triptyque - tạm dịch: Bức họa ba tấm, chưa
in.
15/ Un excommunié - Kẻ bị khai trừ, Quê Mẹ, Paris, 1992.
16/ Malgré lui, malgré elle - Mặc hắn, mặc nàng (l'amour
conjugal sous le régime communiste - tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản).
Chưa in.
17/ Partir, est ce mourir?- Đi là chết? (Tragédie de
l'émigration - Bi kịch di dân). Chưa in.
18/ Une voix dans la nuit - Roman sur le Việt Nam
1950-1990 - Tiếng vọng trong đêm - Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến
1990. Chưa in.
19/ Palinodies - Phủ nhận. Chưa in.
Trừ bản dịch Orestia, thì đúng Nguyễn Mạnh Tường đã viết 18 cuốn
sách, kể cả các luận án tiến sĩ.
Ngoài bốn cuốn tiếng Việt, phần còn lại, để bảo vệ tự do của
ngòi bút, để thế giới có thể đọc được, để giữ an ninh cho gia đình và bảo toàn
bản thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã chọn tiếng Pháp. Vì vậy, muốn đọc và hiểu ông, cần
phải biết tiếng Pháp, hoặc phải có bản dịch. Văn chương điêu luyện của ông
không dễ dịch, bản dịch Un excommunié - Kẻ bị mất phép thông
công của Nguyễn Quốc Vĩ[6]mới
chỉ là bản đầu tiên, chưa diễn đạt được văn phong uy vũ của Nguyễn Mạnh Tường.
Ngay trong cái tựa Un excommunié, tác giả đã có ý so sánh chế độ cộng sản
như một giáo hội cuồng tín, loại trừ kẻ ngoại đạo - những người không cộng sản
- vì vậy, nên dịch theo nghiã bóng Kẻ bị khai trừ, hơn là dịch theo nghiã
đen,Kẻ bị mất phép thông công, yếu và khó hiểu.
● Con đường hoà hợp văn hoá Đông Tây
Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố Hàng Đào, nguyên
quán: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mất ngày 13/6/1997 tại nhà riêng, 34
Tăng Bạt Hổ, Hà Nội. Cha: Nguyễn Căn Cát, công chức.
Năm 1937, kết hôn với cô Tống Lệ Dung, có ba con: Nguyễn Tường
Hưng và Nguyễn Dung Nghi, Nguyễn Dung Trang. Học tiếng Pháp từ nhỏ ở Collège
Paul Bert, rồi lycée Albert Sarraut, Hà Nội. 1925,16 tuổi, đậu Tú Tài Triết Học
hạng ưu. Được học bổng sang Pháp học Luật và Văn Chương tại đại học
Montpellier.
1927, đậu cử nhân văn chương với 4 chứng chỉ: văn chương Pháp,
văn chương Hy Lạp, văn chương La Tinh và Bác ngữ học - Philologie. 1930, đậu cử
nhân Luật. Dự định thi tuyển Thạc Sĩ - concours d'agrégé để dậy học,
nhưng vì quốc tịch Việt nên không được thi. Sửa soạn luận án tiến sĩ quốc
gia - doctorat d'état. Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại
toà Phúc Thẩm Montpellier.
Tháng 5/1932, Nguyễn Mạnh Tường bảo vệ luận án tiến sĩ Luật, đề
tài:L'Individu dans la vieille cité annamite - Essai de synthèse sur le Code de
Lê - Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ - Tổng luận Luật Hồng Đức. Tháng 6/1932,
bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur
dramatique du théâtre d'Alfred de Musset - Giá trị bi kịch trong tuồng của A.
Musset và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française,
Jules Boissières[7]-
Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières.
Trả lời phỏng vấn của Phạm Trần tại Paris, năm 1989, Nguyễn Mạnh
Tường giải thích:
"Chính sách đàn áp của thực dân (đặc biệt sau vụ nổi dậy của
Việt Nam Quốc Dân Đảng), chương trình học, cũng như mặc cảm lạc hậu về đất nước
khiến người trí thức hồi đó dễ xa lìa mạch sống dân tộc. Thế nên, cái vấn nạn lớn
nhất của chúng tôi thời đó là làm cách nào để dung hợp hai nền văn hoá Đông Tây
đối chọi nhau. (...) Để hoà hợp, căn bản đầu tiên là phải hiểu nhau. Hai nền
văn hoá phải cho nhau biết bản sắc, lề lối suy nghĩ (mentalité) của mình. Từ
đó, gạn đục khơi trong để tổng hợp. Và căn bản nghiên cứu của tôi phát xuất từ
nhận định đó. Tôi khảo sát nét hay của văn minh Âu. Tôi mơ ước đem văn minh vật
chất Âu kết vào vũ trụ tình cảm Đông (...)
Ngay từ khi viết luận án, tôi đã mang ý hướng ấy. Luận án
Luật tôi dành cho Việt Nam. Tôi khảo sát cái chủ nghiã cá nhân (một sản phẩm đặc
thù Âu Tây), đã thể hiện ra sao trong văn hoá Việt, cụ thể qua Luật Hồng Đức
(thế kỷ XV), một bộ luật còn mang nhiều dân tộc tính. Đề tài chính của luận án
văn, tôi dành cho văn hoá Pháp; đề tài phụ tôi dùng J. Boissières để kết nối
Đông Tây. Boissières đã vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đã
đặt chính sách thực dân trước những vấn nạn lương tâm khó xử"[8].
● Đậu hai bằng tiến sĩ ở tuổi 22
Một trường hợp hiếm có ở đại học. Nguyễn Mạnh Tường thành công
vì làm việc cật lực:
"Từ lớp sáu cho tới tú tài, mỗi tuần tôi có thói quen đọc 2
cuốn tiểu thuyết Tây. (...) và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi
sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ thì đi lớp; chiều lại học tới
khuya"[9].
Tháng 9/1932, ông về nước 3 tháng, rồi lại sang Pháp. Việc này,
trong các bài trả lời phỏng vấn ở Paris, không thấy ông nói đến. Một số người
đưa ra thuyết:"chính quyền thực dân Pháp không muốn dùng ông. Không tìm được
việc làm xứng đáng với học vị của mình, ông lại sang Pháp"[10]. Nhưng
theo Nguyễn Văn Hoàn, thì Nguyễn Mạnh Tường kể lại rằng: "Về nước có
hai viên mật thám, trong đó có Louis Marty gặp và gợi ý tôi vào làm việc với Bảo
Đại, cấp bậc Thượng thư. Tôi từ chối, sau đó họ gây khó khăn, ở nhà ba tháng,
tôi trở lại Pháp"[11].
Chứng này có thể tin được vì Nguyễn Mạnh Tường và Bảo Đại
cùng về nước tháng 9/1932, và bản thân ông muốn đứng về phía dân, không tham
chính.
Tháng 12/1932, ông trở lại Paris. Từ 1933-1936: du lịch nhiều nước
Âu Châu. "Thành thật nói, tôi đã trở thành một hiện tượng. Các báo ở Paris
và Montpellier dành cả số nói về tôi. Có tờ coi sự thành công của tôi là một
"sai lầm" của Pháp - ông muốn nói đến bài của Clément Vautel.
Song hầu hết đều nói tốt. Cũng nhờ vậy mà nhiều đại học Âu Châu biết và mời tôi
tới thăm. Tôi đã có dịp Âu du một vòng không mất tiền từ London sang La Haye xuống
Bruxelles, Berlin, Athènes, Rome, Istanbul, Vienne, Madrid... Tôi còn nhớ trên
đường từ Berlin về Vienne thời đó (1933) tôi ngang qua Munchen và tham gia cuộc
biểu tình lớn của Hitler tổ chức."[12]
Chúng ta cũng nên đọc qua bài báo của Clément Vautel[13] mà
Nguyễn Mạnh Tường vừa nhắc, tiêu biểu cho khuynh hướng thực dân ngạo mạn và kỳ
thị. Bài ngắn, chúng tôi dịch cả để độc giả thấy giọng điệu xỏ xiên này:
"Một tay An-nam-mít 22 tuổi, tên Nguyễn Mạnh Tường, vừa giật
dễ dàng hai bằng tiến sĩ luật và văn chương ở đại học Montpellier. Hắn chỉ học
có năm năm đã đoạt hai phẩm hàm cao nhất của phương Tây. Tay trí thức "da
vàng" này, đặc biệt nổi trội khi trình luận án văn chương với đề tài tuồng
Alfred de Musset, có thể dạy cho bọn bỉnh bút của ta một bài học đích đáng. Ban
giám khảo đã có lời khen rồi, tôi chả có tư cách gì mà chêm vào nữa.
Thực đếm không xuể số trẻ Đông Dương đoạt đủ loại bằng cấp tại
Pháp: chúng đạt những thành quả ở đại học mà bọn "rợ trắng" không khá
bằng, thèm muốn.
Rất chăm chỉ, thông minh, lại đầy tham vọng, những tay Á châu
này tháo gỡ như bỡn những bí quyết trong đỉnh cao học thuật của chúng ta, rồi về
xứ rêu rao:
- Cái văn minh nức tiếng kia rút cục chỉ có thế ư? Xa trông tưởng
ghê gớm, chứ đến gần, nào có ra gì!
Vì vậy, tôi tự hỏi, chúng ta chẳng đã phạm những nhầm lẫn sơ đẳng
nhất, khi dạy cho các tướng này những bí quyết "văn hoá" của chúng
ta, để khi về nước, chúng không còn tin vào tính ưu việt của giống nòi da trắng
đang bảo hộ chúng.
Việc mở cửa cho bọn bản xứ vào các đại học của ta, và tưới xả
láng chúng những bằng tiến sĩ này nọ, xem thì cũng ngộ đấy; nhưng chớ có ảo tưởng,
coi đó là phương tiện xoá dấu vết xâm lăng để từ thời đại đô hộ nhẹ bước sang
thời đại cộng tác.
Không phải tất cả những tên da vàng được ta bôi trát thứ chủ
thuyết vị trí tuệ (intellectualisme) trắng này, sẽ xoay sang đỏ choé khi chúng
về tới bờ sông Hồng, nhưng nhiều đứa trong bọn sẽ trở thành cán bộ của cái đảng
cộng sản, mà ở Âu Châu, thì tuyên bố vô tổ quốc, nhưng về đến nền thuộc địa, lại
rao giảng chủ nghiã quốc gia trăm phần trăm.
Thử hỏi làm sao mà khác cho được? Cái làm tôi ngạc nhiên, là một
cô gái Đông dương -bởi có cả bọn sinh viên con gái da vàng nữa- về nước với bằng
giáo sư sử học, tuyên bố: Chừ tôi mới chính là Jeanne d'Arc đây! Vậy mà ả vẫn
chưa thành "Nữ Thánh đồng trinh đỏ" của cuộc cách mạng giải phóng.
Theo tôi, khôn ngoan ra, thì ta nên khai hoá dân bản xứ bằng
chính cái văn miêng của chúng. Thử hỏi cái luận án của một tay An-nam-mít về tuồng
hát của Musset, là cái giống gì? Dù tuồng đó có đậm đà, tinh tế, cao nhã, gì gì
đi nữa, thì nó cũng chẳng làm cho kẻ bị đô hộ có cảm tưởng tốt đẹp về đạo đức của
người đô hộ.
Đừng quên Gandhi cũng đã đỗ đạt ở bên kia bờ biển Manche, và, với
cái guồng sợi của mình, hắn đã làm cho nước Anh rối loạn... Cứ từ từ, rồi một
ngày, chúng ta cũng sẽ như vậy"[14]. Bài
báo của Vautrel nói lên lòng căm thù chủng tộc và sự ganh tỵ nhân tài.
● Về nước, những sáng tác đầu tiên
Chuyến đi thăm miền Địa Trung Hải đã giúp Nguyễn Mạnh Tường viết
4 tác phẩm: Sourires et larmes d'une jeunesse, Construction de l'Orient -
Pierres de France, Construction de l'Orient - Apprentissage de la
Méditéranée và Le voyage et le sentiment.
Ông giải thích ý nghiã hai tác phẩm đầu:
"Tây cho Đông kỹ thuật, quan niệm về nhân quyền, về cái chừng
mực và đa dạng của con người, về phương pháp suy tư và về một quan điểm đời sống.
Và tôi đã viết hai cuốn: "Pierres de France (Nguyên liệu từ Pháp),
"Apprentissage de la Méditérranée" (Học hỏi văn minh Địa Trung Hải) để
diễn tả những điểm trên"[15].
