Thực hiện Nghị quyết của Quốc
hội về việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là
Dự thảo), chúng tôi, những người Việt Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với
Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời
mong mỏi toàn thể đồng bào trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ý kiến để
nhân dân ta có một Hiến pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền
vững của đất nước, mang lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương
lai.
Hiến pháp của một quốc gia do
dân làm chủ bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân và được hình thành từ
sự thỏa thuận giữa các thành phần đa dạng trong xã hội. Dự thảo chưa thấu suốt
bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của
nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có
sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa
các nhánh quyền lực nhà nước bằng các cơ chế đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không thể vượt quá giới hạn được ấn
định. Kiểm soát từ bên ngoài đối với công quyền được thực hiện bởi nhân dân
với vai trò quan trọng của xã hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do về
ngôn luận, báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình,…
Hiến pháp phải mang tính chính
đáng được đo bằng nhiều tiêu chí. Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ
độc lập chủ quyền, kiến tạo tự do, dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng
thời đoàn kết toàn dân, loại bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát
triển bền vững của dân tộc. Thứ hai, hiến pháp phải thể hiện ý chí chung của
nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để lập ra các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, hiến pháp phải được xây dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ biến của
thế giới văn minh, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt
chúng tôi kiến nghị 7 điểm như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói
đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không
làm rõ mục tiêu của hiến pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác
định mục tiêu trước hết là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi
người dân. Một bản hiến pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm
quyền, tạo dựng khuôn khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn
ra một cách an bình và hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của
các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban
hành hay sửa đổi hiến pháp) là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành
pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ
chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Lời nói đầu cần xác định rõ chủ thể
quyết định, ban hành hiến pháp là nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ
để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không
đáp ứng được các yêu cầu trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
“Kế tiếp nền văn hiến và
truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước,
đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân,
vì một xã hội dân chủ, công
bằng và pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam,
quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này.”
Trong Chương I, cần nhấn
mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân đòi hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc.
Nếu hiến pháp thực sự do nhân dân quyết định thì việc định trước vai
trò lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một tổ chức chính trị hay
một tầng lớp là trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người,
quyền công dân và ngược với bản chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã
hội sẽ do nhân dân bầu chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ,
định kỳ. Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân
sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên
Xô năm 1977 quy định ở Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối
với nhà nước và xã hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ
Xô-viết khi không còn lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận
cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát
triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung
thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp
thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong
dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận.
Kiến nghị thứ hai về quyền con
người
Một mục đích của việc thành lập
Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người.
Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để
đề cao các quyền này so với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa
phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy
định trong Dự thảo về giới hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con
người, quyền công dân” (Điều 16), “quyền không tách rời
nghĩa vụ” (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều nghĩa vụ
một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong Dự thảo
các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định
chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, … nhằm hạn chế những
quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con người,
đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế những năm
qua ở nước ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo
theo đúng tinh thần của Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước
quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Nếu các quyền này được ghi
trong Hiến pháp mà không được thực thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy
định các quyền ấy cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy
định thành lập một Ủy ban Quốc gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất
đai
Chế độ sở hữu tư nhân về đất
đai đã tồn tại từ lâu trên đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân
kể từ Hiến pháp Việt Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều
hoàn toàn xa lạ với nhân dân Việt Nam và đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội.
Điều 57 Dự thảo tiếp tục khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu” là duy trì quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề
ngày càng trầm trọng do quy định này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện
về đất đai trong những năm qua chỉ là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy
hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân,
tập thể, cộng đồng về đất đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một
quyền tài sản quan trọng bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với
sở hữu toàn dân về đất đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền
tham nhũng, lộng quyền, bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi,
gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc
thu hồi đất, trong đó lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh
tế – xã hội; đây là một sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ
bất ổn xã hội.
Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa
đổi Điều 57 của Dự thảo, trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp
1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà
nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có trách nhiệm bảo
vệ và thống nhất quản lýđất đai, tài nguyên nước, khoáng sản và các
tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản
khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu
hồi đất bằng trưng mua đất và
không áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của
Dự thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà
nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải
phân biệt rạch ròi các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ
quan hiến định khác. Tất cả các cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và
luật. Các nhánh quyền lực ràng buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi
phối bởi bất kỳ một tổ chức hay cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc
quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế
quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp và luật. Tòa án Hiến pháp phải được
thành lập, có chức năng phán quyết, chứ không phải là tư vấn, kiến nghị như
chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy định trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng
vũ trang
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn
dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của
các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục
vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ
không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự
thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu
dân ý đối với Hiến pháp
Quyền lập hiến là quyền của
toàn dân, phải phân biệt với quyền lập pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng
cầu dân ý để phúc quyết Hiến pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp:
“Bảo đảm quyền phúc quyết của nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng
cầu dân ý được tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người
dân và báo giới.”
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn
góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ý kiến đóng góp của
toàn dân về sửa đổi Hiến pháp là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải
được tiến hành một cách nghiêm chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời
hạn lấy ý kiến của nhân dân chỉ trong vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến
tình trạng làm một cách hình thức cho qua chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị
gia hạn thời gian lấy ý kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến
khích đề xuất các dự thảo khác để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
cùng toàn thể đồng bào tham khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến
pháp phù hợp nhất cho quốc gia.(*)
Sửa Hiến pháp theo tinh thần
của các kiến nghị nêu trên sẽ phát huy dân chủ và hòa hợp dân tộc – những đòi
hỏi hết sức bức xúc của nhân dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự
phát triển bền vững lâu dài của đất nước.
Chúng tôi tha thiết mong mỏi
đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng bản Kiến nghị này bằng cách đăng ký tham
gia ký tên theo địa chỉ thư điện tử:kiennghisuadoihienphap2013@gmail.com
Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm
2013
Chú thích: * Theo tinh thần đó, một số
chuyên gia luật ở trong nước đã soạn một dự thảo hiến pháp được gửi kèm Kiến
nghị này như một tài liệu để tham khảo và thảo luận.
(*) Ba Cừu dẫn lại từ
boxitvn.blogspot.com để tiện phổ biến. Xem bản gốc tại đây
Tài liệu để tham khảo, thảo
luận:
DỰ THẢO HIẾN PHÁP 2013
LỜI NÓI ĐẦU
Kế tiếp nền văn hiến và truyền
thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu
tranh vì tự do và độc lập của dân tộc,vì một xã hội công bằng, dân chủ và tôn
trọng pháp quyền, vì mục tiêu hạnh phúc và tự do của các thế hệ hiện tại và
tương lai,chúng tôi, nhân dân Việt Nam, thông qua các đại diện của mình, xây
dựng bản Hiến pháp này.
CHƯƠNG I. CÁC QUY
ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Chủ quyền quốc gia
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và
vùng trời.
Điều 2. Chủ quyền nhân dân
Chủ quyền Việt Nam thuộc về nhân dân và tất cả
các quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Quyền lập hiến là một quyền không
thể bị tước đoạt của nhân dân.
Điều 3. Cộng đồng các dân tộc
Việt Nam
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia thống
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân
tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, có quyền phát
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chính
sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát
huy nội lực, hội nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
Điều 4. Công dân
1. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam được luật quy định.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất
khỏi lãnh thổ Việt Nam, giao nộp cho nhà nước khác.
3. Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước
ngoài.
4. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ
phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
5. Người gốc Việt Nam có quốc tịch nước khác
hoặc chưa có quốc tịch nước nào có quyền có quốc tịch Việt Nam.
