CHƯƠNG 9
NGUYỄN HỮU ĐANG (1913-2007)
Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân
tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của
phong trào NVGP, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền
tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 năm 2007, khi ông
mất.
Là một trong những người hoạt động cách mạng trong phong trào Cộng
sản từ khởi thủy, Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ
Tiên, tỉnh Thái Bình, mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm tắt
quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính ông viết[1],
thì từ 16 tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia Học Sinh Hội[2] làm
tổ trưởng và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm 1929.
Cuối 1930, bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại
nhà lao Thái Bình. Hè 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên[3] cho
nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang học trường
sư phạm Hà Nội.
1937-1939: tham gia Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương. Biên tập các
báo của Mặt Trận như Thời Báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày Mới
(cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng Sản như Tin Tức
(cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời Nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh và
Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, ở các
vị trí: uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy
học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh.
1943: Gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật
thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được
chính thức kết nạp vào đảng.
1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hoá Cứu Quốc, tiếp
tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một
tháng tại Nam Định. Được thả, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy Ban Giải Phóng
Dân Tộc. Tham gia Chính Phủ Lâm Thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng Bộ Tuyên Truyền.
Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập 2/9/1945.
Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: thứ trưởng Bộ
Thanh Niên, chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.
12/1946-3/1948: Làm trưởng ban Tuyên Truyền Xung Phong Trung
Ương.
Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 4/1948 - 4/1949, phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến,
cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.
Tháng 7/49 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ.
Tháng 11/54 - 4/58: Tổ chức biên tập báo Văn Nghệ.
Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân
Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.
Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu
Đang, đã dẫn ở trên. Về NVGP, ông chua thêm: "Những hoạt động này là
tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".
Hoạt động NVGP từ tháng 9/1956, với Nhân Văn số 1, ra ngày
20/9/56, và chấm dứt với Nhân Văn số 6, chưa ra, đã bị đình bản, tháng 12/56.
Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào Nam.
Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo,
Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.
Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, tội "phá
hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi Hà Giang.
1973, được thả cùng với Thụy An, diện "Ðại xá chính trị
phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái Bình.
1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu.
Từ 1993, được về sống ở Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.
● Quyền tự do phát biểu bị tước đoạt
Sau 15 năm tù và 16 năm quản thúc ở Thái Bình (1973-1989), Nguyễn
Hữu Đang được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và vẫn bị chăm sóc kỹ càng.
Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát,
riêng ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời
phỏng vấn công khai như những người khác. Sở dĩ có buổi trả lời RFI tháng
9/1995 là nhờ sự tổ chức của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày lễ Độc Lập
2/9/1945, chúng tôi nhờ Lê Đạt hẹn với Nguyễn Hữu Đang, để hỏi ông về việc tổ
chức ngày lễ, qua điện thoại nhà Lê Đạt, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về
NVGP. Buổi thu thanh này, phát trên RFI, tháng 9/1995[4].
Đó là lần phỏng vấn đầu tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với
Nguyễn Hữu Đang, mặc dù ông đã có điện thoại riêng, nhưng chỉ nói vài câu, là bị
cắt ngay. Vậy sự "phục hồi" chỉ là hình thức, vì trên thực tế, Nguyễn
Hữu Đang chưa bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự do như một công dân.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành.
Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu 1997, được ông đến thăm 2 lần, nhưng
lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của Bộ Nội Vụ -nay là Bộ Công An- chở. Ông
Vũ Toàn nay cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có người của Bộ Nội Vụ ngồi
nghe, nên không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến
khi gặp cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt
động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn
nguyên trong bóng tối.
Ông dặn:"Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số
chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Nói như để trấn an
người của chính quyền, nhưng không có kết quả: Khi trở lại Paris, chúng tôi đã
cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương trình", nhưng
chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như
đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá, ông đã quát lên: "Chúng
ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hóa văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại
nước đâu mà chúng nó cũng..." Ông chưa dứt lời, tiếng điện thoại
đã lại u u... Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu Đang, đã gây chấn động trong
tôi nhiều năm tháng. Từ đó đến khi ông mất, tôi không bao giờ gọi cho ông nữa,
phần vì, không muốn ông bị phiền thêm trong cuộc đời đã quá nhiều thử thách, đớn
đau; phần vì, sau này ông nghe không rõ, những người đến thăm thường phải bút
đàm.
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt
đãi" hơn cả,“biệt đãi” đến phút cuối. Đám tang Văn Cao, Phùng
Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối trọng thể, dù chỉ
để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước
linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn: Tang lễ cũng được
nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ,
trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành
động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai lầm".
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên đã kịp
thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn bạn
qua điện thoại. Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị
ngã, chỉ nằm liệt không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người
Nguyễn Hữu Đang.
Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một
tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả
ngày hôm sau và một thời gian sau nữa, cũng không thể liên lạc lại được với
Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris đã bị chặn.
Như vậy, tiếng nói của những thành viên NVGP, cho đến ngày Nguyễn
Hữu Đang mất, 8/2/2007, và sau nữa vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ.
● Nguyễn Hữu Đang là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với
những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình ở trên. Bởi những điều
được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những gì
diễn ra trên thực tế. Ví dụ:
- Hoạt động cách mạng từ 16 tuổi, tức là từ 1929 Nguyễn Hữu Đang
đã là đối tượng được kết nạp đảng nhưng mãi đến 1947, mới được chính thức kết nạp.
- Đang ở địa vị hàng đầu, ngang ngửa với Trường Chinh, ông bỏ tất
cả để về Thanh Hoá.
- Trong hơn 6 năm: từ 4/1948 đến 10/1954, về mặt chính thức, ông
phụ trách báo Toàn Dân Kháng Chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên
Việt (từ 4/1948 - 4/1949) và làm trưởng ban Thanh Tra Bình Dân Học Vụ (từ
7/1949 - 10/1954). Hai chức này đều "hữu danh vô thực".
Theo Hoàng Văn Chí: "Cộng sản thành lập nhiều đoàn thể
chính trị "hữu danh vô thực" như đảng Dân chủ, dành cho địa chủ và
phú thương; Đảng Xã hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt, dành cho
nhân sĩ và bô lão. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong để cộng
sản nấp sau giật dây"[5].
Còn theo Hoàng Trung Thông, thì "Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt
Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức"[6].
● Hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm cho hội
Truyền Bá Quốc Ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên. Về cách làm việc của
ông trong hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Nguyễn Huy Tưởng viết:
"Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền Bá Quốc Ngữ
từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài Chính (Hà Nội) xuống đây làm việc
nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc
ngữ ở Hải Phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả
một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy"[7].
Không biết Nguyễn Hữu Đang đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong đời
cách mạng và trong thời NVGP. Chỉ riêng bài "Người thuyền trưởng" viết
năm 1988 về Nguyễn Văn Tố, ông cũng phải ký hai tên giả: phần đầu Phạm Đình
Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới nhập một, ký tên thật Nguyễn
Hữu Đang[8].
Nhờ Người thuyền trưởng, ta có thể xác định lại nguồn cội của Hội
Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được miền Bắc đưa ra. ông viết:
"Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng
ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật
buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ Bắc kỳ ở
sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại
diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội
nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp,
Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc"[9].
Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số sự kiện từ trước đến nay vẫn
bị chính quyền che đậy, hoặc nói sai đi:
- Hội Truyền Bá Quốc Ngữ được Pháp bảo trợ từ đầu - năm 1938.
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập Hội.
Ngày khai mạc, ông đang dạy học ở nông thôn, khi về Hà Nội nghỉ hè, tình cờ gặp
Đào Duy Kỳ[10],
Kỳ khuyên Đang nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt, nhận việc dạy học giúp Hội.
- Có một số thành viên cộng sản tham dự Hội, nhưng Đảng không lập
ra Hội này, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch
Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch truyền bá quốc ngữ".
- Truyền bá quốc ngữ do Hội Trí Tri, một tổ chức trí thức thời
Pháp thuộc chủ trương, Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số thành viên xây dựng
Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả
hai...
- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết của
Nguyễn Hữu Đang, không thấy ông nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn
trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng Xuân
Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ, ngay
khi chưa có hội. Từ năm 1936, khi ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp học chữ
quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o
tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...
- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu Đang
cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã
làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau 1945, chính phủ lâm thời mới quyết định
thành lập Nha Bình Dân Học Vụ thay thế Hội Truyền Bá Quốc Ngữ; vai trò thuyền
trưởng Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
● Xác định lập trường văn hoá
Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I
Hội Văn Hoá Cứu Quốc thành lập tháng 4/1943 tại Hà Nội, là một
thành viên của Mặt Trận Việt Minh do Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo.
Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Tiên Phong, xuất hiện công khai từ 10/11/1945
đến 1/12/1946, ra được 24 số[11].
Nguyễn Hữu Đang cho biết, ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội
Văn Hoá Cứu Quốc. Trên ba số đầu Tiên Phong, Nguyễn Hữu Đang viết 5 bài xác định
lập trường của Tiên Phong và Hội VHCQ: Định nghiã hai chữ văn hoá (viết
chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới ách đế quốc[12],
Hội nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam[13], Nhận
rõ thêm về ý nghiã hai chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá
toàn quốc sẽ tổ chức như thế nào[14].
Đó là những bài tiểu luận ngắn xác định lập trường văn hoá của
Nguyễn Hữu Đang, hoàn toàn khác biệt với lập trường của Trường Chinh trong
bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam[15],
và ông chuẩn bị cho việc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I, sẽ họp năm 1946 ở
Hà Nội.
Theo quảng cáo đăng trên Tiên Phong số 20 (1/10/46) thì Đại Hội
Nghị Văn Hoá Cứu Quốc Toàn Quốc sẽ họp từ 11-12-13/10/1946 và có thể kéo dài 1
đến 2 tuần. Nhưng cuối cùng bị đẩy lui, rút gọn và lấy tên là Hội Nghị Văn Hoá
Toàn Quốc lần thứ nhất, chỉ họp đúng một ngày 24/11/1946. Có hai vần đề đáng
chú ý:
• Thứ nhất: Trường Chinh trong Đề cương, in trên Tiên
Phong số 1, xác định lập trường văn hoá của Đảng Cộng sản trên ba điểm chính:
- Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
- Nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá XHCN.
- Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á: triết
học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ
(Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng
trưng v.v...
• Thứ nhì: trên Tiên phong số 2, Trường Chinh chĩa thẳng mũi dùi
vào nhóm Tri Tân "phong kiến" và nhóm Thanh Nghị "tư
sản", vạch ra những tội của họ đối với cách mạng[16].
Nguyễn Hữu Đang, trong ba số báo đầu, cũng không thua, ông xác định
đường lối hoạt động và lập trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc một cách thuần
tuý văn hoá, không hề đả động đến Đảng, đến xã hội chủ nghiã, và ông coi việc
xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công
cuộc đấu tranh chống áp bức, nô lệ. Ông chủ trương một nền văn hoá mở rộng,
tương giao với các trào lưu khác đương thời và những trí thức không cộng sản.
Trong bài ký tên Phóng Viên, tường thuật lại Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, chắc
do ông viết, có một số thông tin như sau:
"Hai ban kịch Đông Phương và Hoa Lan cổ động ráo riết hai vở
kịch lớn Kiều Loan và Lôi Vũ sẽ diễn trong dịp hội nghị", "Hội nghị
khai mạc lúc 9 giờ sáng tại Nhà Hát Lớn. Có mặt gần hai trăm đại biểu Bắc,
Trung, Nam (...) có mặt đông đủ đại biểu các ngành văn hoá khác, khoa học, triết
học... như các ông: Hồ Hữu Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường,
Nguyễn Văn Huyên... Thật là xứng đáng một cuộc Hội Nghị Toàn Quốc, nhất là khi
Hồ chủ tịch bước lên đọc diễn văn khai mạc. Bằng một giọng thân ái cụ chúc hội
nghị thành công (...) Tiếp lời cụ có bài diễn văn của ông Đào Duy Anh trong ban
vận động. Và sau đó thì hội nghị được tin bất ngờ: hội nghị chỉ họp trong một
ngày hôm nay thôi. Cái chương trình rộng lớn trong bảy ngày đành phải gác lại.
Chỉ còn một buổi chiều nữa thì bế mạc, thì giờ chỉ đủ cho các đại biểu đi đặt
vòng hoa trước đài chiến sĩ trận vong"[17].
Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc của Nguyễn Hữu Đang bị tuyên bố
"rút gọn" giống như vở kịch Kiều Loan của Hoàng Cầm, vừa diễn xong buổi
ra mắt 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, thì bị Trần Duy Hưng lên diễn đàn ra
lệnh đình chỉ. Dĩ nhiên lấy lý do chiến tranh.
