Đặng Chí Hùng Để nối tiếp chuỗi bài về những sự thật không thể chối bỏ, tôi xin
trình bày về các vấn đề: Có hay không công hàm 1958, công hàm đó có phải
là công hàm bán nước hay không và vai trò của ông Hồ Chí Minh trong
công hàm bán nước 1958 cho Trung cộng. Từ trước đến giờ chúng ta luôn
coi nó là tác phẩm của ông Phạm Văn Đồng. Nhưng sự thực có phải thế
không. Vấn đề này không mới nhưng nó được chứng minh theo hướng mới và
quan trọng hơn là vai trò của ông Hồ trong sự kiện này. Tôi xin trình
bày dưới bài viết này.
A. Sự thật về công hàm 1958:
1. Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng
Chu Ân Lai tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này
được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân
Dân. Đây là các links dẫn chứng về tuyên bố này của Trung cộng:
- Bản tiếng Trung: http://www.law.hku.hk/conlawhk/sourcebook/10032.htm
- Bản tiếng Anh: http://www.law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như sau:
Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:
Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa)
Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân
dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của
chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)
Quyết nghị
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên
thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết
định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa
Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ
nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với
duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách
đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần
đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.
* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và
duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc
ven bờ làm đường biên cơ sở, thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra
ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên
cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực
Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên
cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã
Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm,
đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng
của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh
hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc,
phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa.
* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3
áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của
khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần
đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải
đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ
dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự
toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và
Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung
Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích
đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc,
không cho phép ngoại quốc can thiệp.
(Chú ý ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam)
Nội dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng.
Tôi xin nêu ra đây một minh chứng bản dịch này là chính xác vì vấn đề
chính trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đã được tờ
Đại Đoàn Kết (Báo của trung ương đảng cộng sản Việt Nam công nhận). Đây
là links của bài báo đó trên tờ Báo Đất Việt(Chi nhánh của BQP cộng
sản):
Trong bài viết của báo Đại Đoàn Kết có đoạn: Theo lý giải của Trung
Quốc, ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên
bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý
kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần
đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Kết luận 1: Trung quốc rõ ràng đã
tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của Chu Ân Lai.Cả dư
luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công nhận.
2. Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng:
Ngay sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS- TS là của họ thì ông
Phạm Văn Đồng lúc đó là thủ tướng Việt Nam Dân Chủ cộng hòa (VNDCCH)
tiến hành việc đưa ra công hàm ký ngày 14/9/1958. Công hàm này có bản
photocopy như sau:
Công hàm này ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời
điểm đó đưa tin (Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản
Việt Nam). Đây là hình ảnh của Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này:
và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, ông Nguyễn Khang, Đại sứ nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng
Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công
hàm của ông Phạm Văn Đồng đến ông Chu Ân Lai.
Trước đó, năm 1956, ông Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao
TQ, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán
Trung Quốc tại Việt Nam: chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về
TQ.
Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: Theo sử
liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí
Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".
Năm 1977 cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông về công hàm này như sau: "đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi".
Sau đó ông Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một
cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: “Các
nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy
là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả
lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam,
kể cả hai quần đảo này."
Kết luận 2: Căn cứ vào nội dung đưa
tin của tờ báo chính thức của đảng cộng sản Việt Nam, và những gì nội
dung đọc được trên công văn chính thức của ông Phạm Văn Đồng thì có thể
kết luận. Những gì ông Đồng công nhận tuyên bố HS- TS của Trung cộng là
có thật. Đây hoàn toàn là thông tin từ cơ quan của đảng cộng sản Việt
Nam tuyên bố.
3. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam lúc đó:
Trong thời điểm Trung cộng tuyên bố chủ quyền của mình tại HS-TS (vốn
của Việt Nam) thì nước Việt chúng ta chia làm hai. Miền Bắc là Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) theo đường lối cộng sản độc tài. Miền Nam là
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) theo đường lối dân chủ tự do. Lúc này các hòn
đảo HS-TS đang thuộc quyền kiểm soát của VNCH. Chúng ta phải nhìn nhận
rằng dù là VNCH hay VNDCCH nắm giữ đều có một điểm là: HS-TS là của Việt
Nam. Nó chưa bao giờ là chủ quyền của Trung cộng.
Thời điểm này, miền nam đang tiến hành chính sách “Người cày có ruộng”
và phát triển kinh tế của tổng thống Ngô Đình Diệm. Miền bắc cũng tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Cộng.
Ngoài ra chính phủ VNDCCH dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản
đang muốn tranh thủ sự hậu thuẫn từ LX, TC để tiến hành chiến tranh với
VNCH.
