Về một số ý kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về
nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958.
Kính gởi: các
cơ quan truyền thông BBC, VOA, RFA… về những bài trích dẫn, hay những bài có
liên quan đến chủ đề.
Kính gởi: Quí
học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, học giả Lưu Văn Lợi,
Tiến sĩ Balazs Szalontai, Thạc sĩ Hoàng Việt, Nhóm phóng viên Biển Đông… vì
những ý kiến trích dẫn.
Kính gởi: “các
Nhân sĩ , Trí thức”, tác giả thư ngỏ “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi
Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN” vì ý kiến trích dẫn.
Kính gởi, đồng thời cám ơn, các trang báo Dân Luận, Đàn Chim Việt…
những trang báo đã tạo điều kiện cho một “tiếng nói khác” có cơ hội được bày tỏ
chính kiến của mình.
Công hàm ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng là tài
liệu quan trọng nhứt của phía TQ đưa ra nhằm chứng minh VN đã công nhận chủ
quyền của nước này tại HS và TS.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải quốc
gia. Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:
Điều 1: Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên
toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và
các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì
không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả
HS và TS.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau:
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau:
«Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành
bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa trên mặt bể. »
1/ Công hàm 1958 là một «tuyên bố đơn phương»:
Nhiều người gọi «công hàm» 1958 của Phạm Văn Đồng là «lá thư»
của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai, với hy vọng làm giảm thiểu tính quan trọng
của văn bản. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên
quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lý hay không?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc
gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên
tắc Hướng dẫn) có nội dung:
Des déclarations formulées publiquement et manifestant la
volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations
juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le
caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États
intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à
exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch: Những tuyên bố phát biểu một
cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác
dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng
buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể
xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải
được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par
écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn:
2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques
par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch: Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc
pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có
thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là
bị «ràng buộc» về những điều gì?
2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp
nhân
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay
nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông
Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn «Le Vietnam et ses différends
maritimes dans la mer de Biển Đông » nói về việc này như sau:
La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation
explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La
portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une
souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la
compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée
Nationale de Viet Nam
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng không
hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này
cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông
này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền
thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp
nhân, ý kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều
4 của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ
tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố.
Nguyên văn điều 4:
4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement
l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu
de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres
des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations.
D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent
être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières
relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau: một tuyên bố đơn phương chỉ
ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát
xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng
của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có
quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia
trong những lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn
đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm
quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng
là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để
ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên
bố.
Trường hợp tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về các đảo Pedra
Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan
trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lý Quốc tế (CIJ)
vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.
Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được
chủ quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc
Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor
nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lãnh thổ bao
gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách
Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850,
vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã không hành sử chủ quyền của họ
tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm
1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả
lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng
lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca
«không thuộc chủ quyền Johor». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng
kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề «lãnh thổ». Nhưng tòa đã bác
lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố về lãnh thổ
mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công
hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là
ý kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận
của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ
nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường
hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền
lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch
sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có
những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự «đồng thuận –
acquiescement», các hành vi này được xem là tự nguyện «từ bỏ chủ quyền», VN có
thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý nói rằng vấn đề chủ
quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lãnh thổ đó
còn quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn
phương mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt
lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ
Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie
đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền
chính thức của Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với
tinh thần hiến pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về
phạm vi lãnh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc
gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu
lực của tuyên bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được
thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình,
nhưng vùng lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của
Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo
hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến
chủ quyền lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ
ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một
kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến
của TS Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều
hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng, đã nói ở trên, không phải là
một « tuyên bố về lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước
VNDCCH. Nếu văn bản có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ thì tuyên bố này vi hiến.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước
hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ
quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân
đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản
và bề rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ
tại vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây
Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở
điều 1 và điều 2.