Nhưng ngoài ra còn có những lý do khác, mà sau này Hoàng Trung
Thông, dưới bút hiệu Hồng Vân, bộc lộ trong bài Tên quân sư quạt mo: Nguyễn
hữu Đang:
"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên,
thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít".
"Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu Quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại
hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa
toàn quốc". "Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì
với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này
người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao"[18].
Điều này giải thích tại sao Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, lại có
mặt tất cả những nhà văn hoá lớn mà Đảng không mấy thiết tha như: Hồ Hữu
Tường, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên... và
tại sao đại hội bị đình chỉ, sau một ngày họp.
Qua lời buộc tội của Hoàng Trung Thông, chúng ta còn hiểu rõ
nguyên nhân tại sao ngay từ 1929, Nguyễn Hữu Đang đã được coi là "đối tượng
kết nạp" mà mãi đến năm 1947, mới được kết nạp vào đảng, rồi ông lại bỏ đảng
khoảng một năm sau khi được kết nạp:
"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính
phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp
vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ
quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm "quân
sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ
cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951
thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn
luôn chửi Đảng, chửi cách mạng"[19].
Gần hai năm sau, Trường Chinh tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc
II, ngày 15/7/1948 tại Việt Bắc, đọc bản Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt
Nam, xác định văn nghệ kháng chiến là văn nghệ công nông binh, văn nghệ
tuyên truyền. Bỏ Hội Văn Hóa Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang bỏ về
Thanh Hoá. Trong 6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với
chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh
Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án
hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v... Đến năm 1951, Đảng
chính thức khai trừ Nguyễn Hữu Đang.
Nguyễn Hữu Đang nổi danh vì tài tổ chức, ông đã thành công trong
ba chương trình lớn: Tổ chức ngày lễ 2/9/1945, tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc
và tổ chức Thanh Niên Xung Phong. Sự thành công của Việt Minh dựa trên sự thành
công của ba tổ chức này:
- Được Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày 2/9/1945, để
vị chủ tịch đọc diễn văn mắt quốc dân, Nguyễn Hữu Đang kể lại :"Ông cụ giao
cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ có hai
bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi măng cũng không có
thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá như vậy."[20] Và
chỉ có 4 ngày. Để tổ chức ngày lễ, ông vận động hội Truyền Bá Quốc Ngữ, hội Văn
Hóa Cứu Quốc và hội Hướng Đạo Sinh, cả ba dưới quyền điều khiển của ông. Ông đặt
tên cho ngày lễ là Ngày Độc Lập, và ông lấy lại tên Ba Đình mà
chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt cho rond point Phủ Toàn Quyền, là vườn
hoa Ba Đình. Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ hơn nửa triệu người
ở các thành phần khác nhau của dân tộc đến Ba Đình dự Ngày Độc Lập 2/9/1945.
Đó là thành công lớn đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang.
Theo Hoàng Cầm, trong thời kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang thực hiện
hai công trình lớn nữa:
- Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc năm 1946 ở Hà Nội đoàn kết
tất cả các thành phần văn nghệ sĩ và trí thức đứng lên chống Pháp. Lúc bấy giờ
hầu hết các văn nghệ sĩ trí thức đều đi theo kháng chiến, rất ít người ở lại
trong thành và đó cũng là một thành công của Nguyễn Hữu Đang.
- Lên Việt Bắc, ông Hồ giao cho Nguyễn Hữu Đang nhiệm vụ: thành
lập Uỷ Ban Vận Động Thanh Niên Xung Phong Toàn Quốc. Ông đi khắp các tỉnh, các
địa phương, để thành lập một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong, kêu gọi
thanh niên xung phong đi bộ đội hoặc vào các đội dân công, hoặc cổ động bà con
đi dân công, làm nhiệm vụ chiến trường, gánh đất, gánh gạo, chăm sóc thương
binh... Nguyễn Hữu Đang cũng thành công trong nhiệm vụ đó.
Đối với Trường Chinh, từ hồi còn làm báo Tin Tức, tuy ông Trường
Chinh đứng tên nhưng ông Đang làm tất cả. Nhưng sau này, hình như ông Trường
Chinh không còn tín nhiệm ông Đang nữa, tất cả các việc ông Đang làm đều do ông
Hồ nghĩ ra và trao cho, như việc tổ chức buổi lễ đọc tuyên ngôn Ba Đình, và
trong chính phủ lâm thời thì ông Đang làm bộ trưởng Không Bộ - Ministre sans
portefeuille[21] tức
là rất quan trọng, như con dao pha, chạy chỗ nào cũng được, phải là người tài
giỏi và nhiều năng lực lắm.[22]
Nhiều tín hiệu đồng quy ở điểm: sau bản tuyên ngôn Chủ
nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, 1948, có sự rạn nứt chung, giữa đảng Cộng Sản
và thành phần trí thức độc lập. Nguyễn Hữu Đang là một trí thức độc lập đã theo
Đảng từ những ngày đầu, lúc 16 tuổi, năm 1929, và đến năm 1948, Nguyễn Hữu
Đang không còn theo cách mạng nữa.
● Hoạt động trở lại: báo Văn Nghệ
1954, Trường Chinh phái Tố Hữu triệu tập Nguyễn Hữu Đang trở lại
và cử Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân của Nguyễn Hữu Đang đi mời ông về. Họ đề nghị
chức giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, nhưng ông từ chối, ngỏ ý muốn làm
biên tập viên báo Văn Nghệ. Nguyễn Hữu Đang phụ trách báo Văn Nghệ từ tháng
11/1954 đến tháng 4/58, mới chính thức ngừng hẳn.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho rằng:
"Năm 1954, Tố Hữu mời Nguyễn Hữu Đang lên Việt Bắc, đề nghị
chức giám đốc Sở Văn Hoá Hà Nội, hy vọng ngày tiếp quản sẽ có một người uy tín
đại diện cho văn hoá tại Hà Nội. Tôi đoán ông Đang từ chối vì cho chức đó không
xứng với ông. Nếu mời làm bộ trưởng Văn Hoá thì ông nhận, bởi ông nhiều tham vọng
lắm, có đầu óc lãnh tụ lắm. Tờ Văn Nghệ, lúc bấy giờ Xuân Diệu làm tổng biên tập[23].
Khi ông Đang mới về, báo in mỗi số khoảng một hai vạn, mà chỉ 10 tháng sau, đến
tháng 10/1955, báo in đến bẩy vạn, thì đủ biết tài làm báo của ông Đang"[24].
Về việc Nguyễn Hữu Đang không nhận chức giám đốc Sở Văn Hoá
Thông Tin Hà Nội, lập luận của Hoàng Cầm chưa chắc đúng hẳn. Có lẽ Nguyễn Hữu
Đang từ chối chức này, vì ông biết là do Trường Chinh, đối thủ của ông -theo lệnh
của ông Hồ, miễn cưỡng đề nghị- thì chỉ có thể là "ngồi chơi xơi nước",
như chức thanh tra Nha Bình Dân Học Vụ ngày trước, và dù có làm đến bộ trưởng
-ông đã từng làm thứ trưởng- thì cũng vậy thôi: bên trên là cả một cơ chế chỉ đạo
từ Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư đến Chủ Tịch.
Nguyễn Hữu Đang xin vào báo Văn Nghệ, vì một chủ đích khác và có
thể ông đã bàn trước với Lê Đạt: là để "lãnh đạo" hoặc "lũng
đoạn" cơ quan văn nghệ lớn nhất của Đảng cùng với Lê Đạt. Bởi vì, trả
lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nói:
"Tôi quen với anh Đang lâu rồi, từ trước";
"Anh Đang chỉ thân với với tôi thôi, anh không thân thiết gì với anh em
Giai Phẩm Mùa Xuân". Và theo Hoàng Cầm: "Anh Lê Đạt lúc đó
làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, tức là người của Tuyên Huấn gửi sang như một
nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư chi bộ"[25].
Được Tuyên Huấn gửi sang, nhưng Lê Đạt quá trẻ, lại chưa có sự
nghiệp sáng tác, nên khó điều khiển những người như Xuân Diệu. Lê Đạt kể:
"Thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở
trong báo Văn Nghệ. Anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào nằm
bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy nói với anh
Tưởng là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của mình cũng bị nó gạt
luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi: Thế thì để ai làm? Anh
Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa
nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó
làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi. Anh Đang
là người rất nghệ sĩ, trông có vẻ hắc thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là
người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu. Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một
em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ, một cách rất say mê. Về văn nghệ
ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội họa, anh rất tinh. Chỉ có là
anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn nghệ."[26]
Vậy có thể tạm thời kết luận: Việc Nguyễn Hữu Đang xin vào báo
Văn Nghệ dường như có chủ đích và đã hẹn với Lê Đạt từ trước: Một người được
Tuyên Huấn gửi sang, một người được ông Hồ tin cẩn. Cả hai sẽ nắm tờ báo văn
nghệ chính thức của đảng Cộng Sản từ 1954 đến 1958, đưa vào những bài họ viết
hoặc họ kiểm soát, thậm chí bỏ cả bài của Xuân Diệu và thực hiện những việc mà
họ muốn như phê bình tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và phê
bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ tháng 11/1954.
Đến tháng 4/1955, Nguyễn Huy Tưởng bắt đầu khó chịu, ông ghi
trong nhật ký:
"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người
có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí
công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ
làm cách mạng bất mãn"[27].
"Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh"[28].
"Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến
cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: in Gốc đa, Gặp Bác,
v.v..."[29].
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người lãnh
đạo văn nghệ, kể cả những bạn thân như Nguyễn Huy Tưởng. Mặt khác, trong thời
gian này, nhiều biến cố quan trọng xẩy ra:
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác tổ chức "Dự thảo
đề nghị cho một chính sách văn hoá", đòi tự do sáng tác.
Tháng 6/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt.
Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, bị tịch thu.
Ngày 24/2/1956, Khrouchtchev vạch tội ác của Staline tại đại hội
XX đảng Cộng sản Liên Xô.
Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động "Trăm
hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".
Tháng 8- 9/56 tại hội nghị X, Đảng Lao Động phát động Sửa Sai Cải
Cách Ruộng Đất.
Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập
dân chủ 18 ngày.
● Lớp học tập dân chủ 18 ngày (8/8/56-26/8/56)
Hẳn phải do lệnh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hữu Đang mới được điều
động đứng ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Trong ngày cuối, ông đã đọc
bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng Cộng
Sản và của lãnh đạo văn nghệ.
Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự
việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết".
Hoàng Cầm cho rằng tinh thần đòi hỏi dân chủ, những thắc mắc có
từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê
phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang
(...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất
hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với
Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm
tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo
chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân
nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân Văn"[30].
Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày:
"Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về Văn Nghệ
để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang"[31].
Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, làm rõ tấm lòng
và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ
trích nặng nề, nhưng sau này, Nguyễn Huy Tưởng là người duy nhất trong ban lãnh
đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực NVGP, như Lê Đạt thuật lại và chính Nguyễn Huy
Tưởng cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn,
nhưng vô hiệu.
Về lớp học 18 ngày, trên Nhân Văn số 1 ra ngày 20/9/56, Người
Quan Sát tường thuật như sau:
"Trên ba trăm người tham gia học tập đã dần dần từ thảo luận
nguyên tắc sáng tác chuyển sang kiểm điểm phong trào, đem lý luận đối chiếu với
thực tế, liên hệ bản thân cũng có, nhưng chủ yếu là liên hệ lãnh đạo.
Mà phê bình lãnh đạo ngày nay, nhờ có ảnh hưởng của Đại hội 20 Đảng
Cộng sản Liên Xô, thường là rất mạnh bạo chứ không còn e dè, quanh co như cái
thời phục tùng mù quáng hoặc có thắc mắc thì trước mặt cả nể, kể lể sau lưng nữa.
Anh chị em đã phát huy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, đem hết nhiệt tình cách
mạng ra mà nói thẳng, nói thật, nói hết. Thế là việc học tập trở nên sôi nổi,
nhất là ở bước cuối thì người ta có thể nói đến một không khí bừng bừng đấu
tranh, làm cho chẳng những giới văn nghệ như cựa mình một cái thực mạnh mà nhiều
ngành khác ở thủ đô cũng như thấy rung động lây.
Qua những sự việc mà anh chị em phát hiện cũng như qua những ý
nghĩ, tình cảm mà anh chị em bộc lộ, chúng ta đã thấy phong trào văn nghệ trong
sáu bảy năm nay đã có những sai lầm nghiêm trọng về mặt lãnh đạo. Quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, tự do sáng tác đã bị vi phạm một cách có hệ thống"[32].
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc ngày 26/8/56 chỉ trích đường
lối văn nghệ của Đảng được "cử toạ hoan hô nhiệt liệt". Qua
lời tổng kết của Nguyễn Đình Thi và lời tự kiểm thảo của Tố Hữu, bộ phận lãnh đạo
văn nghệ đã phải"thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa".