Hai cuốn sách còn lại, viết về sự xung đột giữa hai nền văn minh
Đông Tây:"Sourires et larmes d'une jeunesse (Nụ cười và nước mắt tuổi
thanh xuân) diễn tả cái xung đột giá trị nơi một thanh niên Việt thấm nhiễm văn
hóa Tây. Chàng thanh niên được ví như đứa con hoang đàng trong Kinh Thánh, đã
quen với nếp sống tự do, nay trở về bị truyền thống gia đình ràng buộc. Và
chàng đã phải tự đấu tranh tìm một giải pháp dung hòa cho cuộc sống. Vở kịch Le
voyage et le sentiment (Du hành và tình cảm) nói lên hai khía cạnh khác nhau giữa
Đông (nặng tình cảm, thủy chung) và Tây (như một tay du lịch luôn đi tìm của lạ).
Các sách đó tôi viết từ năm 1930-1940, chỉ xuất bản vài trăm cuốn mỗi thứ và đã
hết hơn nửa thế kỷ nay. Giờ muốn in lại một ít mà đành chịu vì thiếu phương tiện"[16].
Khác hẳn những người lớp trước như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Văn Trường,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh... hoặc cùng thời với ông như Phạm
Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng (cả hai đều sinh năm 1909 như ông), Nguyễn Mạnh Tường
sùng bái cái học Tây phương, trong khi những người kia, dù phục Tây phương,
nhưng vẫn cho Đông phương là nguồn cội của tư tưởng.
Tóm lại, theo người thanh niên Nguyễn Mạnh Tường, để xây dựng một
Đông Phương mới, chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm Địa Trung Hải, tức là học sự
giao lưu văn hoá Ả Rập - Hy La ở vùng Địa Trung Hải. Giả sử hồi đó, ông đi Ấn Độ,
thì tư tưởng của ông có thể thay đổi: bởi Ấn Độ mới là nơi loài người thực hiện
sự giao lưu văn hoá sớm nhất và thành công nhất. Mặc dù triết học Ấn Độ là cha
đẻ của triết học nhân loại và đền đài Ấn Độ là những kỳ công kiến trúc, điêu khắc,
hội hoạ Á Âu; nhưng Ấn Độ hiện hành, cũng như Ai Cập, Trung Hoa, vẫn còn là những
nước "thứ ba". Vậy, văn minh-văn hoá và văn minh-khoa học; văn
minh-văn hoá và dân chủ-tự do, có những tương quan như thế nào? Đó là những câu
hỏi phức tạp khác.
Năm 1936, về nước, ông dạy văn chương Pháp ở trường Bảo Hộ[17] và
trường Cao Đẳng Công Chánh[18]: "Sau
5 năm đi du lịch, năm 1936 tôi về nước được vào dạy ở Trường Bảo Hộ (Trường Bưởi).
Nhà ở số 1 Mai Xuân Thưởng, trông ra Hồ Tây, chỉ cách trường 200 mét. Đây là một
quãng thời gian hạnh phúc của đời tôi. Đồng nghiệp thì có Hoàng Xuân Hãn dạy
Toán, Nguyễn Văn Huyên dạy Sử, Kontum dạy Vật lý"[19].
Ngoài ra, ông còn học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt,
tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng
Kim, hợp tác làm Việt Nam Tự Điển với nhóm Khai Trí Tiến Đức: "Bỗng
nhiên tôi nhớ năm 1936, sau chuyến về nước ở luôn, tôi bắt đầu học chữ nho và
góp phần làm cuốn Việt Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và cộng tác
biên soạn tự điển Khai Trí Tiến Đức"[20]. Trong
thời kỳ này, ông làm phụ tá cho thị trưởng Hà Nội. Georges Boudarel, trong bài
nghiên cứu tựa đề Le tort de parler trop tôt -Sai lầm vì nói sớm quá, chủ
đích dịch và giới thiệu bài Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất xây
dựng quan điểm lãnh đạo với độc giả Pháp, đã phân tích khá rõ tâm trạng
Nguyễn Mạnh Tường và thành phần ưu tú của đất nước theo Việt Minh năm 1945, như
sau:
"Trở về Bắc Kỳ, năm 1936, ông dạy văn chương Pháp tại trường
Bảo Hộ và trường Cao Đẳng Công chánh. Vì cứ in hoài những tập tiểu luận ngẫu hứng
từ những ngày sống ở Pháp, đã để lại trong ông những cảm tưởng không phai mờ
(...) cuối cùng, ông trở thành đệ nhị phụ tá cho Thị Trưởng thuộc địa Hà Nội.
Dù hết sức ngưỡng mộ Paris và nước Pháp (khó có thể làm hơn),
nhưng tới giờ phút quyết định, Nguyễn Mạnh Tường trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn
là người Việt. Dường như ông nghĩ, mình chỉ trung thành với những lý tưởng hun
đúc ở Paris: độc lập, tự do, nhân quyền và dân quyền. Năm 1945, cùng toàn bộ
thành phần ưu tú của dân tộc (kể cả các vị giám mục thời ấy), ông đi theo chính
phủ Hồ Chí Minh"[21].
1940, ông nghỉ dậy học, mở văn phòng luật sư: "Năm
1940, Pháp thua trận, Nhật đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội Đồng, do Phạm
Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa, gạo cho Nhật. Họ muốn tôi tham gia
nhưng tôi từ chối. Họ lại gây khó khăn, tôi nộp đơn xin từ chức, ra mở văn
phòng luật sư ở phố Trần Hưng Đạo[22] đây
là nghề tôi đã tập sự bên Pháp"[23].
Theo Nguyễn Đình Nhân, "Từ năm 1942 đến 1945: ông mở
phòng luật sư chung với hai đồng nghiệp Trần Văn Chương[24] và
Vũ Văn Hiền"[25].
Tháng 10/1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh lập thêm Đại Học Văn
Khoa, Nguyễn Mạnh Tường được cử dạy văn chương Tây phương.
● Hội nghị Đà Lạt (17/4/1946 - 12/5/1946)
Hội nghị Đà Lạt họp từ 17/4/1946 đến 12/5/1946. Bàn về các vấn đề
đã dự trù trong hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Phía Việt Nam, Nguyễn Tường Tam làm
trưởng phái đoàn, Võ Nguyên Giáp, phó. Phía Pháp, Max André, nghị sĩ, trưởng
phái đoàn.
Chủ tịch các ủy ban: Hoàng Xuân Hãn, chính trị. Võ Nguyên Giáp,
quân sự. Nguyễn Mạnh Tường, văn hoá. Trịnh Văn Bính, kinh tế và tài chính.
Về hội nghị này, trả lời Hoà Khánh ở Paris, năm 1990, Nguyễn Mạnh
Tường cho biết:
"Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham
gia Nhân Văn Giai Phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của
tôi nói là cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến
cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ Tịch. Ở đó Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng vụ Lễ Tân ra
tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói: "Như Ngài đã
biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới
giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn giùm cho một
bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernementale) để sử dụng như một cương
lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị". Tôi đáp: "Công việc này quan
trọng quá, xin cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi". Cụ Hồ
nói: "Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới
có thể làm được thôi". Cuối cùng, tôi nhận lời, về nhà, đóng cửa văn phòng
luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản
căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ chấp
thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội Nghị Đà Lạt. (...)
Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hội nghị, hai bên
đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tùy viên của thủy đô đốc
D'Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thủy đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo
là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách gì để gặp gỡ thủy đô đốc cả.
Tên tùy viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ
không phải để bàn bạc chuyện gì quan trọng cả. Nghe thế, tôi rời bàn tiệc ra
ngoài hành lang gặp D'Argenlieu. Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc
nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về công ăn việc làm thôi. Thế
nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với
giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước.
- Luật sư có biết tin đồn đó phát xuất từ đâu không?
- Thì cũng phải có người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn
đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến
gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải, bảo Tường làm cái gì mà người ta lại
tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật.
Chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp,
tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất"[26].
Về việc này, Nguyễn Văn Hoàn ở Hà Nội, ghi như sau: "Lúc
tiễn đoàn lên đường, cụ Hồ nói to: "Xin chúc anh em đi thành công, đặc
biệt tôi có lời khuyên: Nội bộ đoàn kết, phải đấu tranh găng nhưng
không được gãy". Hoàng Xuân Hãn có viết hồi ức về Hội nghị nhưng
không nhắc lại chi tiết quan trọng này, tôi hỏi thì anh bảo quên!" (...)
Kết thúc hội nghị, D'Argenlieu có tổ chức tiệc trà tiễn Đoàn. Một
sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô Đốc muốn gặp riêng Ngài. Tôi nói:
Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô Đốc. Có anh em nói: Nó mời thì
anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp, đông khoảng một trăm người, đến gặp nó,
chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: “Tường
là tay trong của Pháp, Tường phản quốc”, Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận
mới được dập tắt"[27].
Boudarel viết: "Sau khi ở hội nghị về, Tường không được
trao cho nhiệm vụ gì nữa, cũng như nhiều người yêu nước không cộng sản khác.
Tuy vậy khi cuộc chiến bùng nổ ngày 19/12/1946, ông vẫn đi theo kháng chiến"[28].
● Đi kháng chiến, nhưng
không tham gia Mặt Trận Việt Minh
Ngày 19/12/1946, toàn quốc kháng chiến. Nguyễn Mạnh Tường
đang biện hộ ở toà án Hải Phòng. Ông đi vòng xuống Nam Định để về Hà Nội, chuẩn
bị gia đình tản cư. Trước khi đi, ông dâng toàn bộ tài sản cho cách mạng. Gia
đình ông về Hà Nam, Ngô Khê. Pháp đánh Hà Nam, chạy sang Thái Bình. Thái Bình
thuộc Liên khu Ba là một địa điểm tụ họp đông đảo trí thức văn nghệ sĩ. Tháng
10/1948, Hội Văn Nghệ Liên Khu Ba được thành lập. Theo Bùi Huy Phồn[29] và
Phạm Duy[30] đây
là thời kỳ đẹp nhất của kháng chiến: các trí thức, văn nghệ sĩ khuynh hướng
khác nhau cùng hoạt động chung. Khi Pháp đánh Thái Bình, Chi Hội Văn Nghệ phải
chuyển về Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Văn nghệ sĩ người về thành, người vào Khu Bốn tức
Thanh Hoá vùng tướng Nguyễn Sơn.
Trả lời câu hỏi của Hoà Khánh ở Paris: Luật sư có thể cho
biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến
như thế nào?
Nguyễn Mạnh Tường xác định: "Thật ra, tôi không hề
tham gia Mặt Trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn
ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho
mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì
không nên tham chính. Do đó, tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng
của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về
phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị
(politique spéculative), nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.
Cách Mạng Tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi muốn đóng góp vào
việc xây dựng đất nước trong hai lãnh vực sở trường của mình: luật học và
nghiên cứu văn học"[31].
Nguyễn Văn Hoàn ghi: "Năm 1946, tôi đang cãi ở Hải
Phòng thì tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Tôi phải đi đường Nam Định
để về Hà Nội, rồi tản cư đi Hà Nam, ở Ngô Khê. Nó đánh Hà Nam, chạy sang Thái
Bình, ở Hưng Nhân. Nó đánh Thái Bình, chạy vào Thanh Hóa. Hồi dạy Dự Bị Đại Học,
tôi ở dốc Đu, Thiệu Hóa, bên cạnh là nhà Hồ Đắc Liên, gần nhà Nguyễn Khánh Đàm,
anh ruột nhà văn Nguyễn Tuân"[32].
● Làm luật sư trong kháng chiến
Trong kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường cãi ở Toà Án nào? Và cãi
cho ai? Một điều chắc chắn: ông cãi trong các toà án Kháng Chiến- tức là toàn
án của Việt Minh. Vậy loại toà án nào? Vì sau này, trong thời Cải Cách Ruộng Đất,
ông cho biết các Toà Án Nhân Dân không cần chánh án và luật sư. Chắt lọc một
số thông tin đáng tin cậy, ta có thể xác định: ông cãi ở những tòa án quân sự,
đại hình, và được chính phủ kháng chiến cử làm luật sư chỉ định - avocat
d'office, biện hộ cho những người quốc gia bị Việt Minh bắt và xử tội.