Điểm chính ở đây là cả công bố của phía Trung cộng và công hàm của ông
Phạm Văn Đồng đều diễn ra sau khi VNCH tiến hành công bố tái xác lập về
chủ quyền của VNCH tại HS-TS. Tuyên bố chủ quyền của VNCH diễn ra vào
tháng 4 năm 1956. Như vậy VNCH đã tiếp bước các tiền nhân giữ đất biển
bao đời của Việt Nam và tuân thủ việc công khai chủ quyền sau hiệp định
Geneve 1954. Đảng cộng sản Việt nam đã không vì lợi ích của dân tộc mà 2
năm sau đó, công khai ủng hộ kẻ thù cướp đoạt trái phép lãnh thổ Việt
Nam. VNCH chỉ chịu mất chủ quyền trên đảo HS năm 1974 sau trận hải chiến
mà ai trong chúng ta cũng biết về người anh hùng Ngụy Văn Thà. Sự kiện
này tôi xin không cần nhắc lại. Tôi xin cung cấp thêm về tài liệu của
phía bộ ngoại giao VNCH phản đối công khai việc làm phi pháp của Trung
cộng:
4. Kết luận chung về sự kiện này:
Tôi xin nêu lên quan điểm chứng minh rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là công hàm phi pháp và bán nước.
Qua kết luận 1 và kết luận 2 chúng ta thấy một điều hiển nhiên. Trung
cộng tuyên bố sai phạm về chủ quyền của mình tại HS- TS. Ông Phạm Văn
Đồng là thủ tướng VNDCCH lúc đó đã không những phản đối mà lại công nhận
điều tuyên bố sai phạm là đúng. Như vậy đã tiếp tay cho kẻ thù xâm phạm
chủ quyền Việt Nam. Đây là công hàm bán nước.
Ngoài ra, tôi xin chứng minh các luận điệu biện hộ của phía đảng cộng
sản Việt Nam sau khi bị lộ tẩy công văn này là càng sai trái và ngoan
cố.
Đầu tiên, Trên trang chủ Biendong.net (trang của chính phủ và những người cộng sản Việt Nam) có bài (Links: http://biendong.net/binh-luan/236-v-cai-gi-la-ong-phm-vn-ng-a-chi-b-ch-quyn-i-vi-hai-qun-o-hoang-sa-va-trng-sa.html). Trong đó có đoạn: Công
hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng có hai nội dung hết sức đơn giản và rõ
ràng, đó là ông Phạm Văn Đồng ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở
rộng lãnh hải ra 12 hải lý và chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng
giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong công hàm của ông Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập
đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như
Chu Ân Lai đã nêu.
Do vậy, chỉ xét về câu chữ thôi cũng dễ dàng nhận thấy rằng mọi suy
diễn cho rằng ông Phạm Văn Đồng đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt
Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là
xuyên tạc và không có cơ sở pháp lý.
Bài này viện ra lý do việc ông Đồng chỉ công nhận 12 hải lý chứ không
nêu rõ việc HS-TS là của Trung cộng. Tôi xin đưa ra luận giải như sau.
Đúng là về câu chữ không có HS-TS của Trung quốc trong công hàm của ông
Phạm Văn Đồng. Nhưng tại sao chính phủ VNDCCH không phản đối nội dung
tuyên bố của phía Trung Cộng? Trong công hàm ghi rõ “ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hòa
Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc."
Về nguyên tắc công văn cấp nhà nước không thể có sự nhập nhèm đúng và
sai, nhất là vấn đề lãnh thổ. Vậy khi tuyên bố của đối phương bao gồm cả
phần đất của mình, không lý nào đảng cộng sản và chính phủ VNDCCH lại
không biết. Và cũng không thể trả lời mập mờ như thế.
Vấn đề tôi xin nêu ở đây. Nếu là chủ trương bán nước thì đã quá rõ. Còn
nếu biện hộ là tuyên bố chung chung thì cũng không thể được vì một chính
phủ làm việc lại vô trách nhiệm ra những tuyên bố sai trái như vậy cũng
hoàn toàn không thể vô can. Dù là cố tình hay “Vô ý” như cách lý giải
của đảng cộng sản hiện nay cũng có tội với dân tộc.
Thứ hai, có một số ý kiến nói công hàm 1958 không được quốc hội Việt Nam thông qua.Trên biendong.net có đoạn: Sự
thực là công hàm nêu trên của Phạm Văn Đồng không được đưa ra để Quốc
hội Việt Nam xem xét thông qua. Cho tới nay Trung Quốc cũng không đưa ra
được bất kỳ chứng cứ gì minh chứng là Công hàm của Phạm Văn Đồng đã
được Quốc hội Việt Nam thông qua.