6. Địa vị của người nước ngoài được đảm bảo
theo quy định của luật pháp quốc tế và điều ước quốc tế.
Điều 5. Các điều ước quốc tế
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận, kế
thừa và tôn trọng các điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trước
đây ký kết và ban hành không trái với các hiến pháp tương ứng và các quy tắc
chung được luật pháp quốc tế công nhận vào thời điểm đó.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận
bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố nào mà các chính quyền Việt Nam trước
đây đã ký kết hoặc đưa ra một cách bí mật, không đúng thẩm quyền hoặc không
đúng theo các thủ tục pháp luật vào thời điểm đó.
3. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận
bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố do bất cứ đảng phái chính trị, tổ chức
phi nhà nước hay cá nhân nào đã ký kết hoặc đưa ra, một cách bí mật hay công
khai, liên quan đến chủ quyền hay lãnh thổ Việt Nam.
Điều 6. Tôn trọng hòa bình, bảo
vệ Tổ quốc và nhân dân
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nỗ lực duy trì
hòa bình quốc tế và từ bỏ chiến tranh xâm lược.
2. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh
quốc gia là nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
3. Các lực lượng vũ trang được trao sứ mệnh
thiêng liêng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
4. Các lực lượng vũ trang phải duy trì tính
trung lập về chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay
cá nhân nào.
Điều 7. Tính chất dân sự của
lực lượng cảnh sát
Lực lượng cảnh sát có sứ mệnh thực thi luật
pháp và giữ gìn trật tự. Cảnh sát thuộc lĩnh vực dân sự, không thuộc về các lực
lượng vũ trang.
Điều 8. Trách nhiệm của công
chức
1. Công chức là công bộc của nhân dân và chịu
trách nhiệm trước nhân dân.
2. Địa vị và tính trung lập chính trị của công
chức được đảm bảo theo quy định của pháp luật
Điều 9. Đảng phái chính trị
1. Các đảng phái chính trị được tự do thành
lập và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ. Quyền đối lập chính trị được tôn
trọng.
2. Pháp luật bảo đảm sự bình đẳng giữa các
đảng phái chính trị.
Điều 10. Nền kinh tế quốc dân
1. Nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
dựa trên sự tôn trọng tự do và sáng kiến của các doanh nghiệp và cá nhân trong
đời sống kinh tế.
2. Nhà nước có thể quy định và điều phối các
hoạt động kinh tế nhằm duy trì sự tăng trưởng cân bằng, bền vững và ổn định,
nhằm phân phối thu nhập, ngăn chặn sự thống lĩnh thị trường và lạm quyền kinh
tế.
3. Nhà nước có nghĩa vụ thúc đẩy sự phát triển
của các ngành kinh tế để có nền kinh tế quốc gia cân đối. Nhà nước thúc đẩy
kinh tế bằng việc phát triển khoa học, công nghệ, thông tin, nguồn nhân lực và
khuyến khích sáng tạo.
Điều 11. Quốc kỳ, quốc huy,
quốc ca, quốc khánh và thủ đô
1. Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình
chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao
vàng năm cánh.
2. Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở
dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Quốc ca nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”.
4. Ngày Quốc khánh là Ngày Tuyên ngôn độc lập
2 tháng 9 năm 1945.
5. Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hà
Nội.
CHƯƠNG II. QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Điều 12. Nguyên tắc tôn trọng
các quyền con người
1. Ở nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, các quyền con người, được ghi nhận trongTuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948) và các điều
ước quốc tế về quyền con người khác mà Việt Nam là thành viên, được tôn trọng
và bảo vệ.
2. Các cơ quan nhà nước, công chức và viên
chức có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong các
lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Điều 13. Quyền bình đẳng
1. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền
và tự do mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa vào giới tính, ngôn
ngữ, tôn giáo, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần
xuất thân hay các yếu tố khác.
2. Các nhóm thiểu số được ưu tiên bảo vệ.
Điều 14. Quyền sống, tự do
và an toàn cá nhân
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an
toàn cá nhân. Quyền sống trong một môi trường trong lành của mọi người phải
được tôn trọng và bảo vệ.
Điều 15. Tự do không bị làm nô
lệ
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức
làm việc như nô lệ. Mọi hình thức nô lệ và buôn bán người đều bị cấm.
Điều 16. Quyền không bị tra tấn
và các quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự
1. Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt
một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt, giữ hay giam giữ một cách
tuỳ tiện. Trong vòng 24 giờ kể từ khi bị bắt, người bị bắt phải được đưa ra
trước một tòa án để xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc bắt giữ.
3. Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều
có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp
luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều
kiện cần thiết để bào chữa cho mình.
4. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ
hành vi nào không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay
pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không ai bị tuyên
phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được
thực hiện.
Điều 17. Quyền được tòa án bảo
vệ và quyền được xét xử công bằng
1. Mọi người đều có quyền được các toà án có
thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi
phạm các quyền cơ bản của họ đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
2. Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét
xử công bằng, công khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các
quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.
Điều 18. Bảo vệ danh dự, uy tín
và quyền riêng tư
1. Danh dự và uy tín cá nhân của mọi người
được tôn trọng.
2. Cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở và thư
tín của mọi người được tôn trọng.
Điều 19. Quyền tự do đi
lại và tự do cư trú
1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự
do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi và quyền
trở về Việt Nam.
Điều 20. Quyền kết hôn
1. Mọi người khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn
và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch,
tôn giáo hay giới tính.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng
ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.
Điều 21. Quyền sở hữu
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản tư
nhân hoặc sở hữu chung với người khác. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách
tuỳ tiện.
2. Đất đai có thể thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu
tập thể, sở hữu cộng đồng hoặc sở hữu nhà nước.
Điều 22. Tư do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo.
Điều 23. Tự do ngôn luận,
biểu tình, hội họp và lập hội
1. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và
bày tỏ ý kiến bằng mọi hình thức. Tư nhân có quyền ra báo, xuất bản.
2. Mọi người đều có quyền tự do biểu tình, hội
họp một cách ôn hòa.
3. Mọi người đều có quyền tự do lập hội. Không
ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ tổ chức nào.
Điều 24. Quyền tham gia chính
trị
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý đất
nước, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu mà họ tự do lựa chọn trong
các cuộc bầu cử.
Điều 25. Quyền hưởng an sinh xã hội
Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã
hội.
Điều 26. Quyền lao động và
nghiệp đoàn
1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự
do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận
lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp.
2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang
nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng
chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia
đình xứng đáng với nhân phẩm.
4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia
nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình.
5. Quyền đình công của người lao động được bảo
đảm bằng luật.
Điều 27. Quyền có mức sống thích đáng
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức
sống thích đáng, đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình,
cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, góa bụa,
già hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả
năng đối phó của họ.
2. Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự
chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú,
đều phải được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau.
Điều 28. Quyền học tập
Mọi người đều có quyền học tập. Giáo dục tiểu
học là bắt buộc và miễn phí.
Điều 29. Quyền về văn hóa
1. Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời
sống văn hoá của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến
bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các
quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học
hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả.
Điều 30. Bảo vệ người tiêu dùng
Nhà nước phải có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng.
Điều 31. Nguyên tắc chung của
nghĩa vụ
Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng
đồng. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ
những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng
thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng
những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong
một xã hội dân chủ.
Điều 31. Nghĩa vụ nộp thuế
Mọi công dân có nghĩa vụ nộp thuế theo các
điều kiện luật định.
Điều 32. Bảo vệ Tổ quốc và tri
ân những người có công
1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng.
Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tôn
vinh công lao của tất cả những người đã hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc,
ghi nhận và tôn vinh công lao của các thương binh, các cựu chiến binh bất luận
họ đã phục vụ trong chính thể nào trong quá khứ và có chính sách hỗ trợ họ
trong giáo dục, đào tạo nghề và trong mưu sinh.
Điều 33. Nghĩa vụ quân sự
Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và
tham gia lực lượng vũ trang dự bị theo luật định.
CHƯƠNG III. LẬP PHÁP
Điều 34. Quốc hội
1. Quyền lập pháp được nhân dân ủy quyền cho
Quốc hội. Quốc hội bao gồm Hạ viện và Thượng viện.
2. Thành viên của Quốc hội là các nghị sĩ, gồm
Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ. Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ do nhân dân bầu ra
thông qua bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
3. Không ai có thể đồng thời là Hạ nghị sĩ và
Thượng nghị sĩ.
4. Quốc hội có quyền lập pháp, phê chuẩn việc
bổ nhiệm lãnh đạo các cơ quan hành pháp, bổ nhiệm các thẩm phán, lãnh đạo các
cơ quan hiến định độc lập theo quy định của Hiến pháp và luật.
Điều 35. Hạ nghị sĩ
1. Các Hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và có thể
được bầu lại.
2. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu 1 (một) Hạ Nghị
sĩ.
3. Đơn vị bầu cử Hạ Nghị sĩ gồm các đơn vị
hành chính cơ sở (cấp xã) nằm trong một vùng sao cho các đơn vị có dân số xấp
xỉ ngang nhau.
4. Số đơn vị bầu cử của một đơn vị hành chính
cấp tỉnh được tính bằng số nguyên làm tròn của con số được tính bằng dân số của
đơn vị cấp tỉnh đó (theo tổng điều tra dân số gần nhất) nhân với 250 rồi chia
cho dân số toàn quốc. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh có ít nhất một đơn vị bầu
cử.
5. Mọi công dân đủ 25 tuổi trước ngày bầu cử
có thể là ứng cử viên Hạ nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử nếu: (a) có được chữ ký
của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được một đảng
chính trị đề cử.
6. Tuy các Hạ nghị sĩ được bầu theo từng đơn
vị bầu cử, họ đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho
người dân cả nước.
Điều 36. Thượng nghị sĩ
1. Các Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm và có
thể được bầu lại.
2. Mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương) là một đơn vị bầu cử Thượng Nghị sĩ.
3. Mọi công dân đủ 30 tuổi trước ngày bầu cử
có thể là ứng cử viên Thượng nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử Thượng Nghị sĩ nếu:
(a) có được chữ ký của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc
(c) được một đảng chính trị đề cử.
4. Số Thượng nghị sĩ mà
mỗi đơn vị được bầu cử là 2. Đối với những tỉnh có người dân tộc thiểu số quá
20 % dân số tỉnh đó, thì bắt buộc phải có 1 Thượng nghị sĩ là người dân tộc
thiểu số.
5. Trong lần bầu Thượng nghị sĩ đầu tiên, mỗi
đơn vị bầu cử, bằng bốc thăm, chọn ra 1 Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và 1
Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm, sao cho cứ 3 năm sẽ tiến hành bầu lại một nửa
số Thượng nghị sĩ của Thượng viện.
6. Tuy các Thượng nghị sĩ được bầu theo từng
đơn vị bầu cử, họ đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho
người dân cả nước.
Điều 37. Bầu cử Thượng viện và
Hạ viện
1. Việc bầu cử toàn bộ các Hạ nghị sĩ và các
Thượng nghị sĩ lần đầu tiên theo Hiến Pháp này được tiến hành trong vòng 100
ngày kể từ ngày bản Hiến pháp có hiệu lực.
2. Nghị sĩ hết nhiệm kỳ vào ngày tính đúng 36
tháng đối với các Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ được bầu lần đầu có nhiệm kỳ 3
năm kể từ ngày tuyên thệ nhậm chức; vào ngày tính đúng 72 tháng đối với các
Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm kể từ ngày tuyên thệ nhậm chức.
3. Trong vòng 100 ngày trước khi các Nghị sĩ
hết nhiệm kỳ, phải tổ chức bầu cử các Nghị sĩ mới cho nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu
đơn vị bầu cử không hội đủ số người đắc cử theo quy định thì phải tổ chức bầu
lại từ các ứng viên thất cử của đợt bầu trước đó trong vòng 15 ngày sau khi
cuộc bầu cử trước kết thúc. (Các) đợt bầu cử lại này được tiến hành cho đến khi
chọn đủ số người đắc cử theo quy định và trong mọi trường hợp phải kết thúc
trước ngày các Nghị sĩ đương nhiệm hết nhiệm kỳ 15 ngày.
4. Nếu khuyết Nghị sĩ vì bất cứ lý do gì, thì
(a) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại dưới 1 năm sẽ không có bầu cử bổ sung; hoặc
(b) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại bằng hay trên 1 năm phải tổ chức bầu bổ sung
tại đơn vị bầu cử đó cho đủ số bị khuyết trong vòng 60 ngày kể từ khi các Viện
xác nhận sự khuyết. Nhiệm kỳ của người được bầu bổ sung sẽ chấm dứt cùng với
nhiệm kỳ của các Nghị sĩ đương nhiệm.
5. Thủ tục ứng cử, tranh cử, bầu cử được quy
định chi tiết trong luật bầu cử.
Điều 38. Sự chuyên trách, tuyên
thệ và quyền miễn trừ của Nghị sĩ
1. Trong khi đương nhiệm các Nghị sĩ không
được đồng thời giữ bất kỳ chức vụ nào khác tại bất kỳ cơ quan, tổ chức công hay
tư, trong các lực lượng vũ trang hay cảnh sát. Nếu đã giữ các chức vụ như vậy
trước khi được bầu làm Nghị sĩ thì phải chính thức từ nhiệm các chức vụ đó
trước khi thực hiện nhiệm vụ Nghị sĩ và việc từ chối từ nhiệm sẽ được coi là từ
bỏ nhiệm vụ Nghị sĩ.
2. Các Nghị sĩ được trả lương từ Ngân khố quốc
gia.
3. Các Nghị sĩ, trước
khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, sẽ phải tuyên thệ trước mỗi Viện: “Tôi long trọng tuyên thệ thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách
mẫn cán và tận tâm, để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích của nhân dân và đất
nước; làm mọi việc trong thẩm quyền của mình vì sự phồn vinh của đất nước và
hạnh phúc của nhân dân; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Việc từ chối tuyên thệ sẽ được coi
là từ bỏ nhiệm vụ Nghị sĩ.
4. Nghị sĩ sẽ không phải chịu trách nhiệm bên
ngoài nghị viện về ý kiến chính thức đã nêu hoặc về việc bỏ phiếu của mình tại
Nghị viện.
5. Không Nghị sĩ nào có thể bị bắt hoặc giam
giữ mà không được sự đồng ý của với đa số 2/3 của các Nghị sĩ của Nghị Viện mà
Nghị sĩ đó là thành viên, ngoại trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Điều 39. Tính liêm chính và
tránh xung đột lợi ích của Nghị sĩ
1. Nghị sĩ có nghĩa vụ duy trì chuẩn mực cao
về liêm chính, phải ưu tiên lợi ích quốc gia và thực hiện các nhiệm vụ của mình
phù hợp với lương tâm.
2. Nghị sĩ không được lạm dụng chức vụ, quyền
hạn của mình, không được đòi hỏi các lợi ích về tài sản hay địa vị, hoặc giúp
người khác thu lợi, thông qua thông đồng hay sự sắp xếp của nhà nước, các tổ
chức công quyền hay các ngành công nghiệp.