1/ Boudarel viết: "Trong những năm đầu chiến tranh,
hình như luật sư Tường đã nhận cãi cho những trường hợp vô vọng, ông nhận biện
hộ cho những người quốc gia bị kết tội phản quốc mà không có chứng cớ gì minh bạch.
Lần vận động (hay lần cãi) cuối cùng hình như ở Đức Thọ, năm 1951"[33].
2/ Trần Văn Hà viết: "Gia đình tôi (Nguyễn Mạnh
Tường) chuyển dịch từ Phủ Lý về Thái Bình, rồi về Thanh Hoá. Tôi tiếp tục
giảng dậy cho lớp Dự Bị Đại Học ở Thanh Hoá, được cử làm luật sư của chính phủ
đi bào chữa cho tội nhân tại toà án quân sự, đại hình. Cứ mỗi tháng là phải tới
một tỉnh, với chiếc xe đạp tòng tọc. Nhiều đoạn đường, cái chết kề bên. Anh
"ba lô viên" của tôi bị trúng đạn địch, đã bỏ mạng tại bờ sông Hồng"[34].
3/ Trong bài Kiều Mai Sơn kể lại lời Vũ Đình Hoè, có một đoạn
đáng chú ý:"Tôi (Vũ Đình Hoè) lúc bấy giờ là bộ trưởng Bộ Tư
Pháp nên cũng được họp trong phiên Chính phủ họp bàn về xử vụ ông Vĩnh Thụy
đào nhiệm. Đó là vào hồi năm 1950 - 1951. Cụ Hồ không muốn truy tố.
Để hợp thủ tục dân chủ, Hồ Chủ tịch đề nghị giơ tay biểu quyết.
Tất cả thành viên chính phủ đều giơ tay lên, trừ cụ Bùi Bằng Đoàn[35]-
Trưởng ban Thường Trực Quốc hội. Cụ nói đồng ý là ông Vĩnh Thụy phạm tội nặng đối
với Tổ quốc, nhưng cụ không nỡ giơ tay biểu quyết. Mọi người nhớ xưa cụ đã một
thời giữ chức thượng thư trong triều đình Bảo Đại. Cuối cùng chính phủ quyết định
giao cho tòa án xét xử theo đúng pháp luật, phải làm đàng hoàng đầy đủ thủ tục,
có luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt.
Mấy tháng sau, Toà Án Quân Khu III được thành lập do ông Lê Văn
Chất làm chánh án, ông Bùi Lâm làm công cáo uỷ viên, một hội thẩm chính trị là
đại biểu quân đội, một hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đình Trúc, thẩm phán do
giám đốc Tư Pháp Khu III phái sang. Hai luật sư cùng bênh vực cho bị cáo Vĩnh
Thụy là ông Đỗ Xuân Sảng và ông Nguyễn Mạnh Tường.
Bản cáo trạng buộc tội ông Vĩnh Thụy rất đanh thép. Sau khi đã
thực thi đủ thủ tục pháp lý và bàn luận kỹ càng, hội đồng xét xử đã ra phán quyết
vắng mặt bị cáo: Tử hình. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đề nghị ghi vào bản
án xử theo điều luật của nhiều nước trên thế giới là: Tử hình vắng mặt,
khi nào bắt lại được can phạm thì sẽ mở lại phiên toà chứ không được thi hành
cái án đã tuyên trước đó"[36].
Vẫn trong bài này, Kiều Mai Sơn kể thêm mấy vụ khác:
- Vụ xử Quản Dưỡng, tức Trần Văn Dưỡng, ở Hà Đông, trước làm
lính khố xanh, bị xử tội đã ra lệnh cho lính Bảo An bắn vào người biểu tình.
- Xử vợ một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, ở Vĩnh Yên.
- Một nông dân giết kẻ ngoại tình với vợ, là một anh Đại Đội Trưởng
bộ đội, ở làng Xuân Thọ, Thái Bình.
- Hè 1951, một anh bộ đội đánh chết người đang "hủ
hoá" với mẹ mình, tại Đức Thọ, Hà Tĩnh - lúc đó Nguyễn Mạnh Tường đã
vào Thanh Hoá.
4/ Hoàng Văn Chí viết: "Từ 1947 đến 1950 ông làm
trạng sư ở khu III. Trong khi bênh vực cho các bị cáo trước toà, ông hay dùng lời
lẽ văn hoa để "nói mát" chế độ, nên ông bị chuyển sang
ngành giáo dục. Ông bị coi là một phần tử"ngoan cố", không chịu "lột
xác", nên thường bị đả kích. Có lần cán bộ đã đặt ra một vở kịch nhan
đề là "Phải hấp lại" để lăng mạ ông, nhưng ông không thèm
trả lời."[37]
Điều Hoàng Văn Chí viết "ông hay dùng lời lẽ văn hoa để nói
mát chế độ"được phản ảnh trong lời kể của giáo sư Hoàng Như Mai: "Vụ
thầy Tường cãi đó là: cô con dâu cầm dao đâm bố chồng. Tôi không dự cái cuộc ấy
nhưng được nghe người ta kể lại. Thầy Tường bào chữa: Xưa nay chuyện bố chồng
con dâu, nhất là mẹ chồng nàng dâu xung đột với nhau là chuyện rất điển hình ở
xã hội Việt Nam xảy ra coi như cơm bữa. Nhưng vì sao cô này lại đâm bố chồng?
Vì khẩu hiệu của kháng chiến: Mỗi người sẵn sàng cầm vũ khí trong tay để giết
giặc. Cho nên lỗi tại có vũ khí kia chứ không thì chị ấy không phạm tội giết bố
chồng"[38].
Những chứng trên đây bổ sung cho nhau. Tóm lại, có thể nói: lần
cuối Nguyễn Mạnh Tường cãi ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, theo Boudarel và sau đó ông bị
chuyển sang ngành giáo dục, theo Hoàng Văn Chí. Một mặt khác, chính Nguyễn Mạnh
Tường cũng viết về lý do đổ vỡ của ngành tư pháp và y tế ở Khu Ba và Khu Tư: "Chính
trị chèn ép chuyên môn như thế nào; xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường
cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949,
phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải
thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp
đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện, đã đán áp chuyên môn, thúc đẩy
các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ
kháng chiến"[39].
● Từ chối vào Đảng
Năm 1951, được đề nghị vào đảng, nhưng ông từ chối, rồi cuối
cùng ông phải chấp nhận vào đảng Xã Hội, Nguyễn Mạnh Tường giải thích tại sao:
"Năm 1951, trong chiến khu[40] Đặng
Châu Tuệ, một đảng viên Cộng Sản[41] đến
bảo tôi và bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên nộp đơn xin vào Đảng. "Trên" đã
chứng nhận hạnh kiểm và hoạt động của chúng tôi trong kháng chiến. Những người
cộng sản thường say mê hình thức và mắc bệnh kiểm kê con người giống như tài sản,
theo tuổi tác, phái tính, hoạt động nghề nghiệp để trộn họ vào những tổ chức quần
chúng, để giáo dục và điều khiển họ một cách hữu hiệu hơn. Một mặt khác, vì Đảng
không dung tha bọn trí thức ham hưởng thụ tự do và cá nhân chủ nghiã, nếu tập
trung họ lại trong Đảng, thì cái địa vị tối cao và vai trò lãnh đạo sẽ làm họ
phởn chí. Thật vậy, trong thời điểm đó, những kẻ có tham vọng, những kẻ cơ hội,
mơ tưởng được vào hàng ngũ cộng sản đã làm không ít việc hạ tiện để đẹp lòng
người chiêu nạp. Cũng cùng thời ấy, đã có khá nhiều trí thức, không chịu được đầu
óc hẹp hòi và tính ngoan cố của những người cầm đầu, đã bỏ hàng ngũ cách mạng để
về Hà Nội, rồi từ đó bay đi những chân trời tốt đẹp hơn. Vì thế, bác sĩ Nguyên
và tôi xét cái "vinh dự" mà họ ban cho chẳng qua chỉ là một thủ đoạn
ngờ vực: họ muốn khoá trái chúng tôi trong các tổ Đảng được canh gác chặt chẽ để
ngăn chặn không cho chuồn, nếu có kẻ nào manh tâm. Cả hai chúng tôi từ chối lời
mời vào Đảng. Nhưng những người cầm đầu không cho đứng ngoài tất cả các tổ chức,
họ đề nghị chúng tôi vào đảng Xã Hội. Cầm cự mãi cũng chán, chúng tôi bắt buộc
phải chấp nhận. Bởi chẳng nên khăng khăng cương quyết từ chối mãi ý nguyện của
Đảng, nhất là trong chiến khu, có những con mắt vô hình kiểm soát nhất cử nhất
động. Khá là nguy hiểm"[42].
Nguyễn Mạnh Tường rời Khu Ba khoảng mùa xuân 1951, sau khi từ chối
vào Đảng. Tới tháng 5/1951, ở Khu Tư Thanh Hoá ông cãi lần cuối cùng tại Đức Thọ,
Hà Tĩnh. Boudarel viết: "Tháng 2/1952, Trường Dự Bị Đại Học mới mở ở khu
Tư, Thanh Hoá và Nghệ An, do nhà phê bình mác- xít Đặng Thai Mai điều khiển,
Nguyễn Mạnh Tường được gọi về dạy văn chương"[43].
Hoàng Trung Thông kể lại: "Các lớp học viết văn thì tổ
chức ở Quần Tín[44],
Đặng Thai Mai là hiệu trưởng, Nguyễn Xuân Sanh phụ trách các công việc, tương
đương với giáo vụ bây giờ. Khoá dự bị đại học đầu tiên có 5 học sinh. Các lớp
sau đông hơn (...) Học sinh tới học do địa phương giới thiệu nhưng kinh phí hầu
như phải tự túc hoàn toàn"[45]. Vào
Khu Tư, Nguyễn Mạnh Tường vẫn tiếp tục đấu tranh tư tưởng với cộng sản, Hoàng
Trung Thông kể tiếp:
"Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh
Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một
cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó. Ý kiến này lập tức đã làm nổi lên một
làn sóng bất bình trong giới văn nghệ. Có hai bài phê phán ý kiến đó một cách
nghiêm khắc trên tạp chí Thép Mới của Nguyễn Văn Tỵ và Chế Lan Viên. Khi đồng
chí Lưu Trọng Lư, chi hội trưởng văn nghê Liên Khu Bốn, phụ trách tờ tạp chí
Thép Mới, đến gặp đồng chí Trường Chinh thuật lại các bài đấu tranh tư tưởng
thì đồng chí Trường Chinh có nhắc nhở về mấy bài phê phán đó, đại ý như sau:
các đồng chí phê bình cũng là phải thôi; nhưng cũng như một cây tre, vin xuống
vừa phải thì sức bật của nó sẽ lớn, nhưng vin mạnh quá thì nó gẫy. Tôi hiểu ý đồng
chí Trường Chinh nói là cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá vì
lúc bấy giờ chúng ta đang cần đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn
kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh"[46].
Cuộc đấu tranh tư tưởng ở Khu Tư, sau Nguyễn Mạnh Tường, đến
Trương Tửu, càng mãnh liệt hơn.
● Dự các hội nghị quốc tế
Mặc dù đã từ chối vào Đảng và luôn giữ khoảng cách với chính quyền,
nhưng Đảng vẫn phải nhờ Nguyễn Mạnh Tường trong việc đối ngoại, bởi khó tìm được
người có đủ khả năng thay thế: Ông được cử đi dự ba Hội nghị quốc tế vì
tài hùng biện.
Về Hội nghị Bắc Kinh, 1952, hiện không có tài liệu.
Về Hội nghị Vienne, cuối 1952, đầu 1953, Boudarel phân tích khá
kỹ: "Năm 1952, vì vì nhu cầu tuyên truyền và viễn ảnh những thương lượng
mới về Đông Dương đi đôi với vấn đề Triều Tiên đang thảo luận, người ta đã lôi
Tường trong nhà tù bóng tối ra ánh sáng. Ông được gọi đi Vienne dự hội nghị các
dân tộc, do Phong Trào Hoà Bình Thế Giới ảnh hưởng Liên Xô, tổ chức. Một lần nữa,
ông lại làm phát ngôn viên khôn khéo và hùng biện cho chính phủ Hồ Chí Minh, dù
ông không chia sẻ mọi quan điểm, nhưng đối với ông, chính phủ này, trước hết, bảo
đảm nền độc lập.