Dựa vào những biến động ở Liên Xô và Trung Quốc, vào sự đồng thuận
của đông đảo trí thức văn nghệ sĩ, vào thế yếu của lãnh đạo sau chính sách Cải
Cách Ruộng Đất, Nguyễn Hữu Đang, đứng ra cổ động trí thức, hướng dẫn phong trào
và chủ trương báo Nhân Văn, với ý định cải tổ lại nền chính trị miền Bắc Việt
Nam.
● Nhân Văn Giai Phẩm
Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của Trường
Chinh và đảng Cộng Sản yếu đi sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu. Ngoài
nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những lực đẩy
khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang,
với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của
giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.
Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn
đã hoạt động trong kháng chiến: Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm
đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân. Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong NVGP được
xác nhận từ nhiều phía:
Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng Cầm,
Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Cả Trần Dần, dù
không thích ông, cũng ghi trong bài "thú nhận": "Nếu
không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với
những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Nguyễn Hữu Đang được coi là "đầu sỏ", Mạnh Phú Tư buộc
tội:
"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu,
người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...) Người ta không thấy
tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là
linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài
nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp
phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một
nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những
người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ
chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có tay
chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước.
Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người
cơ hội, có âm mưu chính trị..."[33].
Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên
báo Nhân Văn:
Nguyễn Hữu Đang thực hiện những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường,
Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ. Trong Nhân Văn số
1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký
tên XYZ. Rất ít người biết XYZ (tên gọi thành phần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng
Đất) là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh, trừ Nguyễn Hữu Đang. Trong
bài này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ, ý giễu
cợt vị chủ tịch. Bài"Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị
- Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn số 2, ký
tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết- theo lời Trần Duy.
Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời từng điểm
sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc bén, không
nhân nhượng. Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số 4, là bài xã
luận đầu tiên ông ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường chính trị
của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một nhà nước
pháp trị. Bài "Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo
đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân Văn số 5, ký tên thật, mạnh hơn nữa,
ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và trên thực tế, đòi quyền
sống tự do của con người trong một chính thể dân chủ, một nhà nước pháp quyền.
Ba mươi chín năm sau, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố trên RFI:
"Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về
mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ
sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống Đảng Cộng Sản
đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông.
Sự thâm nhập của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông đưa đến nhiều hiện
tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay
gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng Cộng Sản đã phạm sai lầm trong Cải cách
ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v... Tất cả
những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không
phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời
mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư, thì làm cái cuộc gọi là
Xô Viết Nghệ Tĩnh, đưa ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là "Trí, phú, địa,
hào đánh tận gốc, trốc tận rễ". Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được
độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác,
chúng tôi theo đảng Cộng Sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa
Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Xô rất mạnh, áp
lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cuộc đối thoại ấy không có kết quả"[34].
Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu
tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo
đảng từ 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản.
Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do
trong hành động cũng như tư tưởng của mình.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức văn nghệ sĩ trí thức toàn
quốc đi theo kháng chiến, ông đã làm.
Khi được giao phó trách nhiệm tổ chức thanh niên xung phong chống
Pháp, ông đã làm.
Làm trong tư thế của một người yêu nước, tự do.
Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo NVGP, đã tạo
được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám
nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam
thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu
Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả còn kéo dài đến ngày
nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa tự
nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu
tiên là quyền tự do tư tưởng.
[8] Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm
50 năm Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1938-1988), đăng trong kỷ yếu của Hội, do Bộ
Giáo Dục in, đăng lại trên Diễn Đàn, số 78, Paris, tháng 10/1998 và
diendan.org.
[16] TR.CH. [Trường Chinh], Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận
động văn hoá Việt Nam mới lúc này, Tiên Phong số 2 ra ngày 1/12/1945.
[17] Phóng viên, Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất
24/11/1946, Tiên phong số 24, ra ngày 1/12/1946.
[23] Theo Lê Đạt, Xuân Diệu làm thư ký toà soan. Thời
ấy chức thư ký toàn soạn là làm tất cả, tương đương với tổng biên tập sau này.
[32] Trích bài Chuẩn bị Đại Hội Văn nghệ Toàn quốc - Một đợt
học tập và đấu tranh của giới văn nghệ, Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56.
CHƯƠNG 10
LÊ ĐẠT (1929-2008)
Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật
ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký, băng ghi âm nói chuyện
với bạn bè, chỉ Lê Đạt là không viết gì về đời mình. Tại sao? Một phần, dường
như ông không coi tiểu sử nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn lý do nữa,
vì đời ông, nếu viết rõ ra, chỉ "có hại" cho gia đình. Ông
không muốn các con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương
Liên, con gái ông, hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ,
vì trong nhà "không có một quyển truyện một quyển thơ nào".
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã Âu
Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào
Công Đệ, mất năm 1975, quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang, Bắc Giang,
làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen, mất
năm 1982, bà người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn
bán. Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái. 1941, 12 tuổi lên Hà Nội học trường Bưởi.
Chiến tranh bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo
kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:
"Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo cách mạng,
rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm 49, tôi về
công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952, tôi chuyển
hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn chuyên nghiệp"[1].
Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi viết: "Đầu kháng
chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban Tuyên Huấn
tỉnh Vĩnh Phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp Lý[2] cho đến khi trường giải thể. 1949,
chuyển lên ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng Lao Động VN. 1952 về Hội Văn Nghệ.
Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội Văn Nghệ".
Đấy là những gì ghi trong tiểu sử chính thức.
Nhưng Hoàng Cầm cho biết, từ 1948 (19 tuổi), Lê Đạt đã là bí thư
văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc đến.
Hoàng Cầm viết: "Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái
viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ
làm trợ lý cho ông Tố Hữu"[3].
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết rõ hơn:
"Lê Đạt kể lại với tôi: Năm 1949, khi ông Trường Chinh cử
anh sang làm trợ lý cả chính trị và chuyên môn cho ông Tố Hữu, ông ấy có dặn
hai điều:
Thứ nhất, trình độ văn hóa của anh Lành (tức Tố Hữu) có hạn,
lãnh đạo anh em văn nghệ mà trình độ thấp thì bất lợi, vậy anh phải giúp cho
anh ấy nâng cao trình độ văn hoá lên. Thứ hai, anh Lành là người tính nết
arrogant, kiêu căng, hợm mình lại khinh người, mà trong văn nghệ có những cây
đa cây đề như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ...
tất cả họ tập trung về theo kháng chiến, thì phải khéo léo lắm, nếu làm mất
lòng họ, họ bỏ về tề[4] là một thất bại lớn.
Lê Đạt xử sự rất khéo, với tính kiêu căng của ông Tố Hữu
thì việc gì muốn làm, anh cũng bảo là do chỉ thị của ông Trường Chinh, vì thế
năm 1949, anh tổ chức được ba cuộc hội thảo quan trọng tranh luận về thơ, nhạc,
kịch. Làm cho không khí văn nghệ lúc bấy giờ sống động hẳn lên, có thảo luận
trong sinh hoạt hàng ngày của anh em văn nghệ.
Khoảng 1952, 53, tôi có đọc mấy bài thơ ngắn của anh, như bài Lúa
Bác Hồgì đó, đăng trên báo Nhân Dân, thấy thơ anh rất mới, khác hẳn thơ tôi.
Anh không làm theo vần điệu cũ, thơ anh bám sát đời sống hàng ngày, mà chữ rất
mới. Tôi thấy Lê Đạt tính nết trẻ trung nhưng học vấn uyên bác. Anh làm việc
trên Tuyên Huấn từ đầu, ở Tuyên Huấn có đủ loại sách báo, anh lại chịu học, chịu
đọc, thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp, anh hiểu sâu sắc lắm.
Cuối năm 1954, chúng tôi gặp lại nhau ở Hà Nội. Lê Đạt còn rất
trẻ[5] anh vừa ly dị cô vợ cốt cán, lấy
trong cải cách ruộng đất, đang yêu Thúy Thúy trong đoàn kịch Thế Lữ.
Lúc bấy giờ chúng tôi thân nhau lắm. Từ đầu năm 1955, thường hẹn
nhau, khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều ở quán trà Phúc Châu của người Tàu, ở Hàng
Giầy: Văn Cao, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm... ta gọi là bộ ngũ.
Quán này khi có khách đến thì đem ra một cái khay, với phích nước sôi và một ấm
có sẵn trà. Chúng tôi tha hồ uống, có khi pha đến nước thứ 6, thứ 7, đến nước
chủ nhật, loãng toẹt ra rồi. Nhiều hôm gọi đến ấm thứ nhì, thứ ba. Bàn toàn
chuyện thơ văn, khuyến khích nhau viết, Lê Đạt, Trần Dần đọc nhiều, biết nhiều
lý luận về thơ, các nhà thơ hiện đại Pháp, Tử Phác nói chuyện âm nhạc mới... Thỉnh
thoảng Phùng Quán cũng ghé qua nghe các ông anh nói chuyện thi ca: Thơ Đông
phương, thơ Tây phương. Lê Đạt, Trần Dần, đọc nhiều, rồi họ nói lại thành ra
mình học thêm được. Tiếng Pháp tôi chẳng kém gì các ông ấy nhưng tôi lười lý luận.
Đọc thơ tượng trưng của Pháp, có chỗ tôi không hiểu, hỏi: Bài này nó hay ở chỗ
nào? Tao dốt lắm. Thì Lê Đạt lại thân mật giảng cho tôi rất kỹ, tôi quý anh ở
chỗ đó.
Cuối năm 1955, lúc ấy Trần Dần, Tử Phác còn đang đi học tập cải
cách ruộng đất ở Yên Viên; gần Tết, Lê Đạt bảo tôi: Mày có nhiều bài
không? Tết có gởi bài cho báo nào không? Các báo thì đông lắm, nhưng thơ mới kiểu
chúng mình thì chưa chắc nó đã đăng đâu, hay ta soạn ra một tập, gọi là tác phẩm
mới gì đó, giao cho Thầy Bảo (tiếng lóng của chúng tôi, nghiã là in tự
do, không qua kiểm duyệt). Lúc đó vẫn còn vài nhà in sách báo tư nhân như nhà
xuất bản Xây Dựng, nhà Minh Đức. Tao vẫn còn giữ cái bài Nhất Định Thắng của
thằng Trần Dần, mày đi thúc đẩy Văn Cao, nó còn nhiều tiềm năng lắm, chỉ có mày
bằng vai vế, mới thúc đẩy được nó, tao còn nhỏ, mà lại chưa có sự nghiệp gì,
nói nó mắng cho. Thì tôi nghe lời Lê Đạt đến thúc đẩy Văn Cao. Lúc ấy Văn Cao không
sáng tác nhạc nữa, anh đang mê vẽ, Lê Đạt giục tôi xuống nhà anh, Văn Cao hứa: -
Được, rồi tao sẽ có bài. - Liệu mấy ngày, một tuần nhé? - Ừ, được, ít
nhất tao có một bài, hào hứng lên là có hai. Thế là có bài Anh có
nghe chăng? của Văn Cao trong Giai Phẩm Mùa Xuân[6].
Lời Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cho thấy sinh hoạt vô tư và tự
do của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân lúc ấy, cùng sự hình thành cuốn giai phẩm đầu
tiên và vai trò của Lê Đạt.
Việc Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong báo Văn Nghệ, đã
được đề cập trong chương trước, ở đây chỉ nhắc lại lời Hoàng Cầm: "Anh
Lê Đạt lúc đó làm bí thư chi bộ của báo Văn Nghệ, anh là người của Tuyên Huấn gửi
sang như một nhân viên nhưng thực sự là để lãnh đạo tờ báo vì anh ấy là bí thư
chi bộ"[7].
Vậy Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang dường như đã bàn tính với nhau từ
trước, nắm báo Văn Nghệ. Cùng thời điểm đó, bên quân đội, Tử Phác và Trần Dần nắm
tờ Văn Học Nghệ Thuật. Hai tờ báo này sẽ "thao túng" dư luận
văn học qua vụ phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán và Việt Bắc của
Tố Hữu.
Trong bài "thú nhận", Lê Đạt có câu:
"Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn
tay phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ"[8].
Như vậy, có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử Lê Đạt, giai đoạn kháng
chiến như sau: Năm 1945, 16 tuổi, còn học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt
Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, mẫu người lý tưởng đương
nhiên là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh, tâm cảm
Lê Đạt thời trẻ rất lãng mạn:
Yên Bái
dăm cô gái lỡ thì
thổn thức Nhất Linh
tay Loan Dũng
lên ô kính bụi
Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn
đoàn, có lẽ cũng là cách chôn "lỗi lầm tuổi trẻ". Lê Đạt theo Quốc
Dân Đảng trong bao lâu? Có thể từ rất trẻ, theo cha, bài Cha tôi, có
những câu thơ úp mở:
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...