3. Nghị sĩ phải khai báo tài sản của mình theo
luật định.
4. Nghị sĩ, vợ hay chồng của Nghị sĩ, cũng như
các doanh nghiệp do họ sở hữu hay chiếm quyền chi phối, không thể tham dự các
cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền và các doanh nghiệp do
nhà nước sở hữu hay chiếm quyền chi phối.
Điều 40. Tổ chức Hạ viện
1. Mỗi Hạ nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu quyết
tại Hạ viện.
2. Mọi quyết định của Hạ viện được coi là được
thông qua nếu được đa số phiếu, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp
này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3. Hạ viện bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ
tịch.
4. Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Hạ viện
bị khuyết, thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi Hạ viện bầu
ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.
5. Hạ viện quyết định về tổ chức nội bộ của
mình, có thể thể lập ra Văn phòng Hạ viện, các ủy ban thường trực hay lâm thời.
Điều 41. Tổ chức Thượng viện
1. Mỗi Thượng nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu
quyết tại Thượng Nghị Viện.
2. Mọi quyết định của Thượng viện sẽ coi là
được thông qua nếu được đa số phiếu tán thành, trừ các quyết định đặc biệt nêu
trong Hiến pháp này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3. Thượng Nghị Viện bầu ra một Chủ tịch và một
Phó Chủ tịch.
4. Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Thượng
Nghị Viện bị khuyết, thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi
Thượng Nghị Viện bầu ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.
5. Thượng Nghị Viện quyết định về tổ chức nội
bộ của mình, có thể thể lập ra Văn phòng Thượng viện, các ủy ban thường trực
hay lâm thời.
Điều 42. Họp Hạ viện, Thượng
viện và Quốc hội
1. Trừ trường hợp Hiến pháp hay luật quy định
khác, cuộc họp của Hạ viện (hay Thượng viện) là hợp lệ nếu có mặt của đa số
trong tổng số Hạ nghị sĩ (hay Thượng nghị sĩ), quyết định hợp lệ được thông qua
với đa số phiếu hiện diện.
2. Họp Quốc hội là phiên họp chung của Hạ viện
và Thượng viện do Chủ tịch Hạ viện chủ tọa hay Chủ tịch Thượng viện chủ tọa khi
Chủ tịch Hạ viện vắng mặt. Quốc hội ban hành quy chế về thủ tục, thể thức họp
Quốc hội. Các quyết định của Quốc hội là các quyết định được đưa ra tại các
phiên họp chung này.
3. Các cuộc họp của Hạ viện, Thượng viện, Quốc
hội được mở công khai cho công chúng, trừ khi đa số thành viên có mặt quyết
định, hoặc khi Chủ tịch xét thấy cần thiết vì lợi ích an ninh quốc gia thì công
chúng không thể tham dự.
4. Việc công bố công khai các thủ tục của kỳ
họp kín sẽ được luật quy định.
5. Biên bản cuộc họp phải đầy đủ, chi tiết,
ghi rõ ý kiến và số phiếu biểu quyết của từng Nghị sĩ. Có thể đồng thời ghi âm,
ghi hình cuộc họp để lưu trữ. Mọi công dân đều có quyền tiếp cận biên bản của
các cuộc họp mở công khai, theo thủ tục do luật định.
Điều 43. Quyền trình dự án luật
1. Các Nghị sĩ, cơ quan hành pháp có thể đệ
trình dự án luật.
2. Một nhóm ít nhất 30.000 cử tri có quyền
trình dự án luật. Thủ tục về việc này do luật quy định.
3. Dự án luật phải được nộp cho Văn phòng Hạ
viện.
4. Người, hay nhóm công dân bảo trợ dự án
luật, khi đệ trình dự án luật cho Hạ viện, có trách nhiệm giải trình rõ các hệ
quả về tài chính của việc thực thi dự án luật.
5. Người, nhóm người hay cơ quan trình dự án
luật có thể rút lại dự án luật trong quá trình thẩm định và xem xét thông qua.
Điều 44. Thẩm định, thảo luận,
thông qua dự luật
1. Dự án luật, dự thảo luật đã được đệ trình
lên Hạ viện được gọi chung là dự luật. Dự luật phải trải qua các khâu thẩm định
theo quy định của luật.
2. Hạ viện thảo luận, xem xét dự luật và biểu
quyết thông qua với đa số phiếu hiện diện hay bác bỏ. Trong mọi trường hợp nghị
quyết thông qua hay bác bỏ, trong vòng 3 ngày dự luật cùng hồ sơ bác bỏ hay
thông qua đều phải chuyển sang Văn phòng Thượng viện.
3. Nếu Hạ viện đã thông qua dự luật thì dự
luật được Thượng viện xem xét và dự luật được Thượng viện thông qua nếu đạt đa
số phiếu hiện diện chấp thuận. Trong trường hợp đó dự luật đã được Quốc hội (cả
2 viện) thông qua.
4. Nếu Thượng viện bác bỏ thì trong vòng 3
ngày dự luật phải được chuyển lại cho Hạ viện cùng với nghị quyết nêu rõ lý do
bác bỏ. Hạ viện sẽ xem xét lại và nếu dự luật được Hạ viện thông qua lần nữa
với đa số 2/3 của các Hạ nghị sĩ thì dự luật được coi là đã được Quốc hội thông
qua, nếu không đạt đa số 2/3 thì vẫn phải chuyển qua Thượng viện xem xét.
5. Trong trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy
cần, Hạ viện có thể yêu cầu Thượng viện xem xét và biểu quyết trước một dự
luật, sau đó Hạ viện mới xem xét và biểu quyết. Khi đó vai trò của mỗi Viện thay
thế cho nhau trong quy trình nêu trên.
6. Thời gian xem xét và biểu quyết dự luật tại
Thượng viện không được quá một nửa (1/2) thời gian xem xét và biểu quyết tại Hạ
viện. Thời gian xem xét và biểu quyết dự luật tại Hạ viện không được quá hai
lần thời gian xem xét và biểu quyết tại Thượng viện.
7. Dự án luật không thể bị loại bỏ vì không
được thông qua trong kỳ họp mà nó được trình ra, ngoại trừ trong trường hợp
nhiệm kỳ của các Nghị sĩ đã hết.
Điều 45. Dự luật trở thành luật
1. Dự luật đã được Quốc hội thông qua phải
được gửi đến Tổng thống trong vòng 7 ngày.
2. Sau khi nhận được dự luật đã được Quốc hội
thông qua, Tổng thống có thể chuyển dự luật cho Tòa án Hiến pháp để xét xem có
phù hợp với Hiến pháp hay không. Trong trường hợp Tòa án Hiến Pháp xác minh dự
luật phù hợp với Hiến pháp, nó trở thành luật. Trong trường hợp dự luật có các
điều khoản cụ thể được Tòa án Hiến pháp cho là không hợp hiến và Tòa án Hiến
pháp không xác định các điều khoản đó là không thể tách rời toàn bộ dự luật,
thì Tổng Thống có thể loại bỏ các điều khoản được cho là vi hiến đó sau khi đã
tham vấn ý kiến của Chủ tịch Hạ viện và dự luật trở thành luật với sự loại bỏ
đó.
3. Trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được dự
luật từ Quốc hội, nếu Tổng thống chấp thuận thì dự luật trở thành luật.