Chuyến đi Vienne đã có thể là cơ hội lý tưởng cho luật sư Nguyễn
Mạnh Tường chạy sang phía bên kia. Nhưng không. Mặc. Ông trở về xứ. Vì yêu nước.
Vì muốn độc lập cho Việt Nam, mà cũng vì muốn làm thay đổi chế độ từ bên trong
bằng sức mạnh của ngôn từ"[47].
Bài phát biểu của Nguyễn Mạnh Tường tại hội nghị Vienne, viết
thành Lettre à un ami de France - Thư gửi người bạn Pháp, lời lẽ
khôn khéo, cảm động, để thuyết phục những người bạn Pháp hãy vận động cho việc
ngừng chiến ở Việt Nam: "... Từ Vienne náo động âm nhạc hoà bình của
tiếng xe hơi và tàu điện, tâm tư tôi hướng về đất nước đang rền vang tiếng đại
bác. Từ Vienne chói lòa ánh sáng, tôi nhìn qua hai mươi ngàn cây số xa, về những
thành phố của chúng tôi đang bị thiêu huỷ; khi màn đêm buông xuống, nhờ bóng tối,
máy bay ngưng cơn cuồng nộ, làng mạc, ruộng đồng, trỗi dậy sinh hoạt. Tôi thấy
con trai tôi, trong đêm lạnh, tay mang sách vở, lần bước để nhập bọn với bạn bè
và những người dân quê, qua những con đường ngoằn ngoèo, cùng họp nhau dưới căn
nhà lá dùng làm trường học. Chúng thắp những ngọn đèn dầu nhỏ mà ánh sáng vàng
vọt, mù khói làm cay mắt, ngứa cổ. Chúng ngồi bệt dưới đất, tay tựa vào cái bàn
nhỏ bằng lòng bàn tay, đem từ nhà đi. Thầy đến và lớp học bắt đầu. Chúng được học
nhiều điều, đặc biệt là lòng yêu mến các dân tộc, sự kính trọng con người và
giá trị cần lao. Chắc các bạn cũng chẳng đến nỗi dửng dưng khi biết rằng những
đứa con trai ấy còn học một ngoại ngữ, rằng ngoại ngữ ấy là tiếng Pháp và tiếng
đầu tiên chúng được học là chữ AIMER[48]...
Mỗi khi màn đêm buông xuống, chúng tôi giao cảm với nước
Pháp đích thực, nước Pháp sống động, nước Pháp cụ thể, nước Pháp mà chúng tôi
đã ngừng Yêu trong khổ đau nhức nhối, nước Pháp của Joliot-Curie, của Raymonde
Dien, của Henri Martin, của nông dân, của thợ thuyền, của trí thức, của tất cả
những ai đau khổ vì nỗi khổ đau của chúng tôi, những ai đòi hỏi quân đội Pháp
phải rút khỏi Đông Dương, để bi kịch huynh đệ phải chấm dứt, để con cái chúng
tôi khỏi bị đạn bom xé thành trăm mảnh mà chúng được nở hoa dưới ánh mặt trời của
cuộc sống và được học tập trong hoà bình"[49].
Bức thư dù tha thiết cũng không ngăn cản được cuộc chiến kéo dài
đến 1954. Khi trở về nước, Nguyễn Mạnh Tường phải trực diện với bi kịch kinh
hoàng Cải Cách Ruộng Đất, trong sự bất lực hoàn toàn.
Ngày 22/5/1956, hội nghị Luật Gia Dân Chủ họp ở Bruxelles trong
lúc phong trào NVGP đang manh nha, ông lại được "vời ra" lần nữa, và
ông cũng lại dùng tài hùng biện để biện hộ cho sự thống nhất Việt Nam, theo
quan điểm của miền Bắc. Nhân chuyến đi này ông được các luật gia Tiệp Khắc và
Nga và mời sang Praha và Moscou.
Khi trở về Hà Nội, ông đã nhận được rất nhiều vinh dự, nhưng
ngày 30/10/1956, ông xuất hiện tại Mặt Trận Tổ Quốc với bài diễn thuyết lịch sử: Qua
những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo, làm
thay đổi vận mệnh của chính mình.
Nguyễn Mạnh Tường nhớ lại: "Ngay khi trở về Hà Nội,
tôi được phủ đầy "vinh dự". Khoa trưởng Đại Học Luật Khoa đang hấp hối,
phó chủ tịch hội luật gia, thủ lãnh luật sư đoàn, khoa phó Đại Học Sư Phạm,
giáo sư đại học dạy văn chương Âu châu, ủy viên trung ương Mặt Trận Tổ Quốc và
thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội; thành viên của hội Hữu Nghị Việt Pháp và Việt
Xô, của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức...
dư sức viết đầy hai mặt danh thiếp!
Những "tước vị hoành tráng" này chẳng phiền hà gì tôi
cả, cũng chẳng tổn thương đến lòng khiêm tốn và tôi cũng không cảm thấy mình to
đùng hay bé lại. Chế độ cộng sản áp dụng lối sùng bái hình thức: Họ trang trí
thế giới bằng những đồ giả. Những tước vị hào nhoáng, gáy to nhất, không để tưởng
thưởng cho người sống mà cho những con nộm hình người có kẻ đứng sau lưng, trên
đầu hay trong đám đó giật dây. Những diễn viên múa may trên khán đài thuộc thế
giới xi-nê-ma quá đát, cinéma câm. Vì cộng sản và ciné câm ra đời cùng một lúc,
cho nên người ta tự hỏi chẳng biết cái nào ảnh hưởng đến cái nào"[50].
Nguyễn Mạnh Tường tiếp tục phân tích phong cách của Đảng: "Phải
chăng Đảng đã ngó ngàng tới tôi và muốn thổi phồng tôi lên thành một trong những
con khỉ bác học được đưa chạy vòng quanh sân xiếc làm trò cười cho trẻ? Năm
1951, trong chiến khu miền Bắc, giữa kháng chiến chống Pháp, người ta đã đề nghị
cho tôi vào Đảng, nhưng tôi từ chối vinh dự này. Năm 1946, khi đi theo kháng
chiến với gia đình và cha mẹ, tôi đã dâng hết của cải, gồm ba dinh thự ở Hà Nội
cho Cách Mạng và Nhân Dân. Trong suốt thời gian kháng chiến, tôi chấp nhận mọi
hy sinh và dùng cả hai nghề luật sư và giáo sư để phục vụ dân tộc. Là thành
viên của các phái đoàn Việt Nam đi dự bốn hội nghị quốc tế, Đà Lạt 1946, Bắc
Kinh 1952, Vienne 1953 và Bruxelles 1956, tôi đã giữ vai trò chủ động và đạt một
vài thành quả khiêm nhường... Có thể Đảng cũng muốn cho tôi một chứng chỉ tán
thành bằng cách thăng cho những chức vụ dù chỉ là danh dự cũng có phần khả
kính. Nhưng tôi thừa biết trí nhớ của Đảng tồi lắm, Đảng quên ngay công lao của
cả những người ngày trước đã được Đảng công nhận, chỉ vì tội làm Đảng nổi giận.
Ngay cả những người cộng sản nổi tiếng, đã từng đi tù chung với những lãnh đạo
hiện ở trên ngai, cũng chẳng được hưởng ân sủng gì ngoài sự ngoan cố và độc ác
của họ.
Trong những ủy ban chỉ đạo các tổ chức quần chúng, Đảng có lệ
đem những trí thức nổi tiếng vào làm phụ tá cho những đảng viên cầm cương, cầm
lái. Những con rối ngồi trên chủ tọa đài, tuyên bố khai mạc và kết thúc các buổi
hội thảo, được người ta uể oải vỗ tay và cũng uể oải vỗ tay đáp lễ. Cái lối
hành xử này đã trở thành tập quán, chỉ để phô trương có sự cộng tác chặt chẽ giữa
trí thức không đảng phái và những người cộng sản. Tôi biết thừa và chẳng ngạc
nhiên gì. Tôi đợi bánh xe luân hồi của đạo Phật quay và sẵn sàng phòng thủ,
không để cho những bất trắc đánh bại"[51].
● Tham gia Cải Cách Ruộng Đất
1953, sau khi dự Hội nghị Vienne về, ông phải tham gia Cải Cách
Ruộng Đất. Đối thoại của ông với Hoà Khánh:
- Luật sư có đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất?
- Có. Hồi ấy, tất cả mọi cán bộ đều phải về các địa phương để
tham gia Cải Cách Ruộng Đất. Tôi cũng phải đi.
- Luật sư về địa phương nào?
- Phủ Nho Quan.
- Công việc của các cán bộ cụ thể là làm gì?
- Để phụ với nhân dân tổ chức các cuộc Cải Cách Ruộng Đất thôi.
Trầm ngâm một lát, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp: Chính
trong những đợt đi xuống địa phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của
nó. Lại im lặng. Chúng tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của luật sư Nguyễn Mạnh
Tường trầm trầm, buồn buồn:
"Đầu tiên, về Phủ Nho Quan, chúng tôi được học tập theo lệnh
từ trên là tại địa phương này có cả thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ.
Tôi điếng cả người. Phẫn nộ, thấy ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học.
Khoa học nào cũng phải sử dụng phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình
điều tra thực tế cẩn thận, từ thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì
mấy ông từ trung ương cứ tưởng tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các
địa phương phải thực hiện. Cán bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải
kích thôi. Có nhiều gia đình nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai
gian, tài sản đâu chỉ được một hai mẫu ruộng thế mà cũng bị ghép váo thành phần
địa chủ. Để cho đủ số lượng mà! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.
- Luật sư có tham gia vào cuộc xử án nào không?
- Không. Người ta đâu có cần luật sư. Mình đi là cốt để rèn luyện
quan điểm, rèn luyện lập trường thôi, chứ đâu phải để xử án hay biện hộ cho ai.
- Thế thì ai làm chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố?
- Chẳng có chánh án, luật sư gì cả. Phiên tòa được tổ chức ở một
bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy anh thuộc thành phần bần cố nông ngồi ngất
ngưởng trên bàn để luận tội, còn mấy người bị gọi là địa chủ thì bị xích cổ,
trói chân, trói tay, quỳ mọp giữa sân...
- Có cả chuyện xích cổ ư?
- Có. Suốt "phiên toà", hết bần cố nông này lên tiếng
chửi thì đến bần cố nông khác lên chửi tiếp. Xong rồi đến lượt hành hình địa chủ,
vậy thôi.
- Luật sư có bao giờ can thiệp vào những sự đấu tố dã man như vậy
không?
- Có mà muốn chết à? Không. Có chẩy nước mắt thì cũng rán mà giấu
đi.
- Có địa chủ nào được quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình
không?
- Không. Lúc đó, ai cũng hồn kinh phách tán cả rồi, mặt mũi xanh
rờn, đứng còn không nổi nữa thì nói gì đến chuyện tự biện hộ. Mà ai cho? Cứ bị
khép vào thành phần địa chủ là coi như đã chết"[52].
Bối cảnh Phủ Nho Quan sẽ được đưa vào tiểu thuyết Une
voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm, và cũng là nền tảng của bài diễn
thuyết Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng quan điểm lãnh
đạo tại Mặt Trận Tổ quốc ngày 30/10/1956.
● 10/10/1954, quân cách mạng tiến vào Hà Nội
Là nhân chứng không thể loại trừ, Nguyễn Mạnh Tường viết về ngày
10/10/1954: "Mười giờ sáng ngày 10/10/1954, lực lượng kháng chiến
long trọng bước vào thành phố đã chinh phục lại. Quân đội mở đầu, cờ cao, trống
thúc! Cán bộ dân sự đứng trên xe vận tải chào mừng quần chúng tụ tập hai bên đường,
tay vẫy cờ giấy, hoan hô cổ võ đến khàn giọng nghẹt thở (...)
Trong khoảng mười lăm ngày, cán bộ bị cấm trại ở một nơi, vì lý
do gì, không ai biết (...) Về phía mình, một phần, nóng lòng được đặt chân về
chốn tôi đã sinh ra, thành phố không ngừng ám ảnh tôi trong những năm dài xa
cách; phần khác, lòng càng héo mòn ủ rũ vì ngay từ phút đầu đã không thể trở về
nhìn lại mẹ cha, mà tuổi hạc càng làm tăng thêm ước muốn được âu yếm nhìn thấy
đứa con đầu lòng, đã phải xông pha quá lâu, cho dù hai thân đã chấp nhận sự hy
sinh ấy là cần thiết và chính đáng.