Nếu viện lý do này thì chúng ta thấy rằng ông Phạm Văn Đồng đã vi hiến
và quốc hội do đảng cộng sản dựng lên cũng vô trách nhiệm. Lý do này có
thể chấp nhận việc không qua quốc hội là đúng vì thực ra quốc hội VN là
của cộng sản. Các đại biểu quốc hội là nghị gật nên việc không thông qua
không phải là vô lý. Việc Một thủ tướng vi hiến, một quốc hội vô trách
nhiệm với đất đai của tổ quốc cũng là có tội với dân tộc, bán nước. Vì
đây là vấn đề đất đai biển đảo quan trọng. Không cho phép bất cứ cá nhân
nào làm việc như vậy.
Thứ ba, Có ý kiến biện luận rằng lúc đó 2 đảo HS-TS là chủ quyền
của VNCH chứ không phải của VNDCCH nên tuyên bố của ông Đồng không có gì
sai. Trong bài báo của đại đoàn kết có viết:
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo
Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam
vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH).
Về lý do này chúng ta lại thấy sự sai trái của phía đảng cộng sản Việt
Nam. Ở đây dù là đất của VNCH hay VNDCCH đều là phần đất của lãnh thổ
Việt Nam. Như vậy dù nó có quản lý dưới tay ai cũng vẫn là của người
Việt Nam chứ không phải của Trung cộng.
Đảng cộng sản tuyên bố chiến tranh với miền nam là để giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Việc thống nhất này bao gồm cả việc lấy đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Vậy thì tại sao họ đã nghĩ được phần đất miền nam
là của Việt Nam thống nhất, sao lại không nghĩ chủ quyền của Việt Nam
bao gồm cả HS-TS. Chỉ có một lý do duy nhất đó là HS-TS là của Trung
cộng (vì họ đã bán cho Trung Cộng) hoặc lý do thống nhất đất nước là lừa
bịp. Dù lý do bán đất đảo hay lý do thống nhất lừa bịp (tôi sẽ có bài
sau này) cũng có tội với dân tộc.
Thứ tư, trong dư luận bấy lâu nay có tin rằng (không chính thức
nhưng từ miệng của các bộ đội cộng sản lão thành) lúc đó Trung Cộng
mạnh, giúp VNDCCH nên công hàm trên nhằm mượn tay Trung Cộng để lấy
HS-TS từ tay VNCH cho VNDCCH. Lý do này cũng sai.Vì từ trước đến nay qua
4000 năm lịch sử giữ nước chúng ta chưa bao giờ quên mộng xâm lăng của
giặc Tàu. Đảng cộng sản nếu dùng mưu đó cũng là phạm tội “Cỏng rắn cắn
gà nhà”, tiếp tay cho kẻ thù. Như vậy đảng cộng sản và ông Đồng đã không
đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu mà chỉ đặt lợi ích của “Đảng cộng sản
anh em” lên trên. Ngoài ra nếu viện dẫn lý này tại sao cho đến giờ phút
này Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tuyên bố rõ ràng Trung Cộng
xâm chiếm HS-TS hay chỉ dừng lại ở những câu chung chung như nhai lại
của các phát ngôn viên ngoại giao. Hay cụ thể là việc đàn áp biểu tình
chống xâm lược.
Kết luận chung: Rõ ràng với
công hàm 1958, đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ, ông Đồng đã bán nước
cho Trung Cộng. Dù có biện luận dưới 4 lý do hiện nay đảng cộng sản đang
rêu rao cũng đều hoặc vô lý, hoặc cũng có tội với dân tộc.
B. Vai trò của ông Hồ Chí Minh trong sự kiện công hàm 1958:
Công hàm thì ký tên ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng VNDCCH lúc đó. Từ trước
đến nay chúng ta chỉ trích ông Đồng. Điều này đúng. Tuy nhiên chỉ là
nửa sự thật. Vai trò của ông Hồ trong sự kiện này rất lớn. Tôi xin chứng
minh sau đây.
1. Về hệ thống chính trị của đảng cộng sản Việt Nam:
Về hệ thống chính trị của Việt Nam, trên wiki:
(links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chính_trị_Việt_Nam) có đoạn: Cách
tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo trục dọc với Đảng Cộng
Sản giữ địa vị trên hết, không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ
chức chính phủ dân chủ nghị viện khác...
Hiến pháp 1992 tái khẳng định vai trò ưu tiên của Đảng Cộng sản tuy
nhiên cũng theo bản hiến pháp đó thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp. Cơ quan này
có trách nhiệm to lớn trong việc giám sát mọi chức năng của chính phủ.