Bởi thời ấy, chống Pháp, chỉ có vài con đường: Việt Minh hoặc Quốc
Dân Đảng. Nếu theo Việt Minh, đã là chính nghĩa, có thể nói công khai. Vậy chắc
Quốc Dân Đảng.
Từ 1945 đến 47 (16 đến 18 tuổi), tiểu sử chính thức ghi là theo
cách mạng, rồi theo kháng chiến. Vậy tạm hiểu: theo cách mạng là thời theo
Quốc Dân Đảng; đến 1947, mới theo kháng chiến, tức là mới "giác ngộ"
Việt Minh.
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết nhiều thông tin về Lê Đạt,
chưa thấy ghi ở đâu, có lẽ do chính Lê Đạt kể:
"Lê Đạt và Đặng Đình Hưng, lúc đầu đi kháng chiến cũng là
đi lang thang như vợ chồng Hoàng Cầm thôi, tức là chưa biết tạt vào đâu để móc
nối với kháng chiến. Bộ đội thì bí mật, họ lại ăn mặc như người dân, rất khó
phân biệt. Hai anh đi lang thang thì gặp một người quen với anh Hưng, làm trưởng
ty văn hoá Vĩnh Yên, sau này là Vĩnh Phúc. Anh trưởng ty vớ được hai ông sinh
viên trường Luật, lại giỏi, thích quá. Một hôm ông Trường Chinh đi công tác,
đêm về ngủ tại cơ quan, anh trưởng ty khoe: Báo cáo anh, em có hai người
giúp việc giỏi lắm. Ông Trường Chinh cho gọi họ lên nói chuyện, rồi trò
chuyện cả đêm về công tác tuyên truyền, văn hoá. Sáng sau, ông Trường Chinh dặn
anh trưởng ty: Cậu thu xếp ngay cho hai anh này lên làm việc với tôi trên
Tuyên Huấn Trung Ương. Ông Trường Chinh lúc bấy giờ (1947) làm tổng bí
thư, chọn hai người làm thư ký riêng, là Đặng Đình Hưng và Lê Đạt. Ông ấy muốn
huấn luyện cả hai thành lý thuyết gia của đảng Cộng Sản"[9].
Như vậy, Lê Đạt gia nhập Việt Minh lúc 18 tuổi, vì có tài, được
tuyển ngay vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí thư cho Trường Chinh cùng với Đặng
Đình Hưng (cháu họ Trường Chinh), nhạc sĩ, nhà thơ, nhà trí thức có tầm vóc.
Trường Chinh quả biết dùng người: ông chọn phụ tá Lê Đạt và Đặng
Đình Hưng, sau này sẽ trở thành những nhà thơ tiên phong cho thi ca hiện đại Việt
Nam, tiếc rằng ông lại không tính đến cái tự do của họ.
Vẫn theo Hoàng Cầm, 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ văn nghệ
kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt sang làm trợ lý cho Tố Hữu, thực chất là dạy
văn hoá và sửa đổi tính tình Tố Hữu. Như vậy, cấp lãnh đạo -Hồ Chí Minh hay Trường
Chinh- đã thấy ở Lê Đạt, ngoài khả năng văn hoá, còn có khả năng chiến lược và
chính trị cao hơn Tố Hữu. Khi chuyển Lê Đạt sang làm bí thư chi bộ báo Văn Nghệ,
1954, trung ương lại một lần nữa xác định "lòng tin" vào Lê Đạt.
Những dữ kiện trên đây giải thích tại sao Lê Đạt thấy mình vững
hơn Nguyễn Hữu Đang, khi làm báo Nhân Văn. Thực chất Lê Đạt khôn khéo và mềm dẻo
hơn Nguyễn Hữu Đang, lại là "thầy" của Tố Hữu, cho nên
trong vụ thanh trừng Giai Phẩm Mùa Xuân, tuy Lê Đạt chủ xướng, nhưng Tố Hữu vẫn
còn nể Lê Đạt, chũi cả mũi dùi vào Trần Dần; cũng như ở Thái Hà ấp, Tố Hữu đã
có một thái độ tương đối mềm mỏng với Lê Đạt.
Lê Đạt thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả ba đều
đã từng hoạt động hoặc có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Lê Đạt tranh đấu trên hai
mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi tự do dân chủ và về văn
nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.
● Đổi mới thi ca
Thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng Lê Đạt thành công
trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt được "phục hồi" năm
1988. Tập Bóng chữ [10] tác phẩm đầu tiên xác định ông như một
nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, bốn nhà thơ mới,
đã xây dựng nền thơ Việt Nam hiện đại. Tiếp đến tập truyện ngắn Hèn đại
nhân (Phụ Nữ, 1994), thơNgó lời (Văn Học, 1997), Từ tình
Epphen (Tạp Chí Thơ, California, 1998), tập truyện ngắn Mi là người
bình thường (Phụ Nữ, 2007), Thơ và đoản ngôn U75 từ tình (Phụ Nữ,
2007), và Tuyển tập Đường chữ (Hội Nhà Văn và Bách Việt, 2009) in sau
khi ông mất.
Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào? Chắc
từ trong kháng chiến. Hiện nay, tập Tỉnh mẹ (in trong Đường
chữ) là chứng từ đầu tiên, chưa rõ năm nào. Hoàng Cầm cho biết: sau Giai Phẩm
Mùa Xuân, Lê Đạt làm thơ về quê hương. Đến năm 1959, Đặng Đình Hưng viết được tập Cửa
ô[11], tôi viếtVề Kinh Bắc, Trần Dần viết Cổng
tỉnh, Lê Đạt làm một số thơ về vùng Yên Bái. Vậy tạm coi Tỉnh mẹ, làm
trong khoảng 1955- 1959.
Một sự kiện ít người biết đến: Lê Đạt tổ chức cuộc tranh luận về
thơ năm 1949, là để bênh vực thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, đang bị phe thủ
cựu Tố Hữu đánh. Hoàng Cầm viết:
"Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường
Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn Nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu. Vốn
là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đã làm
thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân
Khoát. (...) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới mẻ và có vẻ
hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (...) Anh Nhị Ca (...)
nói: "Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng góp được
nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ với Lê Đạt
thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm bác Phan
Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một tá những ông già khác
không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành[12]. Anh Thi đâm ra yếu thế, sau cứ đành giơ
sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự do không vần bị ăn một
trận đòn đếch cãi vào đâu được"[13].
Lê Đạt cũng nói: "Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn Đình
Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như anh Thi.
Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu ảnh hưởng
của Maïakovski rất đậm[14]".
Như vậy, Lê Đạt cùng trường phái thơ không vần với Nguyễn Đình
Thi từ 1948.
● Đem bục công an đặt giữa tim người
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng gió suốt
thời kỳ NVGP, tiêu biểu sức phản kháng mãnh liệt của nhà thơ đối với chế độ độc
tài, ngăn cấm tự do luyến ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những
sự kiện có thật trong đời Lê Đạt:
Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, một cốt cán trong Cải
cách ruộng đất, nhưng họ không hợp nhau, chỉ sống chung một thời gian ngắn rồi
hai bên thoả thuận ly dị. Thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị
Thúy), nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống
chung. Việc "bỏ người vợ cốt cán", để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt
và Thúy Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi trong nhật
ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:
"Phê phán Lê Đạt: Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục
vàng lấy cục đất. Còn gì quý hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ[15] bao nhiêu đợt rồi. Thành phần nông
dân cốt cán. Đồng chí còn muốn gì? Không yêu nhân dân thì yêu ai? Chỉ có kẻ thù
mới không yêu nhân dân thôi chứ! Kể xấu Thuý. Con lính đế quốc. Nhăng nhít
nọ kia bao nhiêu vụ rồi. Tôi không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao
giờ Đảng đồng ý những cái sai. Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng
chí hiền lành, đồng chí có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị,
Đảng cũng không đồng ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp,
bằng lòng mồm chứ không bằng lòng thực"[16].
Trần Dần cung cấp một số thông tin đáng quý: Cô Nguyện là thành
phần cốt cán, có lẽ đã được Đảng "gả" cho Lê Đạt. Cô Nguyện
bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng đơn xin ly dị). Vì vậy, Đảng răn
đe: "dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng cũng không đồng ý".
Nhưng không chỉ có mình Lê Đạt, mà Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác,
Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo, Hoàng Yến,... đều bị Đảng xen vào đời tư, ngăn cấm
tự do luyến ái, hoặc phá vỡ hạnh phúc gia đình.
♦ Hoàng Cầm
Hoàng Cầm kể:
"Tôi gặp bà Hoàng Yến lần đầu vào khoảng tháng giêng năm
1945, lúc đó bà ấy đã nhận lời đóng vai Kiều Loan và đã tập được 4, 5 buổi,
không hiểu sao ông chồng cũ của bà ấy lại đổi ý, không cho tập tiếp. Chín năm
sau, khi đi kháng chiến về, tôi gặp lại ở Hà Nội, thì ông chồng đã chết cách đấy
hai năm. Trông bề ngoài có vẻ quý tộc, đài các, còn đẹp lắm, tuy bên trong cuộc
sống rất cực khổ, vì ông chồng bị phá sản, tự tử chết đi để lại toàn nợ nần. Gặp
bà ấy, trong tôi nổi lên một sự thương cảm lạ lùng và quyết định xây dựng với
bà ấy. Lúc đầu chỉ đi chơi với nhau, tối tôi về doanh trại.
Từ tháng 3, tháng 4/1955, tôi ăn ở với bà Hoàng Yến, tuy không tổ
chức cưới xin gì, cứ độ mấy ngày tôi ra ngủ ở 43 Lý Quốc Sư một tối, sáng lại về
trại. Tôi là trưởng đoàn văn công nên có thẻ đỏ, đi về lúc nào cũng được. Lúc ấy
cũng là lúc tôi tham gia kiến nghị đòi hủy bỏ vai trò chính trị viên trong quân
đội, trả văn nghệ về cho văn nghệ của Trần Dần, Tử Phác.
Đến khoảng tháng 4/1955, một hôm tôi nhận được giấy triệu tập của
Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, yêu cầu đồng chí Hoàng Cầm phải có mặt
đúng 9 giờ sáng ngày... có việc cần. Giấy ký tên Thành, Lê Thành gì đó, cục phó
Cục Tổ Chức. Tôi lên. Thấy hắn tỏ ra rất oai, mình chào nó không chào lại. Tôi
tự kéo ghế ngồi, bảo đã nhận được cái giấy anh triệu tập, xin anh cho biết việc
gì? Bằng một giọng lạnh lùng, hách dịch, hắn bảo: "Ít lâu nay, chúng
tôi được báo cáo anh có quan hệ với một người đàn bà tư sản ở ngoài phố. Tôi gọi
anh lên đây báo cho anh biết kể từ hôm nay, anh phải cắt đứt ngay quan hệ với
người đàn bà đó, nếu không, anh sẽ bị thi hành kỷ luật rất nặng".
Thế là mình biết rõ ý định của nó rồi, nó đưa ra cái đường lối của
Đảng là không quan hệ với giai cấp tư sản vì đó là kẻ thù. Nhưng cái bà Lê
Hoàng Yến mà nó gọi là tư sản thì vừa chua chát vừa buồn cười, hay tại cái dáng
đẹp đài các của bà ta? Người đàn bà ấy phải nuôi một đàn con 6 đứa, đứa lớn nhất
11 tuổi, với một mẹ già, một quả trứng không có mà ăn, chỉ toàn ăn rau muống với
dưa, lương y tá công nhật hạng bét, 100 đồng, làm ở bệnh viện Việt Đức.
Tôi bèn xích cái ghế lại gần hắn, hỏi: "Anh Thành à,
anh cho tôi biết thế nào là tư sản?" Thế là nó thấy mình vặn lý, nó đập
bàn quát: "Này, tôi không lý luận gì với anh nhá! Chính sách tiếp quản
thủ đô anh đã học hết rồi! Tôi gọi anh lên đây để cảnh cáo anh. Anh cứ liệu hồn
đấy". Thế là tôi lấy chân gạt cái ghế ra, đứng dậy đi phắt ra cửa,
đóng sầm một cái, rồi ra về. Tôi viết ngay một cái thư xin giải ngũ hoặc chuyển
ngành sang Hội Văn Nghệ, gửi đủ bốn ông: đồng chí tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp,
đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Nguyễn Chí Thanh, đồng chí trưởng Ban
Tuyên Huấn Lê Quang Đạo, đồng chí phó Ban Tuyên Huấn Võ Hồng Cương.