Cuối cùng, rồi nỗi khổ tâm của chúng tôi cũng chấm dứt khi người
ta thông báo cho biết tôi được nhận công tác tiếp quản Đại Học Luật Khoa. Sau
nghi lễ, tôi chạy vội về nhà, cha mẹ tôi oà khóc khi thấy tôi còn sống![53]
Song song với ngòi bút nhà văn, ngòi bút luật gia và chính trị
gia phân tích tâm lý những người cộng sản: "Thời gian trôi đi, Đảng lần
khân và chậm quyết định mở lại hay đóng cửa trường Luật. Tôi hiểu những ngần ngại
này. Trong nhiều năm được nhà cầm quyền chỉ định làm luật sư (avocat d'office)
tại các toà án, và nhờ giao tiếp thường xuyên với những người được gọi là có
trách nhiệm, tôi đo lường được trong cái vô thức bí mật của họ, sự ghê tởm luật
pháp đến thế nào! (...)
Trong khi người chính trị khẳng định chủ lực
(volontarisme), thì người luật pháp chọn chủ luận (rationalisme). Một bên đặt vấn
đề cụ thể, phân tích những yếu tố, khảo sát mối tương quan và hấp lực hỗ tương
giữa các đối tượng, để tìm một giải pháp lợi hại nhất, và dùng quyền lực để thực
hiện giải pháp đó. Họ không cảm thấy bị trói buộc bởi bất cứ nguyên tắc nào, họ
không bị bắt buộc, họ tự do như con ngựa phi trên vùng thảo nguyên, bạo liệt
như trận cuồng phong hung dữ chặt thủ cấp những nóc nhà, vùi sâu dân chài trong
lòng biển cả. Trong cơn mê sảng, quyền lực chính trị lợi dụng những thế cờ thuận
tiện để phất lên lá bài của mình và tỏ rõ sự sắt đá đã lột xác. Nhưng thời cơ
thuận lợi của họ vấp phải sự cứng rắn của luật lệ, của luật pháp: Họ quyết định
quét sạch luật lệ, dầy xéo luật pháp; tuy nhiên họ vẫn tiếp tục bình thản ngủ
vùi, bởi trong chiến khu, Nhà Nước chỉ nói chuyện với cỏ cây, súc vật trong rừng
rú, dân chúng thì đã chín muồi vì lòng yêu nước cao độ và ý thức bổn phận, nên
không ai quấy nhiễu sự bình an của những người cầm quyền. Nhưng tất cả mọi sự đều
thay đổi khi trở về Hà Nội. Ở đây, dư luận thị thành luôn luôn khuấy động, cả sự
im thin thít của nó cũng làm chính quyền lo ngại. Dư luận tỏ ý tôn trọng luật
pháp. Khi quyền lợi của nguời dân bị xâm phạm, họ gõ cửa luật sư và pháp đình
là thành lũy của công bằng và pháp lý.
Nhà Nước cộng sản, để tỏ thiện ý, đã giữ lạiuật sư đoàn, vì đó
là hàng quan chức tư pháp đã được thay thế bằng những người sùng bái Đảng và đã
được Đảng giáo dục để quyết định số phận các cuộc tranh tụng. Vấn đề nội trị có
thể giải quyết dễ dàng. Nhưng từ khi về Hà Nội, toàn thế giới nhìn vào Việt
Nam, sự giao tế bây giờ thoát khỏi biên thùy các "nước anh em" mà kéo
dài tới các nước tư bản. Nay, những nước này lại tỏ ra rất hâm mộ luật pháp và
đưa cái bản Hiệp định (Genève) mà họ ký vào trong khuôn khổ pháp luật.
Ngoài ra, những pháp viện và những tổ chức quốc tế chăm chú nhìn vào Việt Nam để
phán xét xem họ có thể nghiêng cán cân về phiá nào: giúp đỡ hay phản đối. Chính
nhờ con đường quốc tế mà luật pháp đã xâm nhập một cách vũ bão vào hiện tình Việt
Nam và những người cầm quyền bắt buộc phải để ý"[54].
Những dòng trên đây mô tả cuộc xung đột quyết liệt giữa chính trị
và luật pháp, sau 1954, khi quân cách mạng tiếp thu Hà Nội và sự thủ tiêu luật
pháp sau khi Đảng nắm vững chính quyền, đồng thời giải thích việc Nguyễn Mạnh
Tường diễn thuyết tại Mặt Trận Tổ Quốc, đòi tự do dân chủ và nhà nước pháp trị.
● Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất
xây dựng quan điểm lãnh đạo
Trả lời Nguyễn Văn Hoàn, ở Hà Nội, Nguyễn Mạnh Tường nói: "Ở
hội nghị của Mặt Trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi
ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao Động Việt Nam, tự phê bình về các sai lầm
đã phạm trong Cải Cách Ruộng Đất, tôi đọc bản tham luận "Qua những sai lầm
trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo". Từ góc độ một người
hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính,
một chế độ dân chủ thực sự. Đi hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn,
rồi viết bài đăng lên báo Nhân Văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả
tang”, bị sa thải khỏi Đại Học và không được hành nghề luật sư nữa. Từ 1957 là
thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời gian rảnh rỗi
này để viết sách, trong đó có cuốn Lý Luận Giáo Dục Châu Âu Từ Thế Kỷ XVI Đến
Thế Kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể đọc được"[55].
Trả lời Hoà Khánh ở Paris, Nguyễn Mạnh Tường cho biết thêm nhiều
chi tiết hơn: "Các anh cũng biết là, vụ Cải Cách Ruộng Đất đã thất bại
nặng nề đến nỗi ông Trường Chinh phải mất chức tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó
có phong trào sửa sai ghê lắm. Trong cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu,
rồi ông Trường Chinh, rồi ông Xuân Thủy đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của
các ông ấy để yêu cầu tôi, trong cuộc hội nghị của Mặt Trận Tổ Quốc, trình bầy
cho mọi người biết thế nào là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm Cải Cách
Ruộng Đất, chúng ta phải cố làm sao để cho chế độ xã hội chủ nghiã trở thành một
chế độ thực sự dân chủ. Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội
nghị được tổ chức. Tôi thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi
chiều. Thuyết trình xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thủy,
ông Dương Bạch Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa cho
mấy ông xem.
- Thế trong cuộc hội nghị, luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc
bài viết đã soạn sẵn?
- Không. Thì giờ đâu. Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại
chứ. Tôi đánh máy bài viết thành hai bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà không biết
tại sao, bài viết đó lại lọt ra nước ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ĩ lên
thế mới chết chứ.
- Luật sư còn nhớ chắc là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác?
- Chắc chắn. Cả hai bản đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường
Chinh và ông Xuân Thủy. Tôi chỉ giữ lại bản nháp viết tay thôi.
- Thế thì luật sư có thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài
biết của luật sư lại lọt ra nước ngoài được không? Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười
lắc đầu:
Chịu thôi, ở đời vẫn có những bí mật như thế đó, các anh ạ.
- Thế sau khi bài viết bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với
luật sư như thế nào?
- Thì còn đối xử thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi"[56].
Vậy, Trường Chinh và Xuân Thủy, ai là người chuyển văn bản Nguyễn
Mạnh Tường ra ngoại quốc và với mục đích gì?
● Ba mươi năm sa mạc
♠ Trả lời Hoà Khánh:
- Luật sư có bị bắt, có bị giam cầm gì không?
- Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi tất cả những nơi đang làm việc. Và
độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời,
không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên lụy đến bản thân, đến gia đình của họ.
Có khi, đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải
tránh đi chỗ khác. Tôi cũng không trách gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải
làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.
- Trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì
để sống?
- Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận. Thoạt đầu,
cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu. Bán bàn ghế, giường tủ, rồi bán quần
áo, giầy dép... Cuối cùng phải bán đến cả sách vở tôi dành dụm thu thập sắm
trong hai mươi năm. Bán theo giá bán giấy ký thôi. Rẻ mạt. Nhưng cần sống thì
phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần tôi có cảm tưởng như có ai lấy dao găm
đâm vào tim mình. Rồi tất cả đồ đạc cạn dần, cạn dần. Tôi lại sống bằng sự bố
thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người này cho cái đồng hồ, người khác cho một
ít tiền.
- Những người giúp luật sư thuộc thành phần nào?
- Một số là học trò cũ cũa tôi; một số là bạn bè của tôi lúc còn
ở Pháp và một số khác nữa là hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi, thương cho hoàn
cảnh của tôi, từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.
- Họ là người Việt Nam hay là người Pháp?
- Người Việt có, người Pháp có"[57].
♠ Trả lời Phạm Trần:
"Cuộc sống thật gay. Khó khăn thật lớn. Nhưng cái khó khăn
nhất là nỗi cô độc. Không ai dám tiếp xúc với mình. Học trò thấy mình từ xa thì
đã né tránh. Nhưng tôi hiểu và thông cảm cho họ. Còn sau này, thỉnh thoảng vẫn
có anh em cán bộ đi công tác và họ nhờ tôi chỉ vẽ đôi chút tiếng Pháp. Ai sẵn
thì họ giúp chút ít. Thế thôi"[58]
♠ Đói - Ông viết: "Tôi muốn dạy tư Pháp văn tại
nhà riêng. Nhưng vừa bắt đầu thì một bọn công an, có lẽ do thám tử và chỉ điểm
quanh tôi, báo, ùa vào nhà, bảo rằng trong chế độ cộng sản, chẳng có gì riêng
tư, kể cả những bài học do người thầy bần cùng nghèo đói dạy! Làm gì bây giờ?
Vì cao tuổi, không thể đạp xích lô như một số đồng nghiệp trẻ, chứ tôi nào có sợ
gì "người ta xầm xì này nọ" (...)
Tôi bị kết án đói kinh niên. Một sự mệt mỏi mênh mông, vô bờ bến,
xâm chiến thân thể, như nước sông mùa lụt tràn ngập một miền, chỉ ngọn cây và đỉnh
đồi là trồi lên được. Tôi có cảm tưởng như mình bị nhận chìm trong một trạng
thái hôn mê mà sự sáng suốt của ý thức thỉnh thoảng bùng lên chọc thủng. Cố gắng
đứng dậy đi vài bước lảo đảo nhưng rồi lại ngã lăn đùng ra giường, đợt sóng bạc
nhược đánh tan tành tất cả sức lực cơ bắp còn lại. Cùng lúc ấy, dạ dầy quặn thắt
trong một chuyển động tuần hoàn cực kỳ đau đớn. Những co giật làm tôi luân lưu
giữa căng và dãn, trước khi bị vùi sâu trong cơn Thủy triều bất tỉnh, mất hẳn
khả năng tri giác. Ra khỏi những cơn khủng hoảng này, cật vỡ, hồn bầm. Tôi đã học
tập kinh nghiệm đói!"[59]
♠ Tiếp tục viết sách - Trả lời Phạm Trần:
- Suốt 30 năm "ngồi chơi xơi nước" cụ còn mang ước
vọng dung hợp (Âu Á) nữa không?
- Có chứ. Anh nói "ngồi chơi xơi nước" là không đúng.
Lo cái ăn mờ con mắt. Ngồi chơi thì ít mà uống nước (thay ăn) thì nhiều. 30 năm
qua tôi đã hoàn thành được 4 công trình: Lý thuyết sư phạm thế kỷ XVI-XVIII: từ
Erasme tới Rousseau; Eschyle và thảm kịch Hy Lạp; Virgile và thời hoàng kim La
Tinh và dịch bản Orestia (chuyện chàng Orestia) của Eschyle.
Văn hoá Âu đã giáo dục những thế hệ con người mới như thế nào để
chuẩn bị cho những cuộc cách mạng kỹ thuật, dân quyền và nhân quyền. Quan hệ giữa
sinh hoạt trí thức và lãnh đạo chính trị phải được quan niệm và xác định như thế
nào. Những tiến trính phải qua từ một thể chế sơ khai bước sang thể chế dân chủ...
