Quách Vĩnh
Niên Sau đệ nhị thế chiến lịch sử thế giới đã đổi sang một
trang mới, đồng thời Việt Nam lại rơi vào thảm kịch kéo dài đến ngày nay. Có thấy
được nguyên nhân, chúng ta mới tìm được đáp số của vấn đề Việt Nam và từ đó mới
có thể có hành động đúng hướng hầu sớm giành được độc lập dân tộc, phục hồi tự
do hạnh phúc, phục hồi mọi giá trị tinh thần dân tộc đã bị băng hoại.
Trước
tiên và cũng trong phạm vi bài viết nầy chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân nào
khiến Việt Nam chìm đắm trong khói lửa và bất hạnh kể từ sau thế chiến thứ hai
đến ngày nay. Câu trả lời là Việt Nam nằm tại vị trí tối quan trọng trong chiến
lược toàn cầu của Hoa Kỳ. Bằng kỹ xảo, Hoa Kỳ đã hất chân Pháp ra khỏi Việt Nam
qua trận Điện Biên Phủ. Hoa Kỳ dùng Trung Cộng hất chân Liên Sô khỏi Việt Nam bằng
sự hứa hẹn giao Biển Đông cho Trung Cộng và hôm nay là tiến trình cuối Hoa Kỳ sẽ
lấy lại Biển Đông trong lúc Trung Cộng chưa làm chủ hoàn toàn Biển Đông, đất nước
Trung Hoa sẽ thay đổi thể chế, cùng lúc với việc tách rời của Tây Tạng, Tân
Cương, Mãn Châu, Nội Mông, Quảng Tây và nhiều khu vực tự trị khác. Sau thời kỳ
này thế giới sẽ bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hòa bình như cái danh
xưng của nó: Kỷ nguyên Châu Á Thái Bình Dương.
Đệ nhị thế
chiến chấm dứt, Hoa Kỳ bắt tay ngay việc phục hồi Châu Âu, nhất là Pháp để củng
cố thành trì chống lại sự bành trướng của Cộng sản thế giới do Liên Sô lãnh đạo.
Đồng thời Hoa Kỳ khuyến cáo các nước thực dân phải trả độc lập cho dân bản xứ.
Đông Dương là một thuộc địa béo bở làm sao thực dân Pháp có thể từ bỏ được! Bằng
mọi giá Hoa Kỳ phải trực tiếp can dự vào Việt Nam để ngăn chặn bước bành trướng
của Liên Sô xuống vùng Đông Nam Á, bởi vì chiến lược của Liên Sô là phải làm chủ
Biển Đông bằng cách xích hóa toàn bộ Việt Nam, đồng thời từ đó xích hóa toàn bộ
Đông Nam Á. Làm chủ Biển Đông, Liên Sô sẽ có địa bàn an toàn cho hạm đội của họ
và từ đó kiểm soát con đường giao thông huyết mạch từ Âu sang Á. Trong lúc đó
Trung Cộng còn lạc hậu, lực lượng hải quân của họ hoàn toàn không đáng kể, để
giải quyết nạn nhân mãng không đâu tốt cho bằng vùng Tây Bá Lợi Á hoang vu, lại
nữa Trung Cộng phải làm chủ Biển Đông và Đông Nam Á để đối đầu lại Hoa Kỳ. Đây
là điểm gây tranh chấp lúc thì ngấm ngầm khi thì bộc phát (hai bên dàn quân
vùng phía Bắc Trung Quốc dọc sông Ussuri) giữa hai nước đàn anh XHCN. Và đây
cũng là nguyên nhân gây nên thảm kịch trên đất nước Việt Nam.