Bối cảnh bản tuyên bố của TQ, sẽ nói rõ hơn ở phần dưới, cũng
như tuyên bố của nhiều nước khác cận biển trong cùng thời kỳ, được thể hiện sau
khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm :
Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công
ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về
thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời
điểm giới hạn là 31-10-1958. Một Nghị định thư không bắt buộc về thể thức giải
quyết tranh chấp cũng được thông qua. Vì không phải là một thành viên của LHQ,
tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh
hải và vùng tiếp cận. Ta thấy tuyên bố bề rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ hoàn
toàn phù hợp với Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của
TQ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc này không
cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố
của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với
tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ
thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu
VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội
dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố
về « lãnh thổ ». Vì vậy tuyên bố này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi
ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn
có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một
văn bản «hành chánh» thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi)
thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia
nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối
của luật pháp quốc tế. Mà luật quốc tế có giá trị «cao» hơn luật quốc gia.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn
giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao
Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền
quần đảo Los Monjes. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo
Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc
gia khác, hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương »
là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của
hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một
hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.
4/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật
quốc tế.
Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố
của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm
luật quốc tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về
Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme
impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương
mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.
Như đã nói ở phần 2, tuyên bố về hải phận của TQ là một tuyên bố
đơn phương. Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không
có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và
Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường
cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn
trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển
để làm điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập
quán này đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về
đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không
có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay
VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể thay đổi để phù hợp với Luật
biển 1982.
Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có
giá trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.
5/ Nội dung Công hàm 1958:
Đây mới là điều quan trọng nhứt để bàn cãi. VN có thể bị ràng
buộc pháp lý ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour
l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute
sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci
doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des
engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la
déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a
été formulée.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương
chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên
bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ
cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để
giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của
tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau giới hạn hiệu lực của công hàm
1958 ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau:
«La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est
vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est
donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi «réaffirmé sa
reconnaissance de la prétention chinois» sur les archipels ».
Tạm dịch: Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn
nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam «tái xác định việc công
nhận chủ quyền của Trung Quốc» ở các quần đảo là điều không đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao cũng có cái nhìn tương tự, công hàm chỉ nhằm
mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về
chính trị hơn là pháp lý:
La note exprimant un engagement plus politique que juridique,
une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur
solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans
l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư biểu lộ một sự liên kết
về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong
khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt
ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Ông Lưu Văn Lợi cũng viết tương tự:
«Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng
người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải
phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
phải tôn trọng quy định 12 hải lý.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì
đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công
nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc?»
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC, ta cũng
tìm thấy ý nghĩa khá giống như vậy:
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một
tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải
lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù
tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm
Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc
Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội
dung văn bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái
gì) thì việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế.
Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi
và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn: Đoạn 1 «ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc». Đoạn 2: chỉ thị cho các cơ quan nhà
nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn
thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên
bố khẳng định chủ quyền về lãnh thổ.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công
hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute” trên Far
Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên
nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông
Nguyễn Mạnh Cầm:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải
12 hải lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn
Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn
Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận
chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là
“thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý,
việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique
Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs
Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần
đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội
dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS
dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên
báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này
cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Và đó cũng
là mục đích của công hàm 1958.
Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết:
«Néanmoins, son silent devant l’affirmation de souveraineté
chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela
autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat
et les articles du Nhan Dan.»
Tạm dịch: dầu vậy, sự im lặng (của nhà
nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể
được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố
liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả
Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS
do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique
Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta không thể cho cái mà
người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là
duy nhứt. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai chính phủ khác nhau về ý
thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một.
Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý thì có thể tuyên bố
chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì, HS và TS thuộc bên
nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương
một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh thổ khác biệt, đều
có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù phần lãnh thổ này do
bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Học giả Greg Austin, trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ý
kiến:
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of
DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most
conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC
territorial sea declaration. The note was a government to government
communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia,
the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim
but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ
đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc
trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm
của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH. Công hàm này
là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là
chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đã
không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
Nhấn mạnh ở câu: Nước VNDCCH không những đã không phản kháng
tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
6/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến
tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ
là “đồng chí, anh em” trong khối xã hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện
công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đã dẫn, viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de
la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte
contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose,
qui menacait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement
plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays
socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet
précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles
marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục
đích nhằm thỏa mãn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ
TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở
eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu
lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã
được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư
có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển
Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của
Trung Quốc là thời điểm “có nhiều chuyển biến phức tạp
và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp
quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài
Loan”.