4. Nếu Tổng thống phản đối dự luật, thì trong
vòng 15 ngày kể từ khi nhận được từ Quốc hội, Tổng thống phải gửi trả lại Quốc
hội xem xét lại dự luật với giải thích bằng văn bản sự phản đối, nhưng không
được yêu cầu Quốc hội xem xét lại từng phần của dự luật hay đưa ra đề xuất sửa
đổi.
5. Nếu Tổng thống phản đối dự luật, nhưng quá
thời hạn 15 ngày kể trên mà Tổng thống không trả lại dự luật cho Quốc hội, thì
dự luật tự động trở thành luật.
6. Trong trường hợp Tổng thống trả dự luật lại
cho Quốc hội, Quốc hội phải xem xét lại dự luật, sau đó: (a) sửa đổi theo trình
tự thông thường, hoặc (b) thông qua văn bản gốc của dự luật với đa số 2/3 của
các đại biểu có mặt, trường hợp này thì dự luật trở thành luật.
Điều 46. Công bố luật
1. Khi dự luật đã trở thành luật, Tổng thống
phải công bố luật không chậm trễ.
2. Trong trường hợp dự luật tự động trở thành
luật (theo Khoản 5 Điều 45) hay trở thành luật theo (b) Khoản 6 Điều 45, thì
Tổng Thống cũng phải ký công bố không chậm trễ; nếu Tổng Thống vẫn không công
bố thì Chủ tịch Hạ viện ký công bố và hành vi này của Tổng Thống có thể trở
thành căn cứ cho việc luận tội vi phạm Hiến pháp.
3. Luật được công bố trên Công báo và có hiệu
lực vào ngày do luật định hoặc 30 ngày sau ngày ký công bố nếu luật không định
rõ ngày có hiệu lực.
Điều 47. Ngân sách
1. Không một khoản tiền nào từ ngân sách nhà
nước được chi, cho dù Cơ quan Hành pháp có yêu cầu, nếu chưa được Quốc hội
thông qua.
2. Hành pháp sẽ soạn thảo dự luật ngân sách
cho mỗi năm tài chính và đệ trình Hạ viện ít nhất 90 ngày trước ngày khởi đầu
của năm tài chính mới.
3. Quốc hội không tăng số tiền của bất kỳ
khoản chi nào, không tạo ra bất kỳ mục chi mới nào trong dự luật ngân sách nếu
không có sự đồng ý của Cơ quan Hành pháp.
4. Hạ viện quyết định về dự luật ngân sách
trong vòng 45 ngày kể từ ngày dự luật ngân sách được đệ trình và chuyển cho
Thượng viện.
5. Thượng viện quyết định về dự luật ngân sách
đã được Hạ viện chuyển qua trong vòng 20 ngày.
6. Nếu dự luật ngân sách không được thông qua
trước khi bắt đầu năm tài chính mới, Cơ quan Hành pháp có thể giải ngân, theo
cách phù hợp với ngân sách của năm tài chính trước, cho các mục đích sau đây
cho đến khi dự luật ngân sách được Quốc hội thông qua: (a) cho việc duy trì
hoạt động của các cơ quan được thành lập theo Hiến pháp hay luật; (b) cho việc
thực hiện các khoản chi bắt buộc theo quy định của pháp luật; và (c) cho việc
tiếp tục các dự án trước đó đã được phê duyệt trong ngân sách.
7. Hạ viện và Thượng viện có thể có phiên họp
chung để xem xét và quyết định về ngân sách khi thấy cần thiết.
Điều 48. Kiểm toán thu chi ngân
sách
Báo cáo tài chính cuối cùng về thu chi ngân
sách quốc gia sẽ được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán hàng năm và trình cho Quốc
hội.
Điều 49. Thuế
Các loại và mức thuế được xác định bằng luật.
Điều 50. Nợ
Mọi kế hoạch của Cơ quan Hành pháp về phát
hành trái phiếu quốc gia và ký kết hợp đồng mà có thể phát sinh nghĩa vụ tài
chính ngoài ngân sách của Nhà nước đều phải được Hạ viện phê chuẩn.
Điều 51. Chất vấn
1. Hạ nghị sĩ có quyền chất vấn các Bộ trưởng
bằng văn bản hoặc bằng các câu hỏi trực tiếp tại các phiên họp của Hạ viện.
2. Chất vấn bằng văn bản phải được trả lời
bằng văn bản trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được chất vấn.
3. Các Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời các
câu hỏi được nêu ra trong mỗi phiên họp của Hạ viện.
Điều 52. Điều trần
1. Để phục vụ cho hoạt động lập pháp, các ủy
ban của Hạ viện và Thượng viện có thể tổ chức các cuộc điều trần để nghe những
người có liên quan giải thích, làm rõ những vấn đề nhất định nhằm tạo cơ sở cho
các quyết định lập pháp và giám sát của Quốc hội.
2. Những người được mời điều trần trước các ủy
ban có thể là các Nghị sĩ, các quan chức chính phủ, lãnh đạo các tổ chức dân
sự, công đoàn, các doanh nhân, chuyên gia, học giả, nhà khoa học…
3. Để chọn ra các quan chức có chất lượng, tất
cả các ứng viên tiềm năng vào các chức Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch hay lãnh
đạo của các cơ quan hiến định đều phải điều trần trước khi được bổ nhiệm và phê
chuẩn.
4. Thủ tục mời và tiến hành điều trần do luật
định.
5. Biên bản các cuộc điều trần được công bố
công khai, trừ các cuộc điều trần liên quan đến an ninh quốc gia, và được lưu
trữ theo luật định.
Điều 53. Trưng cầu dân ý toàn
quốc
1. Cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có thể
được tổ chức về những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhân dân và quốc gia.
2. Hạ viện có thể quyết định tổ chức trưng cầu
dân ý cấp quốc gia. Tổng thống với sự chấp thuận của Thượng viện có quyền quyết
định tổ chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Khi có yêu cầu của trên 500 ngàn cử
tri thì phải tổ chức trưng cầu dân ý.
3. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc
gia có tính bắt buộc nếu có hơn ½ số người có quyền bầu cử tham gia cuộc trưng
cầu dân ý.
4. Các nguyên tắc và thủ tục tổ chức cuộc
trưng cầu dân ý do luật định.
Điều 54. Giám sát, điều tra và
bãi nhiệm
1. Hạ viện có thể giám sát công việc của nhà
nước hoặc điều tra những vấn đề cụ thể của công vụ nhà nước, có quyền yêu cầu
đệ trình các tài liệu trực tiếp liên quan đến các vấn đề đó, yêu cầu nhân chứng
cung cấp lời khai hoặc báo cáo.
2. Dựa trên kết quả giám sát, điều tra, chất
vấn và điều trần, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Bộ trưởng.
3. Các thủ tục và các vấn đề liên quan đến
giám sát và điều tra hành chính nhà nước được luật quy định.
Điều 55. Phế truất Tổng thống
1. Quyết định truy tố Tổng thống về việc vi
phạm Hiến pháp hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng phải được Hạ viện thông qua
bằng nghị quyết với ít nhất đa số 2/3 tổng số thành viên Hạ viện, trên cơ sở đề
nghị của ít nhất 60 Hạ nghị sĩ.
2. Quyết định truy tố Tổng thống được xét xử
bởi Thượng viện.
3. Từ ngày có quyết định truy tố, Tổng thống
bị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện tạm
thời đảm nhiệm chức vụ quyền Tổng thống. Nếu Thượng viện phán quyết Tổng thống
vô tội thì việc tạm đình chỉ nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt. Nếu Thượng viện phán
quyết Tổng thống có tội thì Tổng thống bị phế truất.