Viết xong tôi đưa cho ông Võ Hồng Cương xem trước, ông trố mắt hỏi: Tại
sao anh lại làm cái này nhỉ? Tôi trả lời đại ý: "Tôi đi bộ đội
cũng tám năm rồi, mà trong quân đội tôi đã làm trọn nghiã vụ, thì bây giờ hoà
bình, tôi xin chuyển ngành hoặc giải ngũ". Anh Cương nói: "Trong
quân đội anh được mọi người rất yêu mến, nhất là anh Giáp rồi anh Thanh đấy,
cái đơn anh xin giải ngũ thật vô lý". Tôi bắt buộc phải kể lại câu
chuyện sáng nay: "Anh Thành bên Cục Tổ Chức triệu tập tôi, cảnh cáo tôi có
quan hệ với một người phụ nữ ngoài phố, cái đó tôi không chối, nhưng lại nói là
quan hệ bất chính với một người đàn bà tư sản, phải cắt đứt ngay. Tôi chỉ hỏi
thế nào là tư sản thì anh ấy đập bàn đập ghế với tôi, thì anh bảo tôi còn ở lại
quân đội sao được. Anh là cục phó Cục Tuyên Huấn, nhưng Cục Tổ Chức vẫn nắm
sinh mệnh của anh vì họ nắm lý lịch của anh. Tôi là nghệ sĩ, tôi quen sống tự
do, mà lại phải ở dưới quyền một người như thế thì làm sao tôi chịu được".
Anh Cương hơi lúng túng: "Cái này là bệnh ấu trĩ, chứ anh Thành làm sao có
thể thi hành kỷ luật anh về chuyện ấy được!" "Người ta là cục phó Cục
Tổ Chức mà người ta nói như thế thì người ta thừa sức kỷ luật tôi về việc hủ
hoá, đạo đức không tốt, có quan hệ với tư sản, kẻ thù của cách mạng".
Nhưng anh Cương nhất quyết từ chối. Thế là lá đơn tôi xin giải ngũ cứ nằm chờ,
từ tháng 5 đến tháng 11, tôi nhất định không đổi ý, mà các anh, anh Giáp, anh
Thanh, anh Cương, đều muốn giữ tôi lại. Nhưng tôi biết mình là người sống buông
thả, lãng mạn về chuyện phụ nữ, mình biết bệnh của mình, không thể ép vào cái kỷ
luật ấy được. Trong kháng chiến đã ba lần tôi từ chối vào đảng, chỉ vì nghe đọc
cái kỷ luật của đảng viên, là tôi đã ngại rồi. Sau cùng tôi nghĩ chỉ còn cách
nhờ ông Tố Hữu. Tố Hữu lúc bấy giờ đối với tôi chỉ có vụ phê bình thơ Việt Bắc,
đối với ông ấy thì cũng nặng nề đấy, nhưng cũng chưa tan vỡ lắm, ông ấy vẫn có
phần nể mình. Tôi mới viết thư cho ông Tố Hữu, muốn xin sang làm việc bên Hội
Văn Nghệ, nghiã là xin chuyển ngành thôi, chứ không xin giải ngũ nữa. Tố Hữu viết
thư cho ông Lê Quang Đạo, mọi việc được giải quyết ngay. Ngày 8/11/1955 tôi ra
khỏi quân đội. Về Hội Văn Nghệ, thì được ông Hoài Thanh phân sang làm việc ở
nhà xuất bản Văn Nghệ với Tô Hoài và Kim Lân.
Lúc đó là tháng 1/1956.
♦ Trần Dần
Hoàng Cầm kể:
Từ cuối năm 1954, Trần Dần yêu một người phụ nữ. Một hôm đi xem
chiếu bóng với Cao Nhuệ, tình cờ hai anh gặp hai cô gái có dáng đi uyển chuyển,
bèn lân la làm quen, rồi rất nhanh anh Dần có cuộc tình với cô Khuê. Hẹn với cô
Khuê, thì anh ấy, hoặc mượn thẻ đỏ của tôi để ra trại, hoặc trèo tường ở chỗ đầu
Lý Nam Đế.
Lúc bấy giờ, trong quân đội có tin đồn rất ghê: Vì cô Khuê theo
đạo Cơ Đốc, lại là con nuôi ông tổng giám mục, tên là Douley (?) gì đó, nên nó
tung tin cô Khuê được gài lại làm gián điệp, mà gián điệp thì trước tiên nó
xông vào quân đội, và như thế là Trần Dần mắc cạm bẫy gián điệp. Tôi mới hỏi
ông Võ Hồng Cương:"Có gì mà bảo cô ấy là gián điệp hở anh?" Ông
Cương rất lành và thật thà, ông ấy bảo: "Cái này là bên Cục Tổ Chức
và Cục Bảo Vệ, bao giờ người ta cũng theo dõi tất cả hành động của cán bộ khi mới
về tiếp quản, tôi cũng chẳng biết thế nào, nhưng anh là bạn thân của anh ấy,
anh bảo anh ấy thôi đi, chuyện này nó phiền phức quá, mà tôi thì không muốn làm
cái gì nặng nề với anh ấy". Nhưng cái dư luận ấy càng ngày càng tăng,
bởi vì Trần Dần và Tử Phác còn đưa ra cái Đề nghị cải tổ, mà họ cho hai anh là
chính, Hoàng Cầm không sâu sắc gì, chỉ a dua thôi, không phải chủ mưu. Thế là họ
mở cái lớp đấu tranh nội bộ chống Trần Dần Tử Phác, ông Võ Hồng Cương phải chịu
trách nhiệm, học tập tình hình trong Cục Tuyên Huấn, có biểu hiện không tốt, học
tập để đấu tranh chống tư tưởng tư sản của Trần Dần. Sau đó, Trần Dần và Tử
Phác bị kỷ luật hai tháng[17], bị giam trong hai cái phòng, để viết kiểm
điểm, tối họ khoá cửa để anh ấy khỏi trèo tường ra ngoài. Hoàng Cầm thì được ở
Liễu Giai với đoàn văn công và không bị truy tố gì cả, mặc dầu có tham gia bản
kiến nghị. Độ mấy ngày viết xong kiểm điểm, thì anh ấy làm thơ. Anh Dần có bài
thơ nhớ cô Khuê hay lắm. Cũng trong thời gian đó Trần Dần viết bài thơ dài Nhất
Định Thắng.
♦ Tử Phác
Về trường hợp nhạc sĩ Tử Phác, Hoàng Cầm kể:
Tử Phác là con nhà tư sản, sau 1954, về Hà Nội, anh vẫn giữ nếp
sống tư sản, về ở nhà riêng, phố Hàng Giấy, trước cửa chợ Đồng Xuân, nhà to lắm.
Anh có bà vợ chính thức là cô Nghiã, dạy piano, violon, ở trường nhà nước. Tử
Phác làm trưởng phòng Văn Nghệ Quân đội, vì dan díu với một cô diễn viên, nên bị
mất chức. Tử Phác, Trần Dần và tôi, đều bực mình về việc văn nghệ sĩ bị trói buộc
trong cái kỷ luật nghiệt ngã, nên bàn nhau làm cái kiến nghị lên ông Nguyễn Chí
Thanh để cải tiến lãnh đạo văn nghệ.
Tử Phác bị đánh không phải vì chuyện tình duyên mà vì thái độ của
anh: Anh luôn luôn chống lại những giáo điều. Khi cán bộ lên lớp dạy dỗ mọi người
thì Tử Phác cứ khinh khỉnh, quay mặt đi, không thèm nghe, ngồi quấn thuốc lá
hút. Vì thái độ kiêu kỳ, khinh cấp trên, nên Tử Phác bị ghét, bị coi là đồng
loã với Trần Dần chống Đảng, bị bắt hai lần cùng với Trần Dần[18].
Ngoài thái độ kiêu kỳ, Tử Phác còn là thư ký toà soạn báo Sinh
Hoạt Văn Nghệ của quân đội. Ông bị liệt vào tội cùng Trần Dần tổ chức hội họp
soạn bản Dự thảo và chiến dịch chống Đảng trên báo Sinh Hoạt Văn Nghệ.
♦ Đặng Đình Hưng
Hoàng Cầm kể:
"Năm 1952, Đặng Đình Hưng nhận chỉ thị của ông Trường Chinh
đứng ra thành lập Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, anh làm đoàn trưởng kiêm
chính trị viên. Bà Kim Thoa vợ anh Hưng đã về Hà Nội từ trước 1952. Cũng năm ấy,
bà Thái Thị Liên, nữ dương cầm nổi tiếng, ở Pháp, được ông Pham Văn Đồng mời về
nước. Bà Liên là vợ goá của ông Trần Ngọc Danh, em ruột ông Trần Phú. Đón bà
Liên về, ông Đồng đưa lên sinh hoạt ở Đoàn Văn Công Trung Ương của Đặng Đình
Hưng. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau. Lúc ấy, bà Thoa đã về Hà Nội và người
ta chưa biết cuộc chiến khi nào kết thúc. Việc đến tai Tố Hữu, nếu là người
khác, thì đã bị ông quác lên ngay, nhưng ông Hưng thì ông Tố Hữu không dám, vì
là bí thư và cháu họ của ông Trường Chinh. Sau 1954, ông Hưng thuê nhà phố Hai
Bà Trưng ở với bà Liên[19], nhưng cũng không bỏ hẳn bà Thoa. Rồi có
chuyện bà Thoa kiện lên ông Trường Chinh, ông này giao cho ông Tố Hữu giải quyết.
Một hôm, khoảng 8 giờ tối, bà Liên đi vắng, chúng tôi đang ngồi
uống rượu với ông Hưng thì ông Tố Hữu sai liên lạc xuống nói với ông Hưng: Anh
Tố Hữu mời anh lên nói chuyện. Ông Hưng bảo tôi: Thằng đó gọi tao làm gì,
tao đâu có quan hệ gì với nó, ban ngày thì là việc hành chánh, ban đêm tao
đéo đi! Tôi can:Hưng ơi, dù sao cậu cũng là đảng viên, đoàn trưởng đoàn
văn công, thì vẫn ở dưới quyền Tố Hữu, mà người ta mời lên chứ có gọi đâu! Tôi
kích lên như thế thì ông ấy mới đi. Độ một tiếng sau, thấy trở về, mặt lầm lầm
lì lì, chẳng nói chẳng rằng, ngồi xuống uống rượu tiếp. Một lúc tôi mới hỏi: Có
việc gì quan trọng không? Thế là Hưng cáu: Mẹ nó đập bàn với tao, thì
tao đập lại. Nó bảo: Anh không cắt đứt với bà Liên thì anh coi chừng
cái sinh mạng chính trị của anh.Tao bảo: Tôi không có lỗi gì với Đảng hết,
việc làm tôi không sai phạm gì hết. Việc bà Liên và bà vợ tôi là chuyện riêng của
tôi, Đảng không có quyền can thiệp. Thế là nó đập bàn: Anh coi chừng
cái sinh mạng chính trị của anh. Tao cũng đập bàn: Tôi chả coi anh ra
cái thá gì cả, anh không là cái thá gì mà anh dọa tôi!
Thế là ngày hôm sau Tố Hữu chỉ thị cho Nguyễn Xuân Khoát, tổ trưởng
đảng bên âm nhạc, kiểm điểm Đặng Đình Hưng, bắt nhận lỗi hủ hoá với bà Liên.
Ông Khoát nhận chỉ thị thì phải làm chứ ông biết thừa tính ông Hưng. Ông Khoát
tổ chức ba buổi, hỏi ý kiến anh Hưng nghĩ thế nào về việc bà Liên, ông Hưng trả
lời dứt khoát: Tôi không có lỗi gì hết mà phải kiểm điểm. Việc tôi với bà
Liên là việc riêng, Đảng không có quyền can thiệp.
Sau ba ngày kiểm điểm kết quả zéro, đến ngày thứ tư Tố Hữu ra lệnh
khai trừ khỏi Đảng và cất chức đoàn trưởng, Thế Lữ lên thay. Việc này hoàn toàn
không dính dáng gì đến NVGP, bởi vì Đặng Đình Hưng không viết bài cho NVGP,
chuyện gia đình anh Hưng là chuyện riêng, nhưng người ta kéo vào NVGP, bởi vì
cái gì cưỡng lại chỉ thị của Đảng, chống lại Tố Hữu thì bị quy là NVGP"[20].
Hai nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và Tử Phác hầu như không đóng góp bài
vở cho NVGP -Tử Phác chỉ viết một bài nghiên cứu âm nhạc- nhưng vẫn bị thanh trừng
nặng nề vì Đặng Đình Hưng được coi là đệ nhất quân sư. Tử Phác, thư ký toà soạn
báo Văn Học Nghệ Thuật, là đệ nhị quân sư, đã cùng Trần Dần chủ mưu chống Đảng.