Những vấn đề trên (mà ta hiện nay đang loay hoay) đã được giải
quyết ngay từ thời cổ đại La Tinh, Hy Lạp cả rồi. Tôi tìm các thí dụ quá khứ để
giải đáp các câu hỏi hiện tại. Riêng vở kịch Orestia tôi có thêm một phần dẫn
nhập để người đọc dễ dàng theo dõi. Các sách trên viết bằng Việt ngữ. Các nhà
xuất bản Hà Nội không nghi ngờ giá trị của chúng, nhưng không thể in vì không
tiền và sợ phổ biến khó. Ngoài này có thể in giúp được không? Những đứa con cưu
mang hàng chục năm mà không ra đời được thì xót xa lắm"[60].
● Trở lại Pháp 10/1989-1/1990
Mùa xuân 1989, dược sĩ Tống Lịch Cường, anh rể Nguyễn Mạnh Tường
ở Paris, viết giấy bảo lãnh để ông sang Pháp, chuyến đi do các học trò cũ đài
thọ.
Tháng 10/1989, ông đến Pháp, ở nhà nha sĩ Nguyễn Văn Lung, 12
rue d'Auteuil, Paris 16, gần nhà ông bà Hoàng Xuân Hãn, 60 rue Théophile
Gautier Paris 16. Địa chỉ trên giấy tờ: 51 Boulevard Montparnasse - 14/1/1990.
"Năm 1989, ở tuổi 80, những người bạn Pháp Việt mời tôi đi
Pháp. Lúc đó, sau Đại Hội VI của Đảng cộng sản, lần đầu tiên trong lịch sử, họ
tuyên bố chủ nghiã tự do oe oe chào đời; tôi lợi dụng cơ hội để xin cấp giấy
thông hành đi Pháp. Tôi cũng không nghĩ là đơn được chấp thuận với quá khứ
chính trị nặng nề như vậy. Nhưng, ngạc nhiên vô cùng, chỉ hai tháng là tôi có
giấy thông hành và hộ chiếu xuất ngoại. Chẳng may chính phủ Pháp lại làm khó dễ
trong nhiều tháng mới cấp giấy nhập cảnh.
Đúng là thế giới lộn ngược.
Tôi đến phi trường Orly một buổi chiều tháng mười. Những người bạn
Pháp Việt đón tôi thật cảm động. Sau 60 năm, tôi tìm lại quê hương của trí tuệ
tôi cùng với sự đón tiếp ân cần và tế nhị của những trái tim vàng. Sức khoẻ suy
nhược bởi 40 năm thiếu dinh dưỡng thể xác và khốn đốn tinh thần làm tôi quỵ
ngã. Lần đầu tiên trong đời, ở tuổi tám mươi, tôi vào một bệnh biện của Pháp,
và đã được săn sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi liên lạc lại với bạn hữu và tiếp
tục công việc. Trả lời phỏng vấn đài truyền hình TF1, thuyết trình hai lần, một
ở Clermont L'Hérault, gần Montpellier, nơi tôi đã đến tìm tài liệu về J.
Boissières để làm luận án phụ tiến sĩ văn chương, và một lần ở Paris VII. Tôi đến
thăm thủ lãnh luật sư đoàn Paris"[61].
Trả lời Phạm Trần:
"- 80 tuổi rồi, chẳng còn dám đặt chương trình gì nữa. Có
cái ước nguyện ôm ấp bao nhiêu năm nay là được sang đây để cám ơn các ân nhân
(hầu hết là học trò cũ). Những người đã giúp đỡ tôi mấy chục năm qua. Không có
họ thì tôi không chắc sống tới ngày nay. Mà bây giờ đã sang được. Thế là mãn
nguyện.
- Làm sao sang được đây?
- Mọi chi phí các học trò tôi lo. Chứ tôi làm gì dám nghĩ một
cuộc Âu du như vậy"[62].
Phượng Linh Đỗ Quang Trị viết:
"Năm 1990 qua Pháp, thầy được con một ông bạn Pháp cùng học
ở Montpellier đóng tiền bảo kê sức khoẻ. Ông bố đã mất nhưng con nhớ bố kể lại,
rất khâm phục tài học của thầy Tường, nên đã giúp đỡ. Nhờ vậy mà khi thầy Tường
ngã ngất vì tim yếu tại nhà anh Nguyễn Văn Lung là em Hoàng Xuân Hãn phu nhân,
Thầy đã được đưa vào bệnh viện điều trị miễn phí"[63].
Trong thời gian ở Pháp, ngoài các buổi trả lời phỏng vấn và nói
chuyện ở các đài truyền hình TF1, FR3, đại học Paris VII v.v... Nguyễn Mạnh Tường
còn tiếp xúc rộng rãi với mọi tầng lớp Việt kiều, đặc biệt ông muốn gặp giới trẻ
quan tâm đến tình hình đất nước và chúng tôi, theo lời yêu cầu của bác sĩ Trịnh
Văn Tuất, bạn ông, cũng đã tổ chức một buổi tại nhà. Trong những cuộc gặp gỡ ấy,
ông đều nói thẳng nói thật, nhưng khi gặp những câu hỏi có tính cách chính trị,
của những người muốn ông mạnh mẽ phản đối nhà cầm quyền, về sự đối xử với ông
trong 30 năm sau NVGP, ông ôn tồn trả lời: bản thân ông đã quên mọi oán thù. Về
Hồ Chí Minh, ông bảo: hãy để lịch sử phán đoán.
Lúc đó phong trào cách mạng nhung vừa khởi xuất, hỏi ông
tiên đoán gì về tình hình Việt Nam? Ông mỉm cười: Tôi không phải là nhà
tiên tri. Việc gì phải đến sẽ đến.
Về phía ông, chuyến đi Pháp dường như là động cơ thúc đẩy ông viết,
bởi khi về nước, chỉ trong vòng bốn năm (từ 1990 đến 1994), ông đã hoàn tất một
lượng sách đáng kể.
● Những năm tháng cuối - Thư từ trao đổi giữa
Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung
Chúng tôi công bố những thư viết tay và đánh máy của Nguyễn Mạnh
Tường gửi Nguyễn Văn Lung vì đây là chứng từ đích thực về giai đoạn
1990-1994, thời kỳ ông viết mạnh nhất.
Francophonie - Cộng Đồng Quốc Tế Các Nước Nói Tiếng Pháp là
một tổ chức được thành lập năm 1986, trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh các
nước nói tiếng Pháp tại Paris. Việt Nam tham dự tổ chức này từ tháng 12/1989,
nhân chuyến thăm của Alain Decaux, bộ trưởng Đặc Trách Khối Pháp Ngữ. Nha sĩ
Nguyễn Văn Lung (1916 - 2009), qua thư từ trao đổi với những người Pháp, chứng
tỏ ông đã hết sức vận động Bộ Ngoại Giao Pháp tài trợ để mở các Câu Lạc Bộ Pháp
Ngữ tại Việt Nam. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường chấp nhận việc tổ chức và làm đại
diện cho Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ Hà Nội. Là bạn thân của Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn
Văn Lung về Sài Gòn tháng 1/1990 và ở đến tháng 4/1990, lo mở mang Francophonie
ở Việt Nam. Nguyễn Mạnh Tường từ Paris về Hà Nội tháng 1/1990. Họ gặp lại nhau
tại Hà Nội.
Tất cả thư từ trao đổi đều viết bằng tiếng Pháp. Nha sĩ
Lung trao cho chúng tôi bản chính, và dù ông không nói ra, chúng tôi cũng hiểu,
vì tuổi cao, ông muốn gửi lại người đi sau những chứng từ quý giá về lịch sử
văn học để sau này sẽ chuyển về nước. Thư viết ngắn gọn, trực tiếp nói vào việc
chính, thỉnh thoảng có vài lời thăm hỏi, vài câu về chuyện gia đình.
Chúng tôi dịch các phần chính, liên quan đến lịch sử và
văn học và lược bỏ việc riêng. Lời thư tỏ hết tâm tư và nguyện ước của Nguyễn Mạnh
Tường và nói lên không khí ông sống trong những năm tháng cuối.
Độc giả sẽ tiếp xúc trực tiếp với ông, không qua trung
gian của ngòi bút nào.
• Thư ngày 26/1/1990
Fax từ Sài Gòn của Nguyễn Văn Lung
Gửi Maharadja Indien, Emir Sarfaraz Husain
Đại sứ Ấn độ tại UNESCO.
Lá thư khá dài, có hai mục đích chính:
- Nhờ Emir Husain trợ giúp mở rộng Francophonie ở Việt Nam, chủ
đích tiến tới việc cấp học bổng cho các bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, đi tu nghiệp ở
Pháp.
- Giới thiệu giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, nhân vật văn hoá Pháp-Việt
uy tín, nhận giúp Francophonie thực hiện việc đưa tiếng Pháp trở lại Việt Nam ở
bậc Trung và Đại học.
• Thư ngày 10/4/1990
Nguyễn Văn Lung gửi Nguyễn Mạnh Tường:
Anh Tường,
Việc in sách tiếng Việt:
Sau khi thảo luận với luật sư Hiệp[64] chúng
tôi đã quyết định:
- Anh gửi cho tôi 4 tác phẩm viết tiếng Việt về vấn đề nghiên cứu
Hy Lạp-La Tinh.
- Sẽ cố gắng nhờ Hội Văn Bút Pháp hoặc Mỹ; hoặc nhờ l'ACCT[65](France)
giúp đỡ.
Việc in lại sách tiếng Pháp:
Về bốn cuốn: Sourires et larmes d'une jeunesse, Pierres de
France, Apprentissage de la Méditérénée và Le voyage et le sentiment, tôi sẽ
tìm hai cách: Hoặc nhờ l'ACCT in lại. Hoặc nhờ Bộ Ngoại Giao Pháp (qua ông
Portiche).
Tôi đang vận động Bộ Ngoại Giao để xin 20.000 cuốn sách giáo
khoa, cho các Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ Sài Gòn, Đà Lạt, Huế và Hà Nội. Câu Lạc Bộ
Sàigòn đã hoạt động, Đà Lạt đã có giấy phép. Chỉ còn chờ Hà Nội và Huế.
• Thư ngày 8/4/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Anh nói với Husain và Portiche rằng việc hợp tác và chương
trình Francophonie tiến hành khó khăn, không phải vì chuyện thơ lại, nhưng có lẽ
vì tài chính, tuy vậy tôi vẫn hy vọng. Anh nhớ nhắc người bạn dạy Sorbonne (mà
tôi quên tên), đã hứa giúp việc in sách của tôi ở Pháp. Tôi đang đánh máy những
tác phẩm mới: "Hồi ức của một người trí thức và diện mạo Việt Nam trong 80
năm đời tôi, chủ yếu 40 năm dưới sự lãnh đạo của cộng sản". Hy vọng
cuối năm nay sẽ viết xong. Tôi sẽ mở lại văn phòng luật sư với sự cộng tác của
một trong những luật sư đã tập sự với tôi ngày trước (Luật sư Dương Văn Đam)[66] chúng
tôi chỉ chuyên về luật quốc tế, chủ yếu về kinh tế".
• Thư ngày 1/5/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Cám ơn anh đã cố gắng giúp tôi trong việc in tác phẩm.
(...) Tôi đang cố cho xong bộ hồi ký Larmes et Sourires d'une vieillesse và cuốn
Triptyque, cả hai đều viết bằng tiếng Pháp, hy vọng từ giờ đến cuối năm sẽ đánh
máy xong. Về Francophonie vẫn đang gặp khó khăn..."
• Thư ngày 27/5/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Ông bạn Fouilloux (Les Echelles -2 allée des Ecuyers-
Chambourcy) đã chụp được cuốn sách thứ tư của tôi, Le Voyage et le Sentiment- kịch
3 màn. Tôi đã nhờ ông ấy chuyển cho anh một bản để anh có đủ 4 tác phẩm của tôi
đã in ở Việt Nam năm 1940 mà chưa in ở Pháp. Anh xem có thể làm gì được không,
và nhất là nhờ anh dò ý nhà xuất bản Việt (mà tôi quên không ghi tên và địa chỉ)
xem họ còn muốn giữ lời hứa in lại những sách ấy không. Cám ơn anh. Và bây giờ
tôi có vài dòng về Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ:
1/ Nhà cầm quyền Việt Nam chưa động tĩnh gì. Họ sợ, không muốn
cho phép mở. Có thể phải nhờ sự can thiệp của chính phủ Pháp.
2/ Phải có trợ cấp để thuê một nơi làm phòng đọc sách và diễn
thuyết. Vấn đề tài chính cũng quan trọng như vấn đề giấy phép của chính quyền".