Bộ chính trị với 15 thành viên hiện nay, được bầu ra vào tháng 1 năm
2011 và do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, quyết định chính sách
của chính phủ; Ban Bí thư gồm 10 người giám sát việc thi hành chính sách
hàng ngày. Dù đã có một số nỗ lực nhằm giảm sự chồng chéo giữa các vị
trí của đảng và chính quyền, cách quản lý này hiện vẫn đang được áp dụng
và mở rộng.
Như vậy bỏ qua vấn đề số thành viên (khác so với 1958) thì lúc nào vai
trò của đảng cộng sản cũng là số 1, mà đại diện cho đảng cộng sản cầm
quyền mọi quyết định là Bộ Chính trị. Chính phủ mà đứng đầu là ông Phạm
Văn Đồng không thể thông qua một quyết định một quyết định to lớn liên
quan đến như vậy.
Tôi xin dẫn chứng thêm về vai trò của bộ chính trị với nhà nước. Đây là đoạn trên trang của đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ
thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ
thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan
hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản lý nhà nước
đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của
nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý
toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và
thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện
và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Kết luận 1: Như vậy chúng ta khẳng
định rằng quyết định của ông Đồng không thể không thông qua đảng cộng
sản nhất là bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.
2. Ông Hồ Chí Minh có vai trò gì?
Công hàm của ông Phạm Văn Đồng thủ tướng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, vì vậy công hàm chỉ có thể được gởi đến Chu Ân Lai sau khi đã được
thông qua, được sự đồng ý và chấp thuận của Bộ Chính Trị. Ông Hồ Chí
Minh lúc đó là Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nhà nước, nghĩa là ông đứng đầu
BCT và đứng đầu chính phủ. Vậy không thể có chuyện ông Hồ không biết,
không có ý kiến gì. Chính ông Đồng (trong trích dẫn của tôi ở phần trên
đã nói: “đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi"). Vậy rõ
ràng ông Đồng thừa nhận công hàm đó là có thật, ông phải thông qua ai nó
mới được chuyển đi cho phía Trung Cộng? Đó chính là ông Hồ Chí Minh.
Qua hệ thống chính trị và vai trò chúng ta đã biết ông Hồ Chí Minh trong
những năm đó thì không thể có chuyện ông Hồ không biết, không thông qua
cho công hàm ông Đồng ký. Nếu giả sử ông Đồng không thông qua quốc hội,
không thông qua ông Hồ và bộ chính trị liệu ông Đồng có bị trừng trị
hay không? Rõ ràng là ông Đồng sẽ bị trừng trị. Nhưng trên thực tế ông
Đồng lại yên vị và khỏe mạnh, không tỳ vết. Như vậy ta có thể kết luận
ông Hồ đã đồng thuận với việc ký công hàm này.
Rõ ràng Phạm Văn Đồng đã không tự mình quyết định. Ông chỉ làm nhiệm vụ thông tin cho phía Trung Cộng biết “Chính phủ VNDCCH tán thành…”
cho dù bản thân ông có muốn tán thành hay không. Chính phủ đó do Hồ Chí
Minh đứng đầu và đó là một Chính phủ do Đảng lãnh đạo! Về mặt Đảng, ông
Hồ cũng là nhân vật chóp bu: Chủ Tịch kiêm Tổng Bí Thư Đảng. Quyền lực
của Tổng Bí Thư Đảng cùng với BCT Đảng luôn luôn là quyền tuyệt đối.
Tôi xin ví dụ một ví dụ nhãn tiền ngay trước mắt. Quốc hội Việt Nam bàn
cãi, tha hồ đưa ra nghị quyết này khác. Nhưng khi Đảng bảo rằng Đảng đã
quyết, thì chuyện Quốc Hội cãi nhau, rồi đồng thuận, rồi đưa ra Nghị
quyết… đều trở thành trò hề. Cụ thể trong vụ Bauxite Tây Nguyên là một
trong trăm ngàn ví dụ.
Ông Hồ là chủ tịch nước, kiêm tổng bí thư. Mọi quyết định nếu không do
ông và bộ chính trị chỉ đạo thì một chức vụ hữu danh vô thực (thời điểm
đó) của ông Đồng không làm gì được.
Vậy dù có vai trò chủ đạo hay chỉ là đồng thuận thì ông Hồ cũng có tội
đồng lõa với ông Đồng ký một văn bản bán nước, công nhận chủ quyền kẻ
thù trên phần đất của chính quê hương.