● Áp lực bắt vợ Nhân Văn bỏ chồng
Hoàng Cầm kể:
Sau NVGP, ở những nơi có vợ Nhân Văn làm việc, đều được người ta
vận động chi bộ, nếu là đảng viên hoặc công đoàn, nếu ngoài đảng, cho người đó
bỏ chồng. Lập luận đưa ra: NVGP có tư tưởng cực kỳ xấu, phản Đảng, mà sống với
người chồng như thế thì không thể hạnh phúc được.
Ví dụ, bà Nhất là vợ ông Trần Đức Thảo, dạy trường Cao Đẳng Sư
Phạm. Hai người lấy nhau lâu rồi nhưng không có con. Thì chi bộ đại học vận động
bà Nhất phải làm đơn ly dị, vì chồng có tư tưởng xấu, chống tổ quốc, chống Đảng.
Chuyện đến tai ông Phạm Văn Đồng, ông Đồng mời bà Nhất lên vì ông rất kính trọng
ông Trần Đức Thảo, can gián đại ý: "Việc anh Thảo tham gia NVGP, nếu
ta gọi là sai lầm thì đó cũng chỉ là cái sai lầm nhất thời, nếu chị lấy cái cớ
đó để ly dị, tôi e rằng nó xấu hổ cho người trí thức lắm". Quả nhiên
bà Nhất về có rút cái đơn ly dị đi. Và chi bộ cũng biết ý kiến ông Đồng như thế,
nên nó đình lại 5 năm, rồi sau nó làm lại, thủ tục rất nhanh, ông Đồng không biết,
lần này ly dị thật. Đấy là chuyện họ ép bà Nhất.
Còn chuyện tôi với bà Lê Hoàng Yến thì như thế này: khoảng năm
1959, sau khi thi hành kỷ luật, tôi đi lao động ở Thái Bình về, bà Yến kể: Một
buổi sáng, anh thư ký công đoàn ở bệnh viện Việt Đức, ông giám đốc và một người
nữa, đến nói chuyện với tôi, đề nghị tôi bỏ chồng: "Chồng chị là
NVGP, tội nặng đấy, tư tưởng chống Đảng là xấu lắm, như ở bên Trung Quốc thì
người ta đã bắn bỏ rồi, bên ta nhờ có cụ Hồ bao giờ cũng khoan hồng...". Bà
ấy trả lời: "Báo Nhân Văn thì tôi cũng chả đọc, mà có đọc tôi cũng chả
hiểu họ viết gì, mà cho là phản động. Bây giờ các anh lại bảo Nhân Văn là xấu,
tôi cũng chả hiểu xấu là thế nào, mà đến nỗi phải bỏ chồng. Thôi xin các anh miễn
cho tôi nghe cái chuyện ấy". Rồi họ ra về. Mấy hôm sau họ lại đến nữa,
lần này thì bà ấy đuổi thẳng: "Nếu các anh đến thăm tôi về chuyện
bênh viện Việt Đức thì mời các anh vào, còn nói chuyện như lần trước thì mời
các anh về, tôi chả nghe cái chuyện ấy nữa đâu."
Sang đến chuyện Lê Hoàng Yến. Anh Yến có viết bài phê bình thơ Tố
Hữu năm 1955, đăng báo trước bài của tôi, và sau đó anh tham gia NVGP. Năm
1959, anh ấy phải đi lao động ở Phú Thọ, vợ là chị Thao, Xuân Thao gì đấy, vẫn ở
Hà Nội, chị tuy năm con nhưng còn đẹp lắm. Anh Lê Hoàng Yến trước kia là trưởng
ty công an tỉnh Quảng Nam, nhưng anh mê kịch, bỏ ngành công an về làm sân khấu.
Anh có uy tín vì am hiểu sân khấu lắm, anh đọc nhiều kịch nước ngoài. Sau Nhân
Văn anh cũng bị phê phán nặng, nhưng kỷ luật thì giống tôi, nghiã là chỉ bị
khai trừ một năm.
Anh là đảng viên, thì cái tổ Đảng bên Sân Khấu của anh nó đến vận
động bà Thao bỏ chồng. Bà Thao đã 5 con nhưng còn xuân sắc lắm, hơ hớ như độ
đôi mươi. Chúng nó vận động thế nào mà bà Thao sốt sắng viết đơn đệ toà ngay.
Người ta mời anh Lê Hoàng Yến từ Phú Thọ về ra toà để ly dị. Buổi đầu còn hoà
giải. Anh Yến bảo "Tôi hoàn toàn không biết có lỗi gì, tôi yêu quý vợ
tôi lắm và tôi luôn luôn giữ đủ bổn phận với gia đình, không hiểu sao vợ tôi lại
có đơn này". Toà hỏi chị Thao thì chị trả lời: "Anh Yến từ
trước đến giờ quả thực không có lỗi gì, trước kia anh còn làm đến trưởng ty
công an, nhưng không ngờ anh ấy lại tham gia vào cái bọn khốn nạn NVGP. Nhờ ơn
Đảng nuôi dậy suốt đời các anh được hiểu biết, được sáng tác, như anh Hoàng Cầm
viết được Bên Kia Sông Đuống, anh Trần Dần viết Người người lớp lớp, anh Văn
Cao cũng thế... Vậy mà chỉ vài năm nay, không biết các anh ăn phải cái bả gì,
người ta bảo là cái bả tiền nong, gái đẹp, khiến các anh đi vào con đường xấu
xa phá hoại, chống Đảng, vì thế sống với anh, tôi mất hết hạnh phúc, tôi làm
cái đơn này, mong toà giải quyết ngay cho, sớm ngày nào hay ngày ấy!" Anh
Lê Hoàng Yến thuật lại với tôi như thế, bà ấy cứ một giọng chắc nịch, anh đi từ
chỗ ngạc nhiên, đến chỗ buồn, buồn lắm, anh không hiểu sao vợ mình lại thay đổi
nhanh chóng như thế. Tôi buồn quá, tôi nói như van vỉ vợ tôi: "Thôi
em hãy nghĩ đến hạnh phúc của năm đứa con, nếu như tôi có lỗi gì thì tôi cũng
đã vui vẻ đi lao động cải tạo để xây dựng lại cho tốt, xin Thao rút cái đơn đó
đi, nghĩ đến tương lai các con mà rút đơn đi". Chị Thao vẫn một mực
khăng khăng: "Chính vì tôi nghĩ đến tương lai các con, không muốn
chúng nhiễm tư tưởng độc hại NVGP của bố nó, trở thành những phần tử xấu xa của
xã hội mà tôi phải ly dị!" Sau đó toà giải tán, hẹn nửa tháng nữa gặp
lại. Trước khi về Phú Thọ, anh Yến xin với cô ấy: "Anh muốn gặp em để
nói chuyện một tý", cô ấy trả lời: "Chả có gì mà phải gặp,
tôi đã nói hết ở toà rồi, anh Nhân Văn là khốn nạn lắm, tôi không thể sống được
với anh nữa".Lần hoà giải thứ nhì cũng vậy, bà ấy vẫn một giọng.
Đến phiên toà chính thức, đông người xem, tôi cũng đến. Chị Thao
lên nói một cách oai phong lẫm liệt, đanh thép và rất ác: "Tôi với anh Yến
lấy nhau có 5 mặt con, không có chuyện gì, nhưng gần đây, tư tưởng chồng tôi
thay đổi một cách rất rõ rệt, trước kia là người tốt, công tác, tư tưởng, lập
trường rất rõ ràng, nhưng từ khi anh ấy tham gia nhóm phá hoại NVGP, có tư tưởng
cực kỳ xấu, phản Đảng, phản nhân dân, tôi nghĩ nếu tôi còn tiếp tục sống với
anh ấy nữa thì đời tôi chỉ là đống bùn hôi thối..."[21].
Bi kịch của các văn nghệ sĩ bị Đảng can thiệp vào đời sống riêng
tư, được Lê Đạt thuật lại trong bài "Nhân câu chuyện mấy người tự
tử" với hai câu thơ "để đời":
Đem bục công an máy móc
đặt
giữa tim người.
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Lời thơ phát xuất từ những chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên bi kịch
của những người muốn tự do trong tình yêu, nhưng bị Đảng trực tiếp gán ép hoặc
ngăn cản. Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, đều chung cảnh
ngộ: bị Đảng can thiệp vào đời sống cá nhân.
Riêng những người vợ Nhân Văn, nếu không chịu bỏ chồng, thì phải
gánh chịu hậu quả việc chồng làm, trong suốt cuộc đời còn lại.
Lê Đạt kể: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có
những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt và khuyên
cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục
trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ
tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của cô
và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. (...) Được phục hồi,
tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được gì ngoài chứng bệnh suy
nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được"[22].
Lê Đạt ghi lại bi kịch gia đình trong thơ như một lời tạ lỗi vợ
con, như một ân hận suốt đời, bài thơ vượt khỏi khuôn khổ gia đình để nói lên
nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân Văn mà Lê Đạt đã khắc chân
dung họ vào văn học sử:
● Vợ Nhân Văn
Lịch sử quýt làm cam chịu
Xin lỗi em
những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm[23] trằn trọc
Anh Thái Hà [24] chưa về
và em khóc
Xin lỗi em
những lời khuyên "cắt đứt"
Vạ gì đeo hai tiếng "liên quan"
Những buổi sớm
muốn chui đầu xuống đất
Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu
Xin lỗi em
tiếng oan vợ thằng phản động
Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ
Xin lỗi em
tuổi ước mơ không được sống
Những giấc ngủ
chưa một lần tròn mộng
Chung thân tâm thần
trọng tội đa mang
Đời sau ơi!
May còn đoái đến tôi
Hãy trả giùm tôi món nợ
Người vợ nhỏ
vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ
Đã chụp mũ chồng
lưng thập tự Sói ăn
Và Đức Phật
duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ
Xin độ trì
những Thị Kính-vợ-Nhân Văn.
● Con Nhân Văn
Đào Phương Liên ghi lại cuộc sống gia đình nhân ngày giỗ đầu của
cha.
Bài văn khơi động một bi kịch kinh hoàng mà người ngoại cuộc
không thể hình dung nổi:
"... Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở mãi trong lòng câu hỏi
Bố là ai? (...)
Nhưng con không dám hỏi Bố vì sao sau những buổi vui vẻ ấy,
Mẹ lại lo lắng nhắc Bố: “Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!". Bố thế
nào cũng nổi cáu, quặc lại: "Tôi có làm gì khuất tất đâu mà không được cười
to, nói to?" Con đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm
thắc mắc: "Vì sao nhỉ? Hay cười nói to thế là không lịch sự?".
Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to thì thầm: "Bà vợ ông Văn
Cao dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy. Ông phải cẩn thận. Đừng có cười
to, nói to. Người ta để ý đấy!" Con đã quá quen với lời nhắc nhở đó, giờ
chỉ còn mỗi bận tâm: "Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được với tác giả
TIẾN QUÂN CA cơ chứ?"
Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng tờ
báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim cu
nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới sàn,
hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến cái
nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề những
mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy đen xì nổi
gai: "chi chi…chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa"…(Mà mỗi
khi con hỏi bố tìm gì vì thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên thì bố chỉ im im rồi
thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!). Con vội
gạt đi ngay vì nhà mình không có một quyển truyện, một quyển thơ nào (...) Và
con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì? (...)
Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn
cùng phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ,
đến lớp bô bô: "Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ". Con nghe máu
nóng bốc rát mặt nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm:
"Bố nó sỏ nhầm giầy à?" Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.
Về nhà, con len lén để ý xem Bố có đúng là "phản động"
không? Con không dám hỏi vì sợ… đúng???. Vì sợ… đụng phải nỗi đau cần phải che
giấu của Bố dù con không hề tin!
Con đã tự trấn an mình bằng những kiến thức thu nạp được qua biết
bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bẩy, qua những câu chuyện trong
các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong các
tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện, bảo
vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lý giải: Nếu
Bố là "phản động" thì Bố đã không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố
"phản động" thì đã không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết
đó là thẻ Bố được tặng?) (...) Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp
nào con cũng được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác
hàng xóm cười khẩy: "Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng
vào được đại học. Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì đừng mơ!"
Đem thắc mắc đó về hỏi, Bố cười gạt đi: "Làm gì có chuyện đó. Con cứ thi
đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt". Bố chợt trầm ngâm: "Chắc không có
chuyện gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà
lo?". Rồi Bố lo lắng hỏi lại: "Thế có thật không phải Đoàn viên thì
không được vào Sư phạm không con?". Và bố lại tất tả dắt xe đi… Cho đến
lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt nhưng quả thật không gây ấn
tượng gì với con vì con chưa bao giờ nghe tới phong trào NVGP.
Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư phạm
ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc đến
“bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt” với những câu “bôi xấu chế độ”.
"Ta đi không thấy phố thấy phường
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ"
Của bác Trần Dần
Và của Bố:
"Đặt bục công an giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo chế độ".