• Thư ngày 18/6/1990
Bác sĩ Lung gửi Fax cho luật sư Tường
qua Dominique Gallet[67],
ông Gallet nhờ một dân biểu Pháp sang VN đem lại:
"Từ tháng tư, khi về lại Paris, tôi vẫn chờ tin của ông
Maurice Portiche, về việc gửi những dụng cụ làm việc (sách học, cassettes,
v.v...) về các trung tâm dậy tiếng Pháp trong nước, như Sài Gòn, Đà Lạt, Huế,
Hà Nội.
Ông Fouilloux cũng đã chụp được cuốn "Le voyage et le
sentiment" (kịch) ở Thư Viện Quốc Gia Pháp và gửi cho tôi. Và bà Musain
Claire cũng đã chụp giùm những cuốn còn lại. Như vậy, tôi đã có đủ 4 cuốn sách
của anh để in lại. Hy vọng sớm tìm được "người bảo trợ" cho việc
"làm sống lại" tiếng Pháp ở Việt Nam.
Khi nào có tin mừng cho các giáo sư và học sinh đang đợi sự bảo
trợ để tiến hành chương trình Francophonie, tôi sẽ báo cho anh."
• Thư ngày 3/7/1990
Nguyễn Mạnh Tường gửi ông Tống Lịch Cường[68]
nhờ nhắn với ông Lung:
"Như anh (Cường) đã biết, tình trạng Việt Nam
càng ngày càng tồi tệ. Dân chủ lùi bước, nhà cầm quyền thắt chặt kiểm soát, dân
chúng và trí thức chờ đợi những giờ phút đen tối nhất. Vì thế, những cố gắng
xây dựng Câu Lạc Bộ Francophonie trở thành vô ích. Người ta không cho phép tôi
hành nghề luật sư tư với tư cách cá nhân. Người ta bắt tôi phải vào Hiệp Hội
Chính Thức Luật Sư Nhân Dân (La Corporation officielle des défenseurs
populaires) có nghiã là người ta không cho tôi hành nghề luật sư. Đó là hiện
tình Việt Nam. Nhờ anh gọi điện thoại hỏi Lung xem việc in 4 cuốn sách của tôi
tới đâu đâu rồi. Từ khi Lung về lại Pháp tôi không nhận được tin Lung nữa."
• Thư ngày 21/7/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Về việc Francophonie, tôi đã nhận được thư Alain Decaux và
tôi đã trả lời, đại ý: Có nhiều người ghi tên hơn dự tính. Nhưng cần phải có giấy
phép mở Câu Lạc Bộ.
Chúng tôi đã nghĩ ra một mưu: xin mở một chi nhánh của Hội
Hữu Nghị Việt Pháp (đã có) ở Hà Nội, nhưng cũng vẫn cần phải có giấy phép, mà họ
không cho!
Anh có biết hiện nay dân chủ ở Việt Nam đang thụt lùi rõ rệt.
(...)
Anh có tin gì về việc in 4 cuốn sách của tôi không?
• Thư ngày 1/8/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Tôi đã nhận được thư ngày 16/7/1990 của anh, nhờ Mulheim,
giáo sư ở Paris và là chồng người học trò cũ của tôi, cả hai đang ở Hà Nội, đem
lại:
Về việc Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ, chúng tôi đang định ghép nó vào Hội
Hữu Nghị Việt Pháp (Association de l'Amitié France-Vietnam), lập ở Hà Nội một
chi nhánh của Hội này, nhưng từ mấy tháng nay, nhà cầm quyền vẫn làm lơ. Tôi bắt
buộc phải đứng tên làm đơn xin mở một Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ ở Hà Nội, giống như
các Câu Lạc Bộ đã có ở Huế, Sài Gòn và Đà Lạt, tôi đang đợi sự trả lời của quan
chức Hà Nội. Tôi đã nhận được thư của Alain Decaux và đã trả lời như anh biết
(...) Hiện nay vấn đề đáng ngại vẫn là khoản trợ cấp để thuê phòng đọc sách và
diễn thuyết (...). Vậy tôi đợi gặp Alain Decaux và sẽ nói với ông ta. Anh đã nhận
được đầy đủ 4 cuốn sách của tôi chưa, nếu không anh liên lạc với ông
Fouilloux..."
• Thư ngày 14/11/1990
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Thư lại bị mất nữa. Tôi nhờ một người đi Pháp cầm
cho anh thư này. Tôi vừa bị từ chối không được mở phòng luật sư và lá đơn xin mở
Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ ở Hà Nội cũng bị chận đứng từ nhiều tháng. Tôi hiện rất kẹt,
bắt buộc phải dậy học lại để kiếm sống. Thì giờ còn lại dồn hết để viết cho
xong cuốn III của tập hồi ký. Cuốn I và 2/3 cuốn II đã tới Paris, trong tay một
người bạn vừa về qua Hà Nội, tên là Muldheim, ở số 38 Rue Faubourg St Denis. Hà
Nội nghẹt thở hơn trước. Họ chỉ bật đèn xanh cho những tờ báo tố cáo sai lầm và
các tội nhỏ của vài người cầm quyền. Nếu họ cho báo chí chút tự do như thế, là
để trấn an dân chúng đang sôi động, nhưng điều đó cũng làm mất niềm tin vào Đảng.
Về việc in bốn cuốn sách của tôi, xem ra không được phải không?
Còn về 4 cuốn biên khảo, viết bằng tiếng Việt, tôi chỉ có một bản thảo duy nhất,
và tôi cũng không muốn phải đối đầu với sự nổi giận và lòng căm thù của chính
quyền nếu họ biết tôi in ở Pháp. Vả lại những sách này dành cho người trong nước
hơn là độc giả ngoại quốc.
Hy vọng của tôi là hoàn tất bộ Larmes et sourires d'une
vieillesse (chân dung tự họa của một trí thức đã trải qua 80 năm sống trên đất
Việt). Bộ sách này sẽ có độc giả Pháp thích. Tôi cố gắng viết xong cuối năm
nay".
Người chuyển thư, ông Tống Lịch Cường, viết thêm mấy dòng, ngày6/12/1990:
"Tường đang bị khó khăn lắm. Sự oán -nếu không muốn nói là
căm thù- của những người cầm quyền cộng sản đối với Tường thật bền bỉ. Phải đợi
Tường viết xong quyển III hồi ký, rồi mới tính đến chuyện in ấn ở Pháp".
• Thư ngày 21/1/91
Trên tấm danh thiếp nhỏ
Nguyễn Mạnh Tường viết mấy hàng tiếng Việt:
"Họ chối từ không cho tôi trở lại làm luật sư. Họ
không trả nhời về chuyện Francophonie".
Ông Tống Lịch Cường, chuyển tấm carte cho ông Lung, viết
thêm mấy dòng tiếng Pháp:
"Tấm carte này đã được một người quen đem sang Pháp và gửi
cho tôi qua đường bưu điện. Chúng ta thấy bao nhiêu dự tính của Tường đổ xuống
sông cả, chỉ vì sự thù hận dã man và mù quáng của những người cầm quyền Hà Nội
đối với Tường. "Sự ngu si vô văn hóa đã phá hoại văn hóa", như lời Tường
vẫn nói, không ngừng theo anh trong suốt bốn mươi năm qua và vẫn còn đang tiếp
tục".
• Thư ngày 23/2/1991
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Tôi gửi cho anh hai lá thư, nhưng hình như anh không nhận
được. Những thư từ bạn bè ở Pháp gửi về cho tôi cũng bị bưu điện chận lại. Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên. Việt Nam quả quyết trung thành với chủ nghiã cộng sản và
đóng các cửa ngõ (...) Tôi rất mừng vì biết là anh và Portiche đã đọc qua hai tập
đầu bộ hồi ký của tôi rồi, tập ba cũng đã xong, và tôi đang tìm cách gửi sang
Pháp. Nếu Muldheim trở lại Hà Nội tháng 2, tôi sẽ gửi cho anh. Điều cốt tử là
làm sao cả ba cuốn đến được Pháp. Nếu có nhà xuất bản chịu in thì hay quá (...)
Gần một năm rồi mà những người cầm quyền vẫn làm ngơ không chịu trả lời về việc
mở Câu Lạc Bộ Pháp Ngữ ở Hà Nội. Thật tức cười, mà như vậy đấy! Có lẽ phải nhờ
đến nhà cầm quyền Pháp can thiệp chăng?
• Thư ngày 7/10/1991
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Đã khá lâu chúng ta không có tin tức của nhau. Nhân
bác sĩ Trịnh Đình Tuất (Trịnh Văn Tuất) về, tôi gửi mấy hàng chúc anh
mạnh khoẻ. Về phần tôi, từ hai tháng nay, sức khoẻ xuống lắm. Tim đập loạn xạ
làm mạch máu lưu thông không đều hoà, tôi bị ngã hai lần, khiến phải nằm rịt
trên giường từ hai tháng nay. Tưởng bị liệt cả hay bán thân bất toại vì hai
chân không động đậy được nữa. May mà cố gắng chữa chạy, sau những kỳ đấm bóp và
tập đi, dùng các thứ thuốc có chất Coramine, Duxil... nay đã chống gậy đi lại
được. Phần còn lại của cơ thể vẫn lành mạnh nhất là đầu óc. Cũng chẳng có gì lạ,
vì tôi đã quá 82 tuổi và hồi ở Paris đã bị tai biến mạch máu lần đầu, phải vào
bệnh viện Pean điều trị. Anh hiểu trong hoàn cảnh như thế này thì khó làm công
việc hàng ngày.
Tôi mong tìm lại sức khỏe bình thường, nhưng mới chỉ là hy
vọng".
• Thư ngày 26/3/1992
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
"Để trả lời thư anh, tôi báo tin anh biết là trong mấy
năm vừa qua, tôi đã viết xong những tác phẩm sau đây:
Larmes et sourires d'une vieillesse (Nụ Cười Và Nước Mắt Tuổi
Già), ba cuốn!
Un excommunié (Kẻ Bị Khai Trừ), tiểu thuyết.
Malgré lui, malgré elle (Mặc hắn, mặc nàng), bi kịch
tình yêu dưới chế độ cộng sản.
Partir, est ce mourir? (Đi, là chết?), bi kịch di dân.
Tất cả những sửa sai để thiết lập sự thật là đối tượng của phần
phụ lục cuối sách. Những tác phẩm này được gửi nhà người bạn Fouilloux"[69].
• Thư ngày 16/8/1994
Nguyễn Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung
vài dòng ngắn, có câu:
"Tôi vẫn tiếp tục làm việc, dậy học và hoàn tất cuốn tiểu
thuyết mới nhất Palinodies (Phủ nhận) cuốn sách thứ 18 của tôi".
• Thư ngày 19/1/1996
Joël Fouilloux gửi thư cho Nguyễn Mạnh Tường:
"Thưa luật sư,
(...) Phải đến ngày 14 và 21/6/1995, khi lại thăm ông tại nhà,
tôi mới biết rằng cuốn Lý Luận Giáo Dục Âu Châu của ông đã được xuất bản bằng
tiếng Việt ở trong nước. Tuy nhiên qua thư từ và tin tức gia đình, ông cũng biết
rõ là tôi đang thương lượng với RIASEM ở Đại Học Nice-Sophia Antipolis từ tháng
10/1994 để bảo vệ tập sách này (...)
Một mặt khác, cho đến tháng 6 vừa qua, ông vẫn còn đợi Hà Nội trả
lời về việc in bản dịch các cuốn: "Eschyle et la tragédie grecque,
Orestia, và Virgile et l'épopée latine. Hiện việc này tiến hành đến đâu rồi?
Ông Võ Văn Ái, nhà xuất bản Quê Mẹ, cũng là "nhà xuất bản của
ông" do giao kèo mà tôi ký với ông Ái, qua giấy ủy nhiệm của ông, sau
cùng, đã cho tôi biết kết quả đáng buồn về cuốn Un Excommunié, Hanoi 1954-1991:
Procès d'un intellectuel, tới tháng 4/1992, như sau:
Tình trạng tồn đọng (không ghi tới ngày nào) là 802 cuốn. Số
sách bán tới ngày 30/6/1995: 323 cuốn trên tổng số phát hành: 1530 cuốn.
Nhiệm vụ trung gian thân ái mà tôi đã hoàn toàn tình nguyện làm
cho tới ngày nay, cũng như tất cả những gì tôi đã làm cho đất nước ông, được
thúc đẩy bởi một nguyện ước sâu xa, thường trực, và kiên quyết, là để góp phần
xây dựng lại tình bạn Việt-Pháp. Tôi vẫn tin, tôi còn tin. Và tôi đã dành cả
sinh mệnh và sức lực của tôi trong suốt cuộc đời cho lý tưởng này.