Ngoài ra, có một số ý kiến cho rằng thời điểm đó ông Hồ bị ông Lê Duẩn
“nhiếp chính” và chèn ép. Họ đổ tội cho ông Lê Duẩn ép ông Hồ làm việc
này. Tôi xin trả lời cho các bạn hai vấn đề. Thứ nhất thời điểm đó ông
Duẩn chỉ là cán bộ không thực sự có vai trò to lớn trong lãnh đạo cộng
sản Việt Nam. Theo wiki(links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Lê_Duẩn):
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì
công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ III của Đảng.
Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ
chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy thì ông Duẩn mãi năm 1960 mới có vai trò chính trị đáng kể, còn
1957 - trước 1960 ông đơn thuần chỉ là cán bộ của ban bí thư chứ chưa
phải la Bí thư thứ nhất như sau này. Vai trò chính trị vẫn trong tay ông
Hồ. Ông Hồ chỉ thực sự bị cô lập, vai trò ông Duẩn chỉ thực sự rõ rệt
sau năm 1960.
Tiếp theo, con người ông Lê Duẩn lại là con người có tư tưởng chống
Trung cộng. Ông Duẩn cũng là một nguyên nhân chính trong cuộc chiến biên
giới phía Bắc với Trung cộng. Ông Lê Duẩn chủ trương thân Liên Xô và
chống Tàu nên phía Trung cộng đã rất tức giận trước các hành động cứng
rắn của ông. Tất nhiên là cuộc chiến này còn nhiều nguyên nhân. Nhưng
thực sự ông Lê Duẩn là cái gai trong mắt Trung Cộng, vì thế bảo ông Duẩn
ép ông Hồ đồng ý công hàm 1958 là điều vô lý.
Qua bài này tôi đã chứng minh một sự thật là ông Đồng và ông Hồ đã thông
qua công hàm 1958 để bán tổ quốc Việt Nam cho Trung Cộng. Vai trò của
ông Hồ là hết sức rõ rệt trong sự kiện này. Chúng ta có thể thấy đảng
cộng sản Việt Nam mà đại diện trong sự kiện này là ông Hồ và ông Đồng là
những tội đồ của dân tộc.
NHỮNG SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHỐI BỎ VỀ TÊN TỘI ĐỒ HỒ CHÍ MINH
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến Dân Làm Báo và
bạn đọc. Trên tinh thần dân chủ chúng ta đang hướng tới, tôn trọng tất
cả các ý kiến trái chiều, dân chủ có nhiều con đương, mỗi người chúng ta
có quyền đưa ra con đường đó để bạn đọc và nhân dân lựa chọn. Sự lựa
chọn của nhân dân là ý kiến cuối cùng về con đường của dân tộc. Với tinh
thần đó, tôi mong mọi người đọc hãy tiếp thu bài viết như một ý kiến cá
nhân của tôi. Và như đã nói ở những bài trước, con đường dân chủ tôi
chọn là con đường không có cộng sản, không còn cộng sản dựa trên nguyên
tắc khơi lại sự thật, chấn hưng dân trí. Có người biện luận ông Hồ không
phải là Thánh thì có cái sai, nhưng cái sai của ông không phải chỉ một
lần, một lỗi, nó thành hệ thống. Vậy chúng ta không thể bỏ qua nhằm trả
lại sự thật cho lịch sử.
Sau đây là bài đầu tiên của tôi về vấn đề này với nội dung nói về một
tấm bình phong bấy lâu của đảng cộng sản Việt Nam và những kẻ dân chủ
cơ hội.
Thực ra những vấn đề tôi nêu lên và loạt bài này không phải là mới
mẻ, nhiều người đã đề cập. Nhưng tôi xin phân tích, đánh giá trên cách
nhìn mới và phân tích ý kiến của cá hai bên: Phản đối và ủng hộ nhân vật
HCM. Qua đó chúng ta có thể thấy rõ sự thật của vấn đề nhằm trả nó về
với chân giá trị vốn có đã bị đánh cắp lâu nay.
Sự thật thứ nhất: Bác đi tìm đường cứu nước hay cứu bác?
Trong chuỗi sự kiện về ông Hồ, xin bắt đầu từ việc đầu tiên đó là việc ông ta đi “tìm đường cứu nước”.
Sự việc này sẽ xoay quanh lá thư của ông xin học trường thuộc địa của
Pháp. Tôi xin xoay quanh hai vấn đề là: Có hay không là thư đó và ông
viết thư với mục đích gì?
Ngày 31-5-2011, tại Sài Gòn đã diễn ra cuộc Hội thảo với chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước”.