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là “đơn giản chỉ
là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”, tức “chỉ là những tuyên bố mang tính chính
trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý”.
Trên VOA, có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt:
Trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm
Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là
anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn
tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả
lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số
lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước
tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ «vì hoàn cảnh»
mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi vì ai gây
chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là tình
huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng sẽ không
phải «nói như vậy». Tức đã không ký công hàm, đã không nhượng trên giấy tờ chủ
quyền HS và TS cho TQ.
Nhà báo Frank Ching nhận xét lời giải thích này như sau:
Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả
mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong
thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó
bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.\
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS
Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố
của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc,
mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về
cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng
Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh
đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về
Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và
vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo
toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc
gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là
31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần
thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến
Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ
thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong
các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công
ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp
này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.
Như thế, việc dựa vào các lý do «hoàn cảnh» này kia, tình đồng
chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công
hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không
thuyết phục.
«Hoàn cảnh» đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển,
đòi hỏi VN phải có «ý kiến» về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy
nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lãnh
thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng thuộc về quốc gia VN duy
nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của mình ở HS và TS, VNDCCH
lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh «tình trạng chiến tranh», nhưng bên gây chiến
là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không hiện
hữu.
Vịn vào lý do «đồng chí anh em» lại càng không thuyết phục. Trên
quan điểm quốc tế công pháp, tình «đồng chí anh em» chưa bao giờ được một bên
tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại”
bình thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không
chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của
Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen, về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland
ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch.
Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm
đến vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy
hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn
được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông
hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng: «the Norwegian
Government would not make any difficulties in the settlement of this question».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm
một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra
Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân giải thì « lời nói » của ông Ihlen
được tòa nhìn nhận là một « tuyên bố đơn phương», có hiệu lực ràng buộc
pháp lý. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật
quốc tế, được đặt tên là «Tuyên bố Ihlen».
Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp «lời nói» của ông
Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức
ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán
sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS
thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo
sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing
Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không
thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».
7/ Biết địch biết ta.
Trăm trận trăm thắng. Tuy nhiên, phía VN hình như rất dị ứng khi
có người nhắc đến công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Những người nào bàn luận
đến chủ đề này đều bị chụp mũ nếu không là Việt gian thì cũng là “Tàu”. Nhưng
quyền lợi của đất nước cao hơn tự ái, danh vọng và quyền lợi cá nhân. Vấn đề
công hàm 1958 là chuyện “của ta”. Chuyện của mình thì mình phải bàn luận tới.
Khi viết gần xong bài này thì đọc được “Thư ngỏ của các nhân sĩ,
trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN”. Thư ngỏ có đoạn:
Nhà nước ta cần chủ động giải thích trước toàn dân và dư luận
thế giới bối cảnh ra đời, nội dung thực chất và giá trị pháp lý của công hàm mà
Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 về Biển Đông, để bác
bỏ dứt khoát mọi xuyên tạc từ phía Trung Quốc.
Đã viết ở trên, công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản
thuộc phạm trù quốc tế chứ không phải là một văn bản hành chánh thuộc phạm trù
quốc gia. Nhà nước có thể giải thích nội dung văn bản này theo ý của mình, nhằm
xoa dịu dư luận người dân, như khuyến cáo của nhóm “nhân sĩ, trí thức” tác giả
của thư ngỏ. Nhưng đây chỉ là một “liều thuốc an thần” như nhiều liều thuốc an
thần khác trong quá khứ mà nhiều học giả khác đã hướng dẫn cho lãnh đạo CSVN.
Nó không có ảnh hưởng gì đến hiệu lực của văn bản này trước luật lệ quốc tế.
Trường hợp của nhà nước Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes là một thí dụ
để mọi người nghiên cứu.
Chính phủ Hoa Kỳ ngày 3 tháng 8 vừa qua ra thông cáo báo chí về biển Đông, trong đó có đoạn đề cập đến khả năng giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài hay bằng một định chế pháp lý quốc tế:
We believe that claimants should explore every diplomatic or
other peaceful avenue for resolution, including the use of arbitration or other
international legal mechanisms as needed.