Điều 56. Phê chuẩn điều ước
quốc tế
1. Quốc hội có quyền đồng ý ký kết và phê
chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến an ninh; các điều ước quốc tế liên
quan đến các tổ chức quốc tế quan trọng; các điều ước hữu nghị, thương mại và
hàng hải; các điều ước quốc tế liên quan đến bất kỳ hạn chế nào về chủ quyền;
các điều ước hòa bình; các điều ước quốc tế phát sinh nghĩa vụ tài chính quan
trọng đối với Nhà nước hoặc nhân dân; và các điều ước quốc tế liên quan đến lập
pháp.
2. Đại diện có thẩm quyền và được ủy quyền để
ký các điều ước quốc tế chỉ được ký điều ước sau khi đã được sự đồng ý của Quốc
hội.
3. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, Tổng thống
ký công bố điều ước quốc tế và điều ước có hiệu lực.
Điều 57. Tuyên bố tình trạng
chiến tranh
1. Quốc hội có quyền nhân danh Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tuyên bố tình trạng chiến tranh và ký kết hiệp ước hòa bình.
2. Quốc hội chỉ có thể thông qua nghị quyết về
tình trạng chiến tranh trong trường hợp có sự xâm lược quân sự đối với lãnh thổ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời gian Quốc hội không họp, Tổng thống có
thể tuyên bố tình trạng chiến tranh.
CHƯƠNG IV. HÀNH PHÁP
Điều 58. Quyền hành pháp
1. Quyền hành pháp được nhân dân ủy quyền cho
Tổng thống.
2. Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
nguyên thủ quốc gia và bảo đảm cho sự liên tục của cơ quan nhà nước.
3. Tổng thống có trách nhiệm bảo đảm việc tuân
thủ Hiến pháp, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự bất khả xâm
phạm và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
4. Tổng thống thực hiện nhiệm vụ của mình
trong phạm vi và theo các nguyên tắc do Hiến pháp và luật quy định.
Điều 59. Bầu Tổng thống và Phó
Tổng thống
1. Tổng thống và Phó Tổng thống cùng đứng
chung một liên danh, do cử tri bầu ra trong cuộc bầu cử phổ thông, bình đẳng và
trực tiếp bằng phiếu kín.
2. Công dân Việt Nam đủ 35 tuổi, tính đến ngày
bầu cử, và có quyền bầu cử Quốc hội, có thể là ứng cử viên Tổng thống và ứng cử
viên Phó Tổng thống. Ứng cử viên Tổng thống và ứng cử viên Phó Tổng thống, với
tư cách một liên danh chung, phải có được chữ ký ủng hộ của ít nhất 100 ngàn
công dân có quyền bầu cử Quốc hội.
3. Liên danh nhận được hơn 1/2 tổng số phiếu
bầu hợp lệ sẽ trúng cử chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống.
4. Nếu không liên danh nào nhận được đa số
phiếu, thì sẽ tổ chức lại việc bỏ phiếu giữa 2 liên danh đạt số phiếu cao nhất
vào ngày thứ 14 sau ngày bỏ phiếu lần thứ nhất.
5. Nếu một trong hai liên danh tham gia vòng
bầu thứ hai đồng ý rút khỏi danh sách, một trong hai người trong liên danh mất
quyền bầu cử hoặc chết, thì liên danh đạt phiếu cao kế tiếp trong lần bầu thứ
nhất sẽ thay thế liên danh đó. Trong trường hợp này, ngày bỏ phiếu sẽ được gia
hạn thêm 14 ngày.
6. Liên danh nhận được số phiếu bầu cao hơn
trong lần bỏ phiếu lần thứ hai sẽ là những người được bầu làm Tổng thống và Phó
Tổng thống.
7. Các nguyên tắc và thủ tục đề cử ứng cử viên
Tổng thống, Phó Tổng thống cách thức tiến hành bầu cử cũng như những yêu cầu về
tính hợp lệ của cuộc bầu cử Tổng thống sẽ do luật quy định.
8. Chủ Tịch Hạ viện ra quyết định tổ chức cuộc
bầu cử Tổng thống không trước 120 ngày và không sau 100 ngày tính đến ngày hết
nhiệm kỳ Tổng thống; trong trường hợp khuyết Tổng thống, không muộn hơn 14 ngày
kể từ thời điểm bị khuyết. Quyết định tổ chức bầu cử phải quy định rõ ngày bầu
cử sẽ là một ngày nghỉ trong khoảng thời gian giữa 60 đến 67 ngày kể từ ngày ra
quyết định.
Điều 60. Tuyên thệ nhậm chức và
nhiệm kỳ Tổng thống
1. Tại lễ nhậm chức
trước Quốc hội, Tổng thống sẽ tuyên thệ như sau: “Tôi trịnh trọng tuyên thệ trước
nhân dân rằng sẽ trung thành thực thi các nghĩa vụ của Tổng thống bằng việc
tuân thủ Hiến pháp, bảo vệ quốc gia, thúc đẩy tự do và thịnh vượng của nhân
dân, nỗ lực bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc”.
2. Tổng thống và Phó Tổng thống có nhiệm kỳ 5
năm tính từ ngày nhậm chức. Một người không thể làm Tổng thống quá hai nhiệm
kỳ.
Điều 61. Tổng thống chấm dứt
nhiệm vụ trước thời hạn
1. Nhiệm vụ của Tổng thống có thể chấm dứt
trước kỳ hạn trong những trường hợp sau: (a) Tổng thống chết; (b) Tổng thống từ
chức; (c) Tổng thống bị truất quyền; và (d) do bị bệnh tật trầm trọng và kéo
dài, Tổng thống không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực, trong
trường hợp (d), phải được Quốc hội xác nhận với đa số 3/4 tổng số Hạ nghị sĩ và
Thượng nghị sĩ, sau các cuộc giám định y khoa.
2. Trong trường hợp Tổng thống chấm dứt nhiệm
vụ, Phó Tổng thống sẽ đảm nhận chức Tổng thống trong thời gian còn lại của
nhiệm kỳ.
3. Trong trường hợp khuyết Phó Tổng thống,
Thượng viện bầu Phó Tổng thống mới theo đề nghị của Tổng thống.
4. Trường hợp đồng thời khuyết cả Tổng thống
và Phó Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện tạm thời làm quyền Tổng thống cho đến
khi Quốc hội bầu ra Tổng thống và Phó Tổng thống mới, theo phương thức đa số,
cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ.
Điều 62. Thẩm quyền của Tổng
thống
Tổng thống có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
1. Hoạch định chính sách quốc gia;
2. Ký ban hành các đạo luật;
3. Ký các điều ước quốc tế, sau khi được Quốc
hội phê chuẩn ký ban hành các điều ước quốc tế;
4. Bổ nhiệm các đại sứ với sự phê chuẩn của
Thượng viện;
5. Tiếp nhận quốc thư, đón nhận các phái đoàn
ngoại giao;
6. Tổ chức các cơ quan hành pháp theo quy định
của luật;
7. Chỉ đạo hoạt động của các cơ quan hành
pháp;
8. Bổ nhiệm các Bộ trưởng với sự chấp thuận
của Quốc hội;
9. Bãi nhiệm các Bộ Trưởng;
10. Tổ chức các Hội đồng tư vấn;
11. Quyết định các vấn đề được luật quy định
về đặc xá, giảm án, phục hồi các quyền và đại xá;
12. Trao các tước vị và danh hiệu theo các
điều kiện luật định;
13. Trao quốc tịch Việt Nam;
14. Các quyền khác theo luật định.
Điều 63. Thống lĩnh tối cao các
lực lượng vũ trang
1. Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
Thống lĩnh tối cao của các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
Tổng thống phong cấp bậc quân hàm quân đội theo quy định của luật.