Cuộc hội thảo do các cơ quan sau đây đứng ra tổ chức: Thành ủy đảng
CSVN TpHCM, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Những cơ quan
trong ban tổ chức cuộc hội thảo đều tầm cỡ khá cao trong nước, nên cuộc
hội thảo quy tụ nhiều nhân vật quan trọng của CSVN, kể cả cựu tổng bí
thư Lê Khả Phiêu, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Trước hết là nguyên văn lời trong sách Lịch sử Việt Nam của các tác giả
là người của đảng cộng sản đã viết về sự kiện thanh niên Nguyễn Tất
Thành xuống tàu Amiral Latouche-Tréville ngày 5-6-1911 để ra đi như sau:
“Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của
cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà
Người (Hồ Chí Minh) từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã
thôi thúc Người hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến “tìm xem
những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Sau khi rời
Huế vào Phan Thiết … Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người xin làm phụ
bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville),
thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài “xem nước Pháp
và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào…” (Nguyễn Khánh Toàn và một nhóm tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập 2, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1985, tr. 145).
Ngoài ra trong sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà
xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng có nội dung
gần giống như sau:
“… Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa
cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa
thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào
cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang
các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên
độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về “giúp đỡ đồng bào” đánh đuổi thực dân
Pháp. Ý định ấy của Người (HCM) đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một
phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.” (Ban
Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự
nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Hà Nội: Nxb. Sự Thật,
1975, tr. 15).
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn của tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau: “…Tôi
muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét
họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta…” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1976, tr. 13).
Ở đây có điều oái oăm: Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh.
Ông Hồ dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Sở dĩ nói oái oăm là
ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có nhiều người viết sách về hoạt
động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc
làm của mình, nhưng họ đều đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều
họ viết. Chỉ có ông Hồ Chí Minh là dùng một tên khác tự ca tụng mình.
Như vậy có thể kết luận, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua
chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục
đích tìm đường cứu nước. Nhưng sự thực có phải vậy hay không?
Bức thư xin học trường thuộc địa Pháp
Đây là vấn đề thứ nhất. Tại sao Bác Hồ yêu nước, có tinh thần chống Pháp
từ bé lại xin gia nhập trường thuộc địa này? Trong khi đó ngôi trường
lại là nơi đào tạo quan lại nhằm thực hiện chính sách thực dân của Pháp ở
Việt Nam.
Đây là hình ảnh về hai bức thư đó:
Đó là hình ảnh về hai bức thư mà trên internet bấy lâu nay không thiếu.
Nó có thật hay không? Tôi xin trả lời là có thật vì đó là điều công nhận
của cả hai bên.
Đầu tiên là phía “lề trái”: vào tháng 02/1983, hai sử gia VN, tiến sĩ
Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đã công bố khắp thế giới, một tài liệu
vô cùng quan trọng, tại văn khố Pháp duy nhất liên quan tới giai đoạn
1911 của Nguyễn Tất Thành. Đó là 2 lá thư xin nhập học Trường Thuộc Địa
(Ecole Coloniale) viết ngày 15/09/1911 và một lá viết tại New York ngày
15/12/1912. Điều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ
với mục đích tìm đường làm quan (làm Việt Gian tay sai cho Pháp) để giải
quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu
nước giúp dân như Trần Dân Tiên và báo của đảng cộng sản từng viết sách
ca tụng.
Nhưng để chứng minh cho đây là 2 lá thư có thật, tôi xin dẫn chứng về sự công nhận của bên “lề phải”:
Trên trang chủ của Sachhiem.net có bài Phản hồi của một vị xưng là giáo
sư Trần Chung Ngọc, ông này là người của đảng cộng sản. Bài phản hồi của
ông ta về những điểm trong DVD “Sự thật về HCM”. Sau đây là nguyên văn
đoạn ông ta viết về lá thư: “DVD đưa ra một tài liệu, bức thư của Hồ
Chí Minh xin học ở trường thuộc địa, và đã bị giám đốc trường nầy từ
chối không cho học, để chứng minh rằng mục đích của ông Hồ không phải là
xuất ngoại để cứu nước mà để tìm đường làm ăn. Bức thư được ông Nguyễn
Gia Phụng dịch ra tiếng Việt và đọc trong DVD. Nhưng đưa ra tài liệu
này, những người làm DVD không nghĩ đến phản tác dụng của nó. Thứ nhất,
họ không tìm hiểu tại sao giám đốc trường thuộc địa lại từ chối đơn xin
học của ông Hồ với lý do rất đáng buồn cười: “Mục đích của ông tới đây
là để kiếm sống chứ không phải là để đi học”. Như vậy ông này công nhận sự có thật của lá thư với nội dung xin học của ông Hồ. Phần nội dung tôi xin trình bày sau.