Con đã cúi gằm mặt, người nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn mắt
nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên “nếu thế thì sai quá còn gì” dù con
không biết những câu sau. Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ nhiệm của con mới móm
mém: “tao đến khổ vì chuyện vào Đoàn của mày”. Con thật thà: “vì em chưa xứng
đáng”. Cô vỗ vai: “vì cái lý lịch”[25].
Và câu trả lời của Đào Công Uẩn, trước linh cữu Lê Đạt, có đại
diện của chính quyền: "Cha chúng tôi là một người luôn sống và trả
giá "cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập,
tự do".
● Lê Đạt và Hồ Chí Minh
Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của Hồ
Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn, khó
hiểu.
Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04-1999) tại
Paris, ở đoạn cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI,
2004, Lê Đạt đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng cách thời gian, xin ghi lại
hai câu đã bị cắt như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị
lãnh tụ cộng sản:
TK: Chính ở trong phong trào của các anh cũng có điều khó
hiểu: Ngay từ đầu, các anh đã phê bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập thơ đó thần
tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần tượng lãnh tụ.
Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, đều
thấm nhuần Tây học, mà vẫn thần tượng hóa cụ Hồ, có phải như thế không? Điều
này làm cho người ta khó hiểu.
LĐ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình có thể phê phán người khác, nhưng mình
vẫn phạm sự thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi
không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý đến việc ấy, nhưng chắc là trong
ngóc ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.
TK: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là "thần tượng".
Nhưng cụ Hồ lại chủ trương điều mà các anh chống lại, đó là sự toàn trị, và cụ
Hồ cấm đoán cái mà các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình không thể nào
"tranh đấu" với một thần tượng mình tôn thờ và đòi lật đổ sự độc tôn
thần tượng đó. Đấy là điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập luận
của các anh?
LĐ: Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự do và dân chủ cho
đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những khía cạnh khác. Chị
nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện thì tôi không bao giờ
có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân chủ trên đất nước
Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa là tôi đấu tranh cả với
cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch của tôi. Điều đó chị
thông cảm cho tôi.
Ngoài micro, tôi nói đùa với nhà thơ: "Cụ Hồ đã làm
các anh điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh được thì lạ quá!". Lê
Đạt cười: "Thì mình cũng phải tin là còn có một người tử tế, chứ nếu
cả nước đều một bọn vứt đi thì làm sao sống nổi!"
Lê Đạt có viết bài trường ca Bác[26]. Đây là bài thơ ca tụng bác Hồ với
những tình cảm chung chung, không thấy bộc lộ cảm xúc chân thực, phát xuất tự
đáy lòng:
"Trong lặng im trắng
mênh
mông
mỗi
tấc lòng
Ta càng nghe rất rõ
cái
thủa Ba Đình
Di chúc
bác mở tay
mở bay
trang rộng"[27]
Thời đầu kháng chiến, hầu hết người Việt đều coi bác Hồ là
"cứu tinh của dân tộc", và nhà thơ nào cũng có bài ca tụng thần tượng,
kể cả Vũ Hoàng Chương.
Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở thời điểm
khá trễ này? Phong Lê trong bài "Có một trường ca về Hồ Chí
Minh..." cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ đầu
của HCM, nhưng phải 20 năm sau, mới được in[28]. Đào Phương Liên cho biết, khi
"Ông" mất, bố mẹ để tang "Ông". Như vậy bài thơ Bác đã
làm sau khi Hồ Chí Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?
Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đe dọa Lê Đạt: "Tội của
anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng
vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích
được cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh-đừng-nên-nghĩ-rằng-anh-tội-nhẹ!" Ðó
là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về."[29]
Trong "lời dặn dò" của Tố Hữu, hình như Đảng chính là
Bác?
"Tội" của Lê Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn "tội"
Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao
giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc.
Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng đã có sự "khoan hồng"
ở Bác, đối với một nhà thơ có tài? Lê Đạt đã cảm nhận như thế và đó
chính là bi kịch của ông? Tạm hiểu bài thơ Bác và tình cảm
"khoan hồng" của Lê Đạt đối với bác, nằm trong bối cảnh như thế.
● Những bài thơ khóc bác Hồ không được đăng
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết "lý lịch" một số
những bài thơ ca tụng bác Hồ:
"Làm thơ ca tụng bác Hồ, trước tiên là Tố Hữu. Thời trước
cách mạng, tôi đọc được trên báo một số bài thơ ký tên Tố Hữu, trong đó có một
bài tên là Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, chưa mấy ai biết rõ bác Hồ. Phải đến ngày
2/9/1945, người ta mới biết đó là một lãnh tụ ở xa về. Còn tên Tố Hữu chưa biết
là ai. Bài thơ Hồ Chí Minh rất dài trong có một câu làm tôi chú ý: "Hồ
Chí Minh mắt sáng quắc tay xanh lè mã tấu. Quyết vùng lên thề phanh thây uống
máu lũ cường quyền. Ôi khoái trá vô biên". Bài thơ tả một người: mắt
sáng quắc, tay xanh lè mã tấu, thế ông ấy là tướng cướp à? Còn câu: Thề
phanh thây uống máu quân thù thì có trong quốc ca của Văn Cao, trong bài
Đêm Liên Hoan của tôi cũng có moi gan uống máu quân thù, và ngay quốc ca
Pháp cũng có, nghe thấy mà ghê. Nhưng đặc biệt câu này: Ôi khoái trá vô
biên, mới thật là rùng rợn, uống máu quân thù mà thấy khoái trá vô biên thì ghê
quá, khát máu quá, không thể chấp nhận nổi. Đấy, tôi biết Tố Hữu qua bài thơ ấy.
Đến khi ông Hồ mất, năm 1969, Đặng Đình Hưng mới đưa ra ý kiến:
Một người như bác Hồ mất đi thì ai cũng có cái xúc động. Vậy nhân dịp này, nếu
chúng ta còn cái cảm tình gì đối với ông Hồ thì mỗi thằng nên làm một bài thơ,
gửi lên Trung Ương để tỏ rằng: chúng tôi là những người công dân chân chính,
cái gì đáng yêu đáng kính thì chúng tôi trân trọng. Trước cái chết của bác Hồ,
chúng tôi biết rung động, tác phẩm của chúng tôi đây. Mọi người đều tán thành.
Đặng Đình Hưng viết bài "Bác còn", tức là Bác không chết
đâu. Tôi viết bài "Bác về", Lê Đạt viết "Bác Hồ" gồm
3 bài dài như trường ca. Riêng Trần Dần quanh quẩn mãi sau chịu thua: "Tao
loay hoay mãi mà không làm nổi một câu nào!" Đành thôi. Thế là được
ba bài, gửi lên bốn nơi: Ban Tuyên Huấn Trung Ương, đồng chí Lê Duẩn, đồng chí
Trường Chinh và Hội Nhà Văn.
Chúng tôi nhận được hai danh thiếp trả lời: Ông Phạm Văn Đồng trả
lời anh Đặng Đình Hưng, đại ý: "Anh Hưng thân mến, tôi đã nhận được
bài thơ anh viết về Bác, tôi đọc và rất xúc động. Ở trên này chúng tôi vẫn hết
sức đấu tranh, thảo luận để làm thế nào cho anh em trở lại sáng tác như trước." Hoàng
Cầm nhận được thiếp của ông Trường Chinh vỏn vẹn: "Cảm ơn đã nhận được
bài thơ về Hồ Chủ Tịch".
Lê Đạt không nhận được gì cả.
Lê Duẩn, Tố Hữu không viết lời nào.
Đến Tết năm ấy, trên báo Nhân Dân người ta mở cái mục gọi cảm
tình của"Quần chúng với Bác Hồ", tôi cũng gửi bài thơ ấy đến báo
Nhân Dân, kèm lá thư cho ông chủ nhiệm Hoàng Tùng, giãi bày: nhân danh công
dân, trước cái chết của bác Hồ, tôi làm bài thơ "Bác về" mong
được báo Nhân Dân trích dăm ba câu, như một tác giả vô danh, đăng trong mục
"Quần Chúng với bác Hồ".
Gửi hôm trước thì hôm sau anh Nguyễn Địch Dũng cầm trả tôi bản
thảo cả bài thơ đó, bảo anh Hoàng Tùng có nhận được thư anh nhưng báo chật chỗ
quá rồi. Điều đó chứng tỏ, người ta thù ghét anh em NVGP đến thế nào, đến khóc
bác Hồ mà cũng không được phép đăng báo"[30].
Việc làm thơ khóc bác Hồ của ba thành viên NVGP, có thể có hai ý
nghiã: ý nghiã trữ tình, phát xuất tự tâm hồn của họ và ý nghiã chiến lược: muốn
nhân dịp này để đo mức độ tình cảm của Đảng dành cho họ.
Sự trả lời của Đảng thật rõ ràng, tàn nhẫn, nhất là đối với Lê Đạt.
Tóm lại, dường như ở những nhà thơ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt,
Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi nhìn vị
lãnh tụ.
Trong khi những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh
Tường, Nguyễn Hữu Đang... phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì họ không
mấy lãng mạn mà nghiêng về lý trí.
● Quốc Dân Đảng
1- Trong bản "tự thú" Lê Đạt viết một câu đáng chú ý: "Đảng
đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay phản động của bọn Quốc
Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho tôi đi thực tế để cải
tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào quyền lợi cá nhân, tôi
trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp tư sản phản động và
làm người phát ngôn của chúng"[31].
2- Khi trả lời phỏng vấn Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:
"Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một người
là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ đội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy là gián
điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được ở
đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố. Thì vừa lúc
sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn"[32].
3- Truyện ngắn "Thế là… chị ơi!" của Vũ Ngọc
Tiến, đăng trên Talawas, gián tiếp viết về đời sống nhà thơ Trần Dần và bà Bùi
Thị Ngọc Khuê, vợ ông, đặc biệt có đoạn tả cái chết của ông Phán Hậu (ân nhân của
bà Khuê) như sau:
"Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh (...) . Song cái
án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh
Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc Dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa
cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói
ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng
chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm
nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ rằng “không thành công cũng thành nhân”.
Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh
hỡi, tiên sinh!...” Cái án oan ấy khiến anh đang đi công tác Cải cách ruộng đất
ở Thái Bình bị triệu hồi về giam lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng
dao lam trót lọt thì còn đâu những tác phẩm sau này anh viết cho người đời
chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"
Câu chuyện ông anh cả của Thuý Thuý, và ông Phán Hậu, ân nhân của
Ngọc Khuê, khơi lại chính sách thanh trừng những người có "liên quan"
với Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt phải tuyệt đối giấu quá khứ Quốc Dân Đảng
của mình. Trong NVGP, ba người có "liên quan" với Quốc Dân Đảng là
Phan Khôi, Thụy An và Lê Đạt, vì thế, một mối thâm tình liên kết họ với nhau:
- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan Khôi, với
những lời đầy ý nghiã: "Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt".
"Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân
Văn". Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng tỏ
Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như bạn đồng hành, Phan Khôi mới là thủ lãnh.
Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu không vì
Phan Khôi là người theo Quốc Dân Đảng, lý tưởng đầu đời của Lê Đạt?
- "Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián điệp", "Chị
Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt là thân với tôi". "Riêng
tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi". Tại
sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% Thụy An không phải gián điệp, nếu ông không biết rõ
hành động của Thụy An? Nếu họ không cùng một lý tưởng?
Câu "Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối với
tôi", có nhiều ý nghiã. Công gì? Thụy An có công với nhiều người,
công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ
khi Thụy An bị nạn cho đến khi chết, những bạn đồng hành không ai nói một lời
biện hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ "công" này
là một công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự
hàm ơn Thụy An, đã không "khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một
thành viên cũ của VNQDĐ.
Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt
Nam Hiện Đại[33] là: "Một
nhà văn tự trọng nên bận tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh" có
gì rất gần với lời Nguyễn Thái Học: "Không thành công thì thành
nhân".
● Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái
Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu
xa: Yên Thế, quê nội và Yên Bái, quê ngoại.
Yên Thế là đất của Đề Thám, triều Nguyễn thuộc phân Phủ Lạng
Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), có 2 mảnh đất lịch sử: tổng Nhã Nam và tổng
Yên Thế:
- Nhã Nam, nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã (1889), và
cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh thưởng (1913).
- Yên Thế, nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu trong hơn 20
năm, vị trí hiểm trở, "rừng thiêng nước độc", nằm giữa rặng Cai Kinh
(Lạng Sơn) và đồi núi Thái Nguyên.
Yên Thế, một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một can
trường chống Pháp thất bại:
Đất quê cha tôi
đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ
cha tôi dẫn đầu
lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau
vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám...