3. Thẩm quyền của Tổng thống về quyền thống
lĩnh tối cao đối với các lực lượng vũ trang sẽ được quy định cụ thể trong luật.
Điều 64. Thủ tướng và các
thành viên Chính phủ
1. Thủ tướng và các Bộ trưởng là các thành
viên Chính phủ, được Tổng thống bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn.
2. Thủ tướng có trách nhiệm hỗ trợ Tổng thống
và điều hành các Bộ theo chỉ đạo của Tổng thống.
3. Không ai trong quân đội có thể được bổ
nhiệm làm Thủ tướng trừ khi đã giải nhiệm.
4. Cơ quan công tố thuộc Bộ Tư pháp.
CHƯƠNG V. TƯ PHÁP
Điều 65. Hoạt động tư pháp
1. Quyền lực tư pháp được trao cho các tòa án,
gồm các thẩm phán có trình độ chuyên môn theo luật định.
2. Các tòa án gồm: Tòa án Tối cao, tòa án các
cấp khác và Tòa án Hiến pháp.
Điều 66. Tổ chức Tòa án Tối cao
1. Trong Tòa án Tối cao có Hội đồng Thẩm phán
Tòa án Tối cao.
2. Trong Tòa án Tối cao có thể thành lập các
tòa chuyên trách.
3. Việc tổ chức Tòa án Tối cao, các tòa án
chuyên trách và các tòa án khác theo luật định.
Điều 67. Thẩm phán Toà án Tối
cao
1. Chánh án Tòa án tối cao do Tổng thống bổ
nhiệm với sự đồng ý của Quốc hội.
2. Các Thẩm phán Tòa án Tối cao do Tổng thống
bổ nhiệm theo đề xuất của Chánh án Tòa án Tối cao và với sự đồng ý của Quốc
hội.
3. Các thẩm phán khác do Chánh án Tòa án Tối
cao bổ nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.
Điều 68. Nhiệm kỳ thẩm phán Toà
án Tối cao
1. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án Tối cao là 6
năm và không thể được tái bổ nhiệm.
2. Nhiệm kỳ của thẩm phán của Tòa án Tối cao
là 6 năm và họ có thể được tái bổ nhiệm theo quy định của luật.
3. Nhiệm kỳ của các thẩm phán ngoài Chánh án
và Thẩm phán của Tòa án Tối cao là 10 năm, họ có thể được tái bổ nhiệm theo các
điều kiện luật định.
4. Tuổi về hưu của các thẩm phán được luật quy
định.
Điều 69. Tòa án Hiến pháp
Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xét xử đối với
các vấn đề sau đây:
1. Sự phù hợp của luật và điều ước quốc tế với
Hiến pháp;
2. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật do các
cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành với Hiến pháp;
3. Sự phù hợp của mục tiêu, hoạt động của các
đảng chính trị với Hiến pháp;
4. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương và
giữa các chính quyền địa phương;
5. Khiếu nại của những người cho rằng các
quyền hiến định của họ đã bị xâm phạm bởi một đạo luật hay văn bản pháp luật
khác trái với Hiến pháp.
Điều 70. Tổ chức Tòa án Hiến
pháp
1. Tòa án Hiến pháp gồm 15 thẩm phán được Quốc
hội bầu chọn trong số những người có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực
pháp luật. Thẩm phán Tòa án Hiến pháp có nhiệm kỳ 9 năm và không thể được bầu
chọn nhiều hơn một nhiệm kỳ.
2. Chánh án và Phó Chánh án Tòa án Hiến pháp
do Tổng thống bổ nhiệm trong số các ứng cử viên do Hội đồng thẩm phán Tòa án
Hiến pháp giới thiệu.
3. Tổ chức và hoạt
động của Tòa án Hiến pháp được quy định trong một đạo luật.
Điều 71. Nguyên tắc độc lập
Thẩm phán các tòa án phải xét xử độc lập theo
lương tâm, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thẩm phán không được tham gia
các đảng chính trị.
CHƯƠNG VI. CÁC CƠ QUAN HIẾN
ĐỊNH ĐỘC LẬP
Điều 72. Các cơ quan hiến định
độc lập
Các cơ quan hiến định độc lập, không phải là
các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp, bao gồm Ngân hàng Trung ương, Kiểm
toán Nhà nước, Uỷ ban Bầu cử, Ủy ban Nhân quyền và Hội đồng Hòa giải Dân tộc.
Điều 73. Ngân hàng Trung ương
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm nhiệm vai
trò Ngân hàng Trung ương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam được quy định bởi một đạo luật.
Điều 74. Kiểm toán Nhà nước
1. Kiểm toán Nhà nước hoạt động theo các
nguyên tắc nghề nghiệp.
2. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các pháp
nhân và tổ chức nhà nước về tính hợp pháp, tính kinh tế, hiệu quả và sự mẫn
cán.
3. Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Hạ viện và có
trách nhiệm trình Hạ viện: các báo cáo phân tích việc thực hiện ngân sách và
các mục tiêu của chính sách tiền tệ; ý kiến liên quan đến việc chấp thuận quyết
toán ngân sách; thông tin về kết quả kiểm toán, kết luận kiểm toán và kiến nghị
theo quy định của luật.
4. Chủ tịch Kiểm toán Nhà nước không được tham
gia đảng chính trị hay bất cứ hoạt động công vụ nào khác không phù hợp với chức
trách của mình.
5. Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
được quy định bằng một đạo luật.
Điều 75. Ủy Ban Bầu cử
1. Các Ủy ban Bầu cử được thiết lập với mục
đích điều hành công bằng các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý toàn quốc, xử lý
các vấn đề hành chính liên quan đến các chính đảng.
2. Ủy ban Bầu cử Trung ương gồm 3 thành viên
do Tổng thống bổ nhiệm, 3 thành viên do Quốc hội lựa chọn và 3 thành viên do
Chánh án Tòa án Tối cao lựa chọn. Các thành viên của Ủy ban thành viên bầu ra
một Chủ tịch.
3. Nhiệm kỳ của thành viên Ủy ban là 6 năm.
4. Các thành viên Ủy ban không thể tham gia
các đảng chính trị hoặc các hoạt động chính trị.
5. Các chiến dịch tranh cử được thực hiện dưới
sự điều hành của Ủy ban Bầu cử mỗi cấp trong phạm vi luật định với nguyên tắc
bảo đảm cơ hội bình đẳng cho các ứng cử viên.
6. Tổ chức, chức năng và các vấn đề quan trọng
khác của Ủy ban Bầu cử Trung ương và Ủy ban Bầu cử các cấp sẽ do luật quy định.
Điều 76. Ủy ban Nhân quyền
1. Ủy ban Nhân quyền
là một cơ quan độc lập, có vai trò thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người được
ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948
và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy ban Nhân quyền do
Hạ viện thành lập với sự đồng thuận của Thượng viện, gồm 9 thành viên, có sự
tham gia của đại diện nhiều thành phần xã hội.
2. Ủy ban Nhân quyền có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
a. Giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng, công chức và
viên chức về quyền con người;
b. Tư vấn cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội về các
vấn đề liên quan đến quyền con người;
c. Nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các điều ước quốc tế về
quyền con người;
d. Nhận các khiếu nại về các vi phạm các quyền được quy định tại
tại Hiến pháp này hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
3. Thành viên Ủy ban Nhân quyền không giữ bất
kỳ chức vụ nào khác, trừ chức vụ giảng viên đại học, cũng không thực hiện bất
kỳ hoạt động nghề nghiệp nào khác. Các thành viên cũng không được tham gia đảng
chính trị nào, không thực hiện các nhiệm vụ công không phù hợp với chức trách
của mình.