Thứ hai đó là trên tranh chủ có cái tên rất “Fan club” của HCM: http://thehehochiminh. wordpress. com/2010/01/03/1911_lathu_truong_thuocdia/
Có đoạn nói về tác giả nước ngoài, cả bài viết trên trang đó và ký giả nước ngoài đều công nhận bức thư đó là có thật:
William J. Duiker viết về Lá thư Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa (1911)
Theo W. J. Duiker, đây là một lá thư do Nguyễn Tất Thành viết. Tuy
nhiên, trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, không thấy có lá thư này. Để tạo
điều kiện bạn đọc tiếp cận và nghiên cứu, chúng tôi trích đăng ý kiến
của W. J. Duiker. Hoan nghênh bạn đọc phản hồi về lá thư theo địa chỉ
email: info@thehehochiminh. net
Anh Thành đã trở lại tàu trước khi tàu nhổ neo; tàu đã đến Cảng Le
Havre ngày 15.7, và vài ngày sau đã đến Cảng Dunkerque và cuối cùng trở
lại Marseilles, và ở đó cho đến giữa tháng 9. Tại đây, anh đã viết một
bức thư gửi cho Tổng thống nước Cộng hòa Pháp. Vì đây là một sự kiện
đáng chú ý, tôi xin chép toàn văn thư này…
Tôi xin nêu ra dẫn chứng của cả hai phía phê phán và ủng hộ ông HCM để thấy rằng 2 bức thư đó là có thật chứ không phải bịa đặt.
Bác viết gì trong thư?
Nội dung của 2 bức thư là khá giống nhau, tôi cũng xin ghi ra đây phần
dịch của cả hai phía ủng hộ và không ủng hộ để bạn đọc thấy .
Trước tiên là lời trên trang:
Có nội dung như sau về bức thư thông qua lời dịch của WILLIAM J. DUIKER
Marseilles
Ngày 15 tháng Chín năm 1911
Thưa Ngài Tổng thống!
Tôi xin hân hạnh yêu cầu Ngài giúp đỡ cho tôi được vào học nội trú tại Trường Thuộc địa.
Hiện nay, để nuôi thân, tôi đang làm việc cho công ty Chargeurs
Réunis (Tàu Amiral Latouche – Tréville). Tôi hoàn toàn không còn nguồn
lực nào và rất thiết tha muốn có học vấn. Tôi muốn trở nên có ích cho
nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào
tôi thu lợi được từ học hành.
Quê tôi ở tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ phúc đáp
theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng thống nhận sự
biết ơn sâu sắc của tôi.
Nguyễn Tất Thành
Sinh tại Vinh, 1892
Con trai của Ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương)
Học sinh tiếng Pháp và chữ nho
Còn sau đây là nội dung của nó dưới bút dịch của những người “lề trái”. Trong bài “Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa”, hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã dịch như sau:
“Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa.
Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville).
Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi.
Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng
thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn…” (Đặc san Đường Mới, số 1, Paris, tt. 8-25)
Như vậy rõ ràng về nội dung của cả lề phải và lề trái đều giống nhau. Đó
là sự thật mà đảng cộng sản hoặc những người dân chủ cơ hội phải chấp
nhận.
Trên thực tế 2 lá thư trên đều bị bác bỏ, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành
nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn
Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết
xin một đặc ân là ban cho cha Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Sinh Sắc, một
chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh
sống trong hoàn cảnh cha của Nguyễn Tất Thành nghèo túng sau khi bị cách
chức quan (do đánh chết người): “… cầu mong Ngài (chỉ khâm sứ Pháp)
vui lòng cho cha tôi (cha của Thành tức Nguyễn Sinh Sắc) được nhận một
công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi
sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài…” (Thành Tín (tức Bùi Tín), Mặt thật, California: Nxb. Saigon Press, 1993, tt. 95-96).
Vậy bản chất của việc Bác đi không phải là tìm đường cứu nước mà bác đi
là vì mưu sinh. Chuyện mưu sinh là chuyện thường của con người. Nhưng
ông Hồ và đảng cộng sản đã bịa đặt và thần thánh hóa nó thành cứu nước.
Tuy nhiên về phía ủng hộ ông Hồ lại có những lập luận như sau; như lời của ông Trần Chung Ngọc có viết: “Sở
dĩ trường thuộc địa bác đơn xin học của ông Hồ vì trong đơn ông Hồ “đã
dại dột” viết rõ là mục đích của ông là có thể dùng nền học vấn để giúp
ích cho đồng bào của ông, để cho họ được hưởng những hữu ích của nền học
vấn mà ông thu thập được [“Je désirerais
devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en
même temps les faire profiter des bienfaits de l’instruction”].