(Cha tôi)
Rồi người cha buông tay, bỏ cuộc, vì miếng cơm manh áo. Người
con, tiếp tục lên đường:
Cuộc sống hàng ngày
nhỏ nhen
tàn bạo
Rác rưởi gia đình
miếng cơm
manh áo
tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa
như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn
bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương
kiên quyết làm người.
(Cha tôi)
Bài Cha tôi sáng tác tháng 7/56, giữa Giai Phẩm
Mùa Xuân và Nhân Văn,trong thời kỳ phục xuống mà sáng tác theo
lời Văn Cao, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu của Lê Đạt, lấy đất
Yên Thế làm khởi điểm. Yên Thế được Lê Đạt công khai xác nhận, vì Yên Thế là tỉnh
cha, là đất của Đề Thám.
Ngược lại, Lê Đạt không thể công khai trình làng Yên Bái, quê
ngoại, bởi Yên Bái là quê hương Quốc Dân Đảng.
Yên Bái có pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học
và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới lên một. Yên Bái là đất
sinh, Yên Bái là Tỉnh mẹ. Yên Bái, hơn là một nơi chôn rau cắt rốn,
đã trụ lại như cái mốc đầu đời, là khởi điểm của cõi viết Lê Đạt và nẩy mầm ý
chí cách mạng vùng lên chống Pháp.
Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ: Yên Bái. Tập thơ Tỉnh
mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của Lê Đạt, âm thầm dành cho Yên Bái chỗ đứng
thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹ, in
trong phần di cảo củaĐường chữ, tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị
thất lạc đã 40 năm. Không một bài thơ nào có ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng
không hề nhắc đến Tỉnh mẹ khi còn sống. Vậy Tỉnh mẹ có thật
sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch thu", sau này mới được trả lại? Tỉnh
mẹ bị tịch thu, hay vì Yên Bái là một "liên quan" thầm
kín mà tác giả cần phải giấu đi? Cũng như, về nơi sinh, Lê Đạt chỉ ghi Âu Lâu,
trên bờ sông Hồng, không dám nhắc đến tên Yên Bái?
Tỉnh mẹ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên,
nguồn gốc quốc dân đảng. Thơ làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng
thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt
là sự gắn bó với Yên Bái, như cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền
trạm của lòng yêu nước, như một ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập
thân, khởi đi từ Yên Bái. Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một "người hàng
xóm", "người chị", và cũng là "người yêu", bị con trai
quan phủ làm nhục, bị xóm làng hắt hủi:
Đêm ấy
chị ra sông tự tử
Theo những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo trắng
như buồm mộng
về một chân
trời nào
cao rộng
thăm thẳm
xa [34]
Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo đường,
bèn hỏi Chúa có thấy không?
Chúa về tự bao giờ
Có phải thật Người không?
Tiếng chuông
lu loa
hối hả
giục
người bõ già
Quét
chiếc xác
nằm co quắp
Chết
giữa ngày Phục sinh [35]
Từ Yên Bái, nhà thơ thấy một người anh, ban đầu có "chí lớn",
rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ đời: Người
anh không sống trong thời Pháp thuộc mà đang ở thời cách mạng:
"Trong khoảnh khắc
đối diện cùng sự thật
Sởn tóc gáy
như kẻ sát nhân
đột nhiên
thấy
người mình thủ tiêu
lững thững
hiện theo về
đối chất.
"Anh có thể lừa
cha mẹ
vợ
con
lừa cả nước
Nhưng thế nào
cũng có lần
anh phải
lôi ra
trước vành móng ngựa bản thân anh"[36]
Yên Bái, một xã hội Việt Nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:
Yên Bái
dăm cô gái
lỡ thì
thổn thức
Nhất Linh
tay
Loan Dũng
lên ô kính bụi
Chơ chỏng
mấy con búp bê
gẫy cẳng
bạc màu
Yên Bái
một phố chiều
thượng du nắng lụi
Một con đường
rơm rớm
máu rơi
Đôi vợ chồng già
không con
nhìn bóng tối
Ôm con mèo gầy
nhức nhối
chuyện ngày xưa
Yên Bái
hôm nào
cũng ra ga
Hôm nào
cũng nhỡ tàu
ở lại
Với những tiếng còi
rứt ruột
gọi đi
Và một chân trời
nhêu nhếch
khói (...)
Yên Bái
những ngày trích lục nhau
sao thành nhiều bản (...)
Yên Bái
một quê hương vỡ nợ (...)
Một ngã ba thành năm sáu ngã ba [37].
Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ tội
đã trót đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời kháng
chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê
hương, dân tộc:
Yên Bái
chỉ để lại
trong tôi
những kỷ niệm
nhạt
như nước ốc
Sao hôm nay
khi tiêu thổ quê hương
tôi bỗng khóc (...)
Yên Bái ơi!
Cố sống
lấy thêm
dăm ngày nữa (...)
Hôm nay
ta đánh vỡ
quê hương
Đánh vỡ
từng viên gạch
tổ tiên ta
cóp nhặt (...)
Quê hương ơi!
Ta không phải
kẻ ăn tàn phá hại
Vén tay áo xô
đốt gia tài
ông cha để lại...[38]
Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc đi
vào tan nát, khổ đau:
"Ôi! Những ngày đầu
quê hương tan nát lửa
Như đàn cò
vỡ tổ
bế nhau đi
Đằng trước một chân trời sẹo đạn
Đằng xa
thông thống một đường về
Ta đã
chọn
đường
đi về phía trước
Chân chảy máu
nạng vào nhau ta bước
Điểm chỉ
trên khắp mọi ngả đường
Trong bản giao kèo
ta ký
với tương lai [39]
Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:
Bà mẹ Âu Lâu
ngồi
như gốc mai nở trắng
giữa đàn con
đủ
các giống người
Thằng cả
Xa lum
người Xê nê gan
làm mỏ than Ma rốc
Vào hầm than
đen
như thấy dân tộc mình
mấy
ngàn đời
vùi
dập
chết
ở đây
Tan tầm về
ra bờ sông nước trong
rửa mặt
Rửa xong
nhìn
mặt vẫn nhọ than
Thằng hai
Ma Hô Mét
Công nhân bốc vác
An Giê
Gù gù
lưng cánh phản
Ngày ngày
khuân tổ quốc
xuống tàu buôn...[40]
Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca thời
ấy, Mẹ là bài thơ phản chiến, nhân bản nhất trong văn chương Việt Nam
thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến,
"dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy "tội"
của Lê Đạt phải là rất nặng, nặng từ trườc thời kỳ NVGP.
● Nhân Văn Giai Phẩm
Xuân Diệu lên giọng: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai
Phẩm Mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là
nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: "Trích
thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới"
đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham
mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc
(...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm "nhà
lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm, Lê Đạt
liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn
Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn
luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần
thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta
phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất
giai cấp thù địch"[41].
Lê Đạt không chối cãi vai trò chủ chốt của mình trong bài tự kiểm
thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của
tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm có
4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm vô
sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp
ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân Văn
bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một
thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp
nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán"[42].
Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên Người
Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất và chống
đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có: Thế giới này là
của chúng ta (phát hành tháng 12/1955). Bài thơ trên ghế đá (nxb
Hội Nhà Văn, 1957). Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai
trừ khỏi đảng, tháng 7/1957). Đụng long mạch (in trên Tự Do Diễn
Đàn, tháng12/56, báo bị cấm). Lê Đạt còn nói đến bút ký "Vào
21", viết về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất
lạc ở đâu.
Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống.
Nhưng thơ bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Nếu muốn tìm hiểu thực chất của
xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những tác phẩm này, không
chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị chôn vùi. Những
tác phẩm viết trong tù của Thụy An, có lẽ ở Sài Gòn, gia đình các em, hoặc bạn
bà là Trinh Tiên -tên thật là Trinh Nữ, chồng là Bửu Đảo- còn giữ.
Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng ta
có thể biết được nội dung một số thơ Lê Đạt sáng tác trong thời kỳ NVGP, đã bị
cấm. Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu "dưới sự lũng
đoạn của Hoàng Cầm"nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này năm 1957,
sau khi Nhân Văn bị đóng cửa. Vẫn theo Xuân Diệu, tác phẩm này "là cả
một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối", "anh
ta [Lê Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế độ", bài "Đu"
là "một sự khiêu khích". Bài "Gia đình", với
những câu như: "Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình
yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn
ra và cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một điệu hưởng
lạc, chết lịm trong tình yêu".
Vẫn theo Xuân Diệu, trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản
còn có bài"Trong hầm bí mật", nhưng không in, bài này rất tiêu biểu
cho cái triết lý "máu, sướng và chết" của Lê Đạt. Xuân Diệu
viết tiếp:
"Bài thơ trên ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng.
Cho Đảng là phao phí nhân tài (Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ
cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa
bắc qua được một lòng người".
"Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng
sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn-Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản
phản động mới bắc được cầu"[43].
Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội
dung bài Đụng long mạch, in trên Tự Do Diễn Đàn, tháng 12/56, báo bị
cấm:
"Trong bài thơ "Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng
lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng
nhưng vì sợ bị "đụng long mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau
có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào
giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun
loang loáng", và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn
khắp nơi.
(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những "anh
hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã "dám cả gan đánh bốc
với những già nua cũ kỹ của cuộc đời". Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực
rằng:
"Những con người ụ
Ềnh ra cản đường"
Và Lê Đạt hô hào:
"Cần biết bao nhiêu
Những cái đầu táo bạo
Dám nghĩ, dám làm
Không nô lệ chung quanh"
(...) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:
..."lưng con rồng,
Ai đào giếng đụng vào long mạch
Thì phải tội mù hai con mắt
Cả nhà hộc máu chết tươi"
Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:
"Long mạch này mà đứt
Cả nhà không thoát một người"
hoặc:
"Long mạch hôm nay rung chuyển
Phen này rồi chết cả nhà"[44].
Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà
thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị trên
đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ
nguyên mới cho đường chữ.
Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch sử:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời.
Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối
đau thương:
Vũ trụ ơi
tha cho tôi
Tất cả những gì
thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở
mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn
màn đóng lại mục đời.
[1] Trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ,
nxb Hội Nhà Văn, 2009.
[2] Theo Hoàng Cầm là Trường Luật, nhưng
học ít lâu thì trường Luật bị giải tán.
[3] Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong
tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.
[4] Vào thành.
[5] Năm 1954, Nguyễn Hữu Đang 41 tuổi,
Hoàng Cầm 32, Văn Cao 31, Trần Dần 28, Lê Đạt 25 tuổi.
[6] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn
bè.
[7] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn
bè.
[8] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước
đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80.
[9] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện
vói bạn bè.
[10] nxb Hội Nhà Văn, 1994.
[11] Theo Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng
(1924-1990) để lại 6 tập thơ, phần lớn chưa xuất bản. Chúng tôi chỉ thấy Bến
lạ(1991) và Ô mai (1991) và đã giới thiệu hai tác phẩm khai phá
này trong cuốn Cấu Trúc Thơ, Văn Nghệ, 1995.
[12] Tức Tố Hữu.
[13] Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi
trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas.
[14] Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường
Vân phỏng vấn tháng 1/2003, BBC Việt Ngữ 6/5/2008.
[15] Cải Cách Ruộng Đất.
[16] Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn,
Văn Nghệ Cali, 2001, trang 87.
[17] Thực ra là ba tháng.
[18] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện
với bạn bè.
[19] Nhạc sĩ Đặng Thái Sơn, con của hai
người sinh năm 1957.
[20] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn
bè.
[21] Những chuyện về Hoàng Cầm, Trần Dần,
Tử Phác, Đặng Đình Hưng, bà Nhất, bà Yến, bà Thao trên đây, theo băng HC
nói chuyện với bạn bè.
[22] Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường
Vân, bài dã dẫn.
[23] Vợ tác giả là diễn viên kịch nói ở
nhà tập thể đoàn Kịch phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (Chú thích Lê Đạt).
[24] Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu
tranh chống NVGP (chú thích Lê Đạt).
[25] Đào Phương Liên, Bố ơi, những
câu chuyện của con..., Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009.
[26] Một phần trích in trong Văn học
VN sau cách mạng tháng Tám, Văn Học, Hà Nội 1992.
[27] Sđd, trang 132.
[28] Nhà xuất bản Thanh Niên, 1990, nhân
ngày kỷ niệm 100 năm sinh HCM.
[29] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[30] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn
bè.
[31] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước
đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80.
[32] Lê Đạt trả lời Phạm Tường Vân, bđd.
[33] Nxb Hội Nhà Văn, 2007.
[34] Thơ ngây, Tỉnh mẹ, Đường chữ,
trang 298.
[41] Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản
trong thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13 tháng 6/58, in lại trong tậpDao có mài mới
sắc của Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87, 89 và 95.
[44] Xuân Hoàng, Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ
Lê Đạt, Văn Nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72.
No comments:
Post a Comment