4. Phương thức tổ chức và hoạt động của Ủy ban
Nhân quyền sẽ được quy định bởi một đạo luật.
Điều 77. Hội đồng Hòa giải Dân
tộc
1. Hội đồng Hòa giải Dân tộc thực hiện hòa
giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hận, hướng đến việc khắc phục các sai lầm
trong quá khứ, nhằm mang lại công bằng, đoàn kết dân tộc, phát huy các năng lực
của người Việt Nam trên toàn thế giới.
2. Hội đồng Hòa giải Dân tộc gồm 19 thành viên
do Hạ viện bổ nhiệm với sự đồng thuận của Thượng viện. Năm (5) thành viên đến
từ mỗi khu vực miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam và bốn (4) thành viên thuộc cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
3. Hội đồng Hòa giải Dân tộc có các nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
a. Nghiên cứu, xác định lại giá trị pháp lý của các luật, điều
ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trong quá khứ ban hành, ký kết
trái thẩm quyền hoặc gây hại nghiêm trọng cho quốc dân. Đề xuất với Quốc hội
các giải pháp khắc phục các sai lầm quá khứ.
b. Tập hợp thông tin, đề nghị trả tự do, tổ chức việc đối thoại,
xin lỗi, bồi thường cho những người đã từng bị xử phạt, điều tra, truy tố, xét
xử oan, chỉ vì lý do họ đã có những hành động nhằm thúc đẩy dân chủ, công bằng
và tiến bộ xã hội, nhằm bảo vệ các quyền con người, hoặc chỉ để thực thi các
quyền tự do của mình.
c. Nghiên cứu, trình Quốc hội các chính sách, dự án luật có thể
khắc phục những sai lầm khác của các chế độ trong quá khứ nhằm hòa giải và hòa
hợp dân tộc.
4. Hội đồng Hòa giải Dân tộc sẽ được Hạ viện
giải tán sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ.
CHƯƠNG VII. TỰ QUẢN ĐỊA PHƯƠNG
Điều 78. Chính quyền địa phương
1. Chính quyền địa phương thực hiện các công
vụ địa phương, tức là các công vụ không được quy định trong Hiến pháp và trong
các đạo luật về các cơ quan khác của Nhà nước. Các công vụ địa phương do nhân
dân của địa phương đó tự đề ra. Chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề
hành chính liên quan đến an sinh của dân cư địa phương, quản lý tài sản và có
thể đề ra các quy định liên quan đến tự chủ địa phương trong phạm vi luật định.
2. Chính quyền địa phương ở mỗi cấp có thể có
một hội đồng và bộ máy hành chính nhà nước cấp địa phương.
3. Hội đồng địa phương do dân địa phương bầu
và có quyền quy định về các công vụ địa phương.
4. Trong địa phương mình, bộ máy hành chính
thực thi các công vụ được quy định trong Hiến pháp, luật và các công vụ địa
phương. Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương do nhân dân địa phương đó
trực tiếp bầu ra.
5. Xã là đơn vị cơ sở của chính quyền địa
phương, nơi dân chủ trực tiếp được thực hiện ở mức cao nhất trong các cấp chính
quyền.
6. Chính quyền đô thị được luật quy định.
7. Các loại chính quyền địa phương do luật
định.
Điều 79. Tổ chức Chính quyền
địa phương
Việc tổ chức và thẩm quyền của chính quyền địa
phương, thủ tục bầu các thành viên hội đồng (nếu có) và người đứng đầu chính
quyền địa phương và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của chính quyền địa
phương sẽ do luật định theo nguyên tắc chính quyền cấp càng thấp thì việc áp
dụng dân chủ trực tiếp càng cao.
CHƯƠNG VIII. SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều 80. Thủ tục sửa đổi Hiến
pháp
1. Một dự luật sửa đổi Hiến pháp có thể được
trình bởi các chủ thể sau: ít nhất 1/5 số Hạ nghị sĩ theo luật định, Thượng
nghị viện, hoặc Tổng thống.
2. Nếu Tổng thống trình dự luật sửa đổi Hiến
pháp thì dự luật không được thay đổi các điều khoản liên quan đến Tổng thống
trong Hiến pháp hiện hành.
3. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được thực hiện
bởi một đạo luật được Hạ viện thông qua và sau đó được Thượng viện thông qua
với cùng nội dung trong thời hạn 60 ngày.
4. Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Hạ viện
thông qua nếu được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Hạ nghị
sĩ theo luật định; Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Thượng Nghị Viện thông qua
nếu được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Thượng nghị sĩ
theo luật định.
5. Trong vòng 60 ngày kể từ khi Dự luật sửa
đổi Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua phải tổ chức trưng cầu dân ý để nhân
dân phúc quyết.
CHƯƠNG IX. ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN
ĐỔI
Điều 81. Hiệu lực Hiến pháp và
quy định chuyển đổi
1. Hiến pháp này có hiệu
lực sau 100 ngày kể từ ngày được nhân dân phúc quyết thông qua.
2. Trong vòng 100 ngày sau khi Hiến pháp có
hiệu lực, Quốc hội hiện hành (đã thông qua Hiến pháp) phải căn cứ vào đó ban
hành các luật mới về bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống. Các cuộc bầu cử Hạ
viện, Thượng viện và Tổng thống đầu tiên được tổ chức theo quy định của các
luật đó trong vòng 180 ngày từ khi luật có hiệu lực.
3. Chính phủ, trong vòng 2 năm sau khi Hiến
pháp này có hiệu lực, phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, đệ
trình để Quốc hội sửa đổi các quy định trái với Hiến pháp và ban hành các luật
mới nhằm thực thi Hiến pháp.
4. Trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có
hiệu lực, pháp luật đang có hiệu lực vào thời điểm Hiến pháp được Quốc hội
thông qua vẫn còn giá trị. Sau thời hạn 2 năm này, tất cả các quy định trái với
Hiến pháp này đều trở nên vô hiệu, các quy định khác vẫn còn giá trị.
DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992 (đợt 1)
1.
Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2.
Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
3.
Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí
Minh, TP HCM
4.
Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
5.
Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn
học, Hà Nội
6.
Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
7.
Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
8.
Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
9.
Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan
Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
10.
Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
11.
Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
12.
Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
13.
Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh
các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh
khóa 4, 5, TP HCM
14.
Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
15.
Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh bạch Quốc
tế, Hà Nội
16.
Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
17.
Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công ty Du lịch
Thành phố (Saigontourist), TP HCM
18.
Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường,
nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
19.
Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính
phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
20.
Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
21.
Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
22.
Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà
Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
23.
Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt
trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
24.
Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên – Huế, Chủ
tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên – Huế
25.
Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban chấp hành
Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
26.
Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
27.
Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ
tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
28.
Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
29.
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên
Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP
HCM
30.
Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính
phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
31.
Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch
Bình Quới, TP HCM
32.
Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam, Hà Nội
33.
Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
34.
Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
35.
Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
36.
Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
37.
Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
38.
Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng,
TP HCM
39.
Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
40.
Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch Ủy ban
Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
41.
Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng
Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
42.
Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
43.
Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà Nội
44.
Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc
chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
45.
Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
46.
Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
47.
Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nguyên
thành viên Viện IDS, Hà Nội
48.
Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
49.
Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
50.
Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
51.
Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
52.
Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
53.
Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại Nhật Bản,
Nhật Bản
54.
Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
55.
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
56.
Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
57.
Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
58.
Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
59.
Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
60.
Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
61.
Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
62.
Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt,
nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
63.
Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt,
nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
64.
Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
65.
Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
66.
Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
67.
Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
68.
Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
69.
Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
70.
Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
71.
Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
72.
Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM
No comments:
Post a Comment