Đó chỉ là một câu để có thể xin vào học trường thuộc địa. Trường thuộc
địa là để đào tạo những tay sai phục vụ cho nước Pháp, chứ không phải để
phục vụ cho dân thuộc địa. Giám đốc trường thuộc địa không phải là
không biết điều này, nên đã từ chối với một lý do vốn không phải là lý
do, vì nó rất vô lý.
Hay trên trang: http://thehehochiminh. wordpress. com/2010/01/03/1911_lathu_truong_thuocdia/ có viết: Tuy
nhiên, qua việc anh Thành đã học tại Trường Quốc học ở Huế, ta thấy
hành vi của anh không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thù địch của anh đối với
ách thống trị thực dân của Pháp ở Đông Dương dường như đã được xác
định, song điều rõ ràng là anh vẫn chưa quyết định nên đi theo con đường
nào để giải phóng đất nước và, theo lời kể của bản thân anh, anh vẫn
thiết tha được học hành để nâng cao hiểu biết tình hình.
Tôi xin chứng minh đó là những luận điệu biện hộ sai trái cho sự thật của ông Hồ.
Xin nói sơ qua về ngôi trường này. Đây là ngôi trường được thành lập năm
1885 để đào tạo các quan chức phục vụ cho chính quyền ở các nước thuộc
địa Pháp, trường Thuộc địa có bao gồm một “bộ phận bản xứ” dành cho thần
dân thuộc địa với khoảng 20 suất học bổng cho học sinh Đông Dương thuộc
Pháp.
Việc ông Hồ lúc đó đã là thanh niên, có nhận thức rõ ràng về ngôi trường
đó là dĩ nhiên. Ông ta biết nó được sinh ra để đào tạo những kẻ đàn áp
nhân dân. Sao ông ta lại xin học? Ở Việt Nam, nhất là khi ông ra nước
ngoài có thiếu gì ngôi trường học văn hóa, nâng cao hiểu biết như lời
các tác giả lề phải biện hộ? Sao ông Hồ nhất định phải không chỉ một lần
mà những hai lần cố xin cho được vào ngôi trường xấu xa đó, không xin
vào trường khác? Vậy mục đích ơ đây không phải vào để “Tìm hiểu” mà là
muốn làm quan kiếm miếng cơm. Mà quan đó là quan “Ăn hiếp” nhân dân.
Ông Trần Chung Ngọc và các tác giả biện hộ về nội dung rằng vị quan Pháp
không cho học vì sợ ông Hồ học để nâng cao dân trí cho nhân dân. Xin
thưa các tác giả biện hộ cho ông Hồ. Đó là ông hiệu trưởng lúc đó có
biết ông Hồ là ai? Anh hùng nào mà sợ ông ta truyền đạt cho nhân dân
chống Pháp? Ngôi trường đó mở cho người Việt thì ông Hồ có học hay không
cũng là chuyện bình thường. Ông Hồ lúc đó chẳng là cái gì mà ông hiệu
trưởng Pháp phải “sợ” cả. Hơn thế nữa, bất cứ một lá đơn xin học nào,
nhất là trường quan trọng như trường thuộc địa lúc đó đều phải làm đơn
với những quy định nhất định. Cái đơn của ông Hồ cũng không là ngoại lệ,
vậy thì việc nó viết “Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong
quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi
được từ học hành” cũng là điều bình thường chứ không phải sự “dại
dột” như ông Ngọc viết. Và bạn đọc có thể thấy môi quan hệ giữa Pháp và
nhân dân ta lúc đó là quan hệ của thực dân và nô lệ, vậy việc ông Hồ
muốn giúp “lợi ích” cho nước Pháp trong quan hệ chính là việc dùng chức
quan (nếu có) để thay người Pháp cai trị nhân dân.
Trên đây là sự thật đầu tiên về ông Hồ. Tôi dùng cả những tài liệu, phân
tích của hai phái ủng hộ và chống đối để chứng minh rằng: Ông Hồ có
viết thư xin học trường thuộc địa. Việc ông xin học ở đây nhằm làm quan,
có miếng cơm chứ ông chẳng có tư tưởng căm thù Pháp, không có ý định “tìm đường cứu nước” như chính ông và đảng cộng sản đã bịa đặt.
Tại sao ông Hồ và đảng cộng sản lừa dối không công khai bức thư? Tại sao ông đi kiếm ăn lại nói dối “Tìm đường cứu nước”? Đó chính là sự lừa dối không thể chấp nhận được.
06/06/2012
No comments:
Post a Comment