Trong tinh thần đó, tôi đã "khai ngòi" cho việc nhận
diện lại con người cao quý của ông, về phía Pháp cũng như về phía cộng đồng Việt
Nam tại Pháp, bằng mối liên hệ mà tôi nối với nhà xuất bản này, để in cuốn sách
tiếng Pháp đầu tiên(của ông) từ gần 50 năm nay. Cố gắng đầu tiên này sẽ được
tiếp nối trong cộng đồng di tản hải ngoại bằng việc dịch tác phẩm sang tiếng Việt
(dĩ nhiên vì bản tiếng Pháp không bán được, nên phải ngừng lại).
Dự trình ban đầu của chúng tôi năm 1991 đã có nhiều thay đổi
trong thời gian qua. Ở thời điểm đó, phải hết sức thận trọng. Ông Võ Văn Ái và
tôi đã vô cùng lo ngại ông sẽ bị liên lụy vì lối hành xử "tự do" của
chúng tôi ở Paris. Tôi đã chứng kiến nỗi lo lắng tuyệt đối có tính cách cha con
mà ông chủ nhà xuất bản và bà Phương Anh, vợ ông, bộc lộ, về ông. Họ đã tin tưởng
một cách rất chân thành và với nhiều lý tưởng về sự thành công của dự trình này
- dù mục đích thương mại của họ có thế nào chăng nữa. Ngày đầu tiên, họ đã tiếp
tôi, với sự vui mừng lạ lùng và mối thân tình thực sự. Chúng tôi cùng chia sẻ
những cái nhìn về con người và tác phẩm của ông và lợi ích cực điểm trong việc
hướng công chúng trở lại với tên ông (...)"
Bìa sau cuốn Un Excommunié, nhà xuất bản trích một đoạn thư
của Nguyễn Mạnh Tường viết ngày 16/3/1992 (có thể là gửi cho ông Fouilloux):
"Tôi muốn hoãn việc in các tác phẩm của tôi vì hoàn cảnh mới
đây khiến tôi phải thận trọng, nhưng ông đã làm tôi vượt con sông Rubicon[70] và
ông có lý: Rất nguy hiểm nhưng phải liều. Tôi chờ đợi cái tồi tệ nhất và mong
nó không xẩy ra. Nhưng nếu họ dã man đến buộc tội tôi như những trí thức bị kết
án phỉ báng chế độ, tôi sẽ vững chân đợi những thử thách, biết trước là tàn khốc.
Tôi đã quyết định, nếu sự đó xẩy ra, tôi sẽ nhịn ăn tới chết. Ở tuổi 84, tôi đã
trải qua tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, và chẳng tiếc gì phải từ giã nó. Đời
tôi, tôi đã làm tròn bổn phận của một trí thức trước dân tộc và lịch sử."
Việc in những dòng này, có lẽ đã được toan tính trước, để cảnh
báo nhà cầm quyền nếu nặng tay với Nguyễn Mạnh Tường, kết quả sẽ khó lường được.
Sự "thất bại" của Un Excommunié, là một
sự kiện đớn đau nhưng dễ hiểu: Một phần, vì người Việt có bằng cấp (bác sĩ, kỹ
sư...) thường được coi là "trí thức", ít chịu đọc sách, nhất
là sách Pháp. Thập niên 1990, còn có tình trạng phân hoá trầm trọng giữa hai
phe Quốc - Cộng ở Paris, khiến cho cuốn Un Excommunié, do
nhà xuất bản Quê Mẹ, thuộc phe Quốc in ra, bị phe Cộng sa
thải. Hơn nữa, nội dung tác phẩm cũng không phù hợp với nhãn quan của các nhà
trí thức phái tả.
Mặc tuổi cao, bệnh hoạn, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã miệt mài
làm việc, hoàn tất 7 tác phẩm viết về xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản, mà
bộ hồi kýLarmes et sourires d'une vieillesse - Nụ cười và nước mắt tuổi già, gồm
ba cuốn. Có thể trong tác phẩm đồ sộ này, một khi được công bố toàn diện văn bản
tiếng Pháp, không cắt xén, không biên tập lại, chúng ta sẽ tìm thấy 80 năm đời
ông và 80 năm lịch sử Việt Nam trùng hợp. Lịch sử đích thực. Lịch sử của sự thực.
Những năm cuối đời, nhà văn Nguyễn Mạnh Tường tha thiết mong các
tác phẩm của mình được in tại Paris. Vô vọng. Trong thư ông Fouilloux cho biết,
ông đã chấm dứt nhiệm vụ và đã trao lại cho con gái luật sư, khi cô đến Paris.
Dường như đó là lá thư cuối cùng của ông Fouilloux vì sau đó ông mất về bệnh
tim.
[1] Em ruột bà Hoàng Xuân Hãn.
[2] Trần Văn Hà, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, tự học và quyết
tâm là bí quyết thành công, Xưa và Nay, số 11, 1996.
[5] Phong Lê, Nguyễn Mạnh Tường-Một chân dung và một hành
trình như tôi hiểu, Hồ sơ Nguyễn Mạnh Tường, mạng Vietstudies.
[7] Jules Boissières, thuộc ngành hành chính dân sự, 1886 đến
Bắc Kỳ cùng với Paul Bert và làm phụ tá cho Paul Bert. Paul Bert, bác học và
chính trị gia, học trò của Claude Bernard, là vị Tổng Trú Sứ - Résident général
Bắc và Trung Kỳ có đầu óc tự do, ôn hoà, chủ trương hợp tác Pháp-Việt, ông mở
các trường Pháp-Việt đầu tiên ở Bắc và Trung (ở Nam Kỳ có từ 1867). Năm 1886,
Paul Bert mất tại Hà Nội. Boissières mất tại Hà Nội năm 1897, ở tuổi 34, nổi tiếng
với tập truyện ngắn Fumeurs d'opium - Những kẻ hút thuốc phiện in
năm 1919.
[8] Phạm Trần, Hạnh ngộ cụ Nguyễn Mạnh Tường, Hai thế hệ,
một tâm tình, Paris, 16/11/1989, tài liệu đánh máy.
[11] Nguyễn Văn Hoàn, Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường,
tháng 10/2009, báo Hồn Việt, mạng Vietstudies.
[12] Phạm Trần, bđd. Theo cuốn Apprentissage de la
Méditérannée- Kinh nghiệm Địa Trung Hải, ông đến Madrid tháng 4/1933, rồi
đi thăm các tỉnh Tây Ban Nha và đi Ý; năm 1934 sang Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy
ông đã nhớ lầm trật tự các chuyến đi, khi trả lời Phạm Trần 60 năm sau.
Un Annamite de 22
ans, qui s'appelle Nguyen Manh Tuong, vient de décrocher avec une aisance
remarquable, à la Faculté de Montpellier, le doctorat en droit et le doctorat
ès lettres. Il ne lui a fallu que cinq ans d'études pour obtenir ainsi deux
mandarinats occidentaux de première classe. Ce "jaune" intellectuel,
s'est particulièrement distingué en soutenant une thèse littéraire sur le
théâtre d'Alfred de Musset. Il pourrait sans aucun doute en remontrer à nombre
de nos critiques. Le jury lui a adressé des félicitations auxquelles je ne me
permettrai pas indigne que je suis, de joindre les miennes.
On ne compte
d'ailleurs plus les jeunes Indochinois qui ont conquis, en France des diplômes
de tous genres; ils obtiennent des succès universitaires que nombre de jeunes
"barbares blancs", moins bien doués, leur envient... Très
travailleurs, très intelligents, et par surcroît, très ambitieux, ces
Asiatiques débrouillent, comme en se jouant, les mystères de notre orgueilleuse
science, puis retournent dans leur patrie en disant:
- C'est tout ça,
leur fameuse civilisation? De loin, ça paraît formidable, et de près, ce n'est
vraiment pas grand'chose!
Aussi je me demande
si nous ne commettons pas la plus grave des imprudences en initiant ainsi aux
arcanes de notre "culture" des gaillards qui, rentrés chez eux, ne
peuvent plus croire à la supériorité de cette race blanche qui les tient
cependant en tutelle.
C'est très joli
d'ouvrir aux indigènes les portes de nos universités, de les bombarder docteurs
ès ceci et ès cela, mais nous nous faisons bien des illusions: nous croyons que
c'est là un bon moyen d'effacer les souvenirs de la conquête et de passer le
plus rapidement de l'ère de la domination à celle de la collaboration.
Les Jaunes que nous
avons badigeonnés d'un intellectualisme blanc ne tournent sans doute pas à
l'écarlate quand ils ont regagné les bords du fleuve Rouge, mais enfin beaucoup
d'entre eux forment les cadres de ce parti communiste qui, en Europe, se
déclare pour l'abolition des patries, mais, aux colonies prêche le nationalisme
cent pour cent.
Comment voulez-vous
qu'il n'en soit pas ainsi? Ce qui m'étonne, c'est qu'une jeune Indochinoise
-car il est aussi des étudiantes jaunes- rentrée dans son pays avec le diplôme
de professeur d'histoire, ne soit pas encore devenue la "Vierge
rouge" d'une révolution libératrice en déclarant:
- A présent, c'est
moi qui suis Jeanne d'Arc!
La sagesse
consisterait, me semble-t-il à favoriser le développement des indigènes dans la
ligne de leur propre civilisation. A quoi rime, je vous le demande cette thèse
d'un Annamite sur le théâtre d'Alfred de Musset, théâtre charmant, raffiné,
exquis, tout ce que vous voudrez, mais vraiment peu fait pour donner à un
conquis une haute idée de la morale des conquérants?
N'oublions pas que
Gandhi est un diplômé des universités d'outre-Manche et qu'il en donne du fil à
retordre, avec son rouet, à l'Angleterre... Soyez tranquille, nous en aurons,
quelque jour, notre part.
Clément Vautel
Le Journal,
17-7-1932
[21] Le tort de parler trop tôt - Sai lầm vì nói sớm
quá của Georges Boudarel, in trong Sudestasie số 52, tháng 5/1988. Việc
NMT làm phụ tá Thị trưởng, Boudarel dựa theo tài liệu trong Souverains et
notabilités d'Indochine, Éditions du Gouvernement général de l'Indochine, 1943,
trg 99.
[25] Nguyễn Đình Nhân, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường từ trần tại
Việt Nam, báo Tin Tức, 7-8/1997, Paris.
[26] Hoà Khánh, Ba giờ với luật sư Nguyễn Mạnh Tường, phỏng
vấn ghi âm, viết lại, đăng trên Giai phẩm xuân Quê Mẹ, số 105-106, tháng
1/1990.
[29] Trong bài Đường về Liên khu Ba, Cách mạng Kháng chiến
và đời sống văn học, tập 1, trang 155-163.
[36] Kiều Mai Sơn, Nguyễn Mạnh Tường, Luật sư huyền thoại,
An Ninh Thế Giới 10/10/2009, mạng Bee.net và Vietstudies.
[45] Hoàng Trung Thông kể, Tôn Phương Lan ghi, Trên địa
bàn văn nghệ khu Bốn và Việt Bắc, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học,
tập 1, Tác phẩm mới, 1985, trang 184.
[65] ACCT là Agence de Coopération Culturelle et Technique - Cơ
quan hợp tác kỹ thuật và văn hoá, Jean-Louis Roy làm Tổng thư ký năm 1990.
[69] Ông Joël Fouilloux, địa chỉ năm 1989: số 2, Allée des
Ecuyers, 78240 Chambourcy, theo nha sĩ Nguyễn Văn Lung, đã mất về bệnh tim, khoảng
1996.
[70] Rubicon là tên con sông nhỏ ở biên giới Ý và La Gaule
cisalpine (tên Ý gọi đất Pháp vùng núi Alpes thuộc Ý). Thành ngữvượt sông
Rubicon do điển tích: Thời xưa, để bảo vệ thành La Mã, có luật cấm Tướng cầm
quân từ La Gaule về vượt biên giới này mà không có phép của Nguyên Lão Nghị Viện
(Sénat). Năm 50, César, bất chấp luật, đem quân vượt sông Rubicon, rồi tuyên bố: Việc
đã rồi! Từ đó có thành ngữ vượt sông Rubicon.
No comments:
Post a Comment