Các bản tiếng Việt thông cáo này đăng tải trong nước đều không
dịch đoạn dẫn trên. Thái độ im lặng từ nhiều thập niên nay của nhà nước CSVN về
khả năng giải quyết tranh chấp với TQ bằng một trọng tài quốc tế cho ta biết
lập trường của VN: không giải quyết bằng trọng tài quốc tế. Nguyên nhân ra sao
độc giả tự đoán.
Đề nghị của Hoa Kỳ là một cơ hội mà VN cần nắm lấy. Quyết định
nắm lấy hay không thuộc về lãnh đạo CSVN nhưng cũng do khuyến cáo, áp lực của
người dân trong nước, mà thành phần trí thức là tiêu biểu đi đầu.
Thất vọng biết bao nhiêu, không có một dòng nào trong thư ngỏ đề
nghị giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế:
Chúng ta kiên trì giải quyết tranh chấp với Trung Quốc bằng
phương pháp hòa bình, tuân theo luật pháp quốc tế. Chúng ta tôn trọng lợi ích
chính đáng của các quốc gia khác ven Biển Đông, cùng nhau thỏa thuận giải quyết
những vướng mắc về chủ quyền trên biển, đặc biệt là đối với các đảo, bãi đá
cùng với lãnh hải bao quanh theo đúng Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển.
Rõ ràng đây là việc “copy – paste » từ văn bản của nhà nước
CSVN. Nếu không nói quá, đó cũng là luận điệu của phía TQ. Phía nào cũng nói
giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, theo luật quốc tế, theo công
ước LHQ về Biển…
Các bên nói cùng một luận điệu nhưng nền tảng lý lẽ mỗi bên mỗi
khác. VN nói mình có chủ quyền ở HS và TS. TQ cũng nói y như vậy. Ai cũng
khoanh vùng biển (theo qui định của Luật quốc tế về Biển) theo cách diễn giải
của mình. Vấn đề cốt lõi là: nước nào có chủ quyền ở các đảo nào ? Đề nghị của
Hoa Kỳ đúng là một cái phao cho các nước nhỏ như VN nắm lấy. Vì TQ là bên có
sức mạnh, họ có lý lẽ của họ, họ có thể dùng vũ lực để áp đặt ý muốn của họ cho
các nước tranh chấp.
Nhóm học giả, trí thức tác giả lá thư ngỏ không có một ý kiến
nào mới hay đề nghị một phương pháp nào khả thi giải quyết vấn đề tranh chấp.
Đề nghị “giải thích” lại công hàm 1958 không phải là một giải pháp, các viên
chức CSVN đã từng giải thích ý nghĩa công hàm này, ông Phạm Văn Đồng và ông
Nguyễn Mạnh Cầm là các thí dụ.
VN không có con đường nào khác là phải đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử. Đây là con đường mà VN có nhiều hy vọng nhứt để thắng, nếu biết cách hóa giải những ràng buộc pháp lý những hứa hẹn trước đây đã cam kết với TQ. Tôi đã đề nghị một giải pháp “kế thừa danh nghĩa VNCH” để hóa giải các hứa hẹn này trong các bài trước.
Vấn đề bảo vệ đất nước, nếu đi theo phương pháp này, đơn giản
trở thành việc dân chủ hóa VN. Có bạn phàn nàn tôi vì sao cứ viết chủ quyền
biển đảo mà không tranh đấu cho nhân quyền. Thực ra mục tiêu chính của đề nghị
giải quyết chủ quyền biển, đảo của tôi cốt lõi là vấn đề “nhân quyền”. Dân chủ
thực ra chỉ là cách nói khác của nhân quyền.
Nếu “án binh bất động” và tiếp tục “uống thuốc an thần” của các
học giả “bốc” cho, VN chắc chắn sẽ bước vào xung đột vũ trang với TQ. Xương máu
VN đã đổ quá nhiều cho lý thuyết không tưởng, cho những sự bịp bợm, cho những
huyền thoại láo khóet trong quá khứ. Nhân dân VN không thể đổ máu thêm lần này
nữa, nói là “giữ nước”, nhưng thực ra để giữ “thể diện” cho đảng CSVN. Giữ nước
có nhiều cách để giữ, không tốn xương máu, chỉ cần trí tuệ và lòng can đảm.
© Trương Nhân Tuấn
No comments:
Post a Comment