Năm 1945
dưới sự chỉ đạo của Liên Sô, Việt Minh cướp chính quyền, thủ tướng Trần Trọng
Kim từ chức, vua Bảo Đại thoái vị, trên nguyên tắc chính quyền Quốc gia không
còn tồn tại. Trong khi đó Thực dân Pháp quyết trở lại Việt Nam bất cứ giá nào
và điều này có phần thuận lợi về phía Pháp nhưng đối với Hoa Kỳ, việc can thiệp
vào Việt Nam không dễ dàng vì trước tiên Hoa Kỳ không có cơ sở pháp lý nào khả
dĩ làm được điều này. Kế tiếp, người Mỹ và đất nước Mỹ quá xa lạ đối với người
Việt Nam. Vì vậy Hoa Kỳ đã ngầm đồng ý Pháp trở lại Việt Nam, một mặt hứa yểm
trợ tối đa cho lực lượng Pháp tại Việt Nam, kể cả việc ném bom trải thảm (bằng
máy bay chiến lược B29) tiêu diệt đối phương, nhưng mọi việc chỉ xảy ra chiếu lệ,
thêm vào đó tin tình báo cũng bị Hoa Kỳ cung cấp sai lạc về khả năng quân sự của
đối phương, nhất là pháo binh hiện diện trong trận Điện Biên Phủ (thực chất là
sư đoàn pháo binh của Trung Công do tướng Trần Canh làm tư lệnh). Pháp thua cay
trận Điện Biên Phủ dẫn đến hiệp định Genève 1954. Đã có chủ đích trước, Hoa kỳ
và chính phủ Bửu Lộc không ký tên trong hiệp định này để có thể từ chối tổng
tuyển cử hai năm sau như trong một điều khoảng của hiệp định.
Được sự vận
động của Hoa Kỳ, quốc trưởng Bảo Đại chỉ định Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, Ngô
Đình Diệm nhận lời với điều kiện được toàn quyền chính trị và quân sự. Lúc bấy
giờ quốc trưởng Bảo Đại vẫn ở Pháp và điều hành quốc sự từ xa, Bảo Đại không chấp
nhận điều kiện trên nên đòi Ngô Đình Diệm sang Pháp trình diện, Ngô Đình Diệm
không tuân lệnh và việc lật đổ Bảo Đại là diễn biến tất yếu phải xảy ra.
Ngô Đình
Diệm là tổng thống đầu tiên của Miền Nam tự do được Hoa Kỳ bảo trợ đã nhanh
chóng xây dựng lại một Miền Nam phú cường từ đống đổ nát và lạc hậu. Quốc sách ấp
chiến lược đã cô lập hữu hiệu thành phần Việt cộng nằm vùng được Bắc Việt cài lại
sau hiệp định Genève 1954. Tổng thống Diệm trong một thời gian rất ngắn đã đưa
Miền Nam đi trên đường độc lập, tự chủ, tự cường. Nhưng chiến lược của Hoa Kỳ
là dùng Miền Nam làm chiến trường tranh chấp giữa Hoa kỳ, Liên Sô và Trung Cộng
với mục đích:
1/ Buộc
Liên Sô dốc toàn lực viện trợ quân sự cho Bắc Việt nhằm tiêu hao nền kinh tế
Liên Sô về lâu về dài.
2/ Cài thế
tranh chấp quyền làm chủ Biển Đông và Đông Nam Á giữa Liên Sô và Trung Quốc mà
xung đột phát xuất từ mục tiêu chiến lược của hai nước đàn anh XHCN. Từ đó Hoa
Kỳ ngầm bắt tay Trung Quốc, hứa hẹn để Trung Quốc làm chủ Biển Đông (Kissinger
gặp Mao năm 1972) bằng cách Trung Quốc phá hỏng kế hoạch của Liên Sô mà Bắc Việt
lúc đó dưới quyền của tập đoàn Lê Duẩn làm tay sai cho Liên Sô.
3/ Trực
tiếp tham chiến tại chiến trường Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ trắc nghiệm vũ khí mới (kể
cả vũ khí điện tử), rút tỉa kinh nghiệm đối phó chiến tranh du kích, một hình
thức của chiến tranh nhân dân mà Hoa Kỳ phải đối diện trên nhiều chiến trường
sau này.
Trong khi
tổng thống Diệm đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị từng bước vững mạnh thì
Hoa Kỳ đòi đưa quân tác chiến vào Nam Việt Nam, một điều đi ngược chủ trương độc
lập, tự chủ của tổng thống Diệm, hơn thế nữa đòi hỏi nầy của Hoa Kỳ đi ngược lại
tình hình chính trị ổn định tại Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Lẽ dĩ nhiên Tổng thống
Diệm khước từ đòi hỏi từ phía Hoa Kỳ. Dùng mọi biện pháp áp lực kể cả “những cuộc
đảo chánh bất thành” nhưng không làm tổng thống thay đổi lập trường, vì vậy Hoa
Kỳ quyết định loại trừ tổng thống Diệm. Dàn dựng hàng loạt biến cố để dẫn đến
cuộc đảo chánh 1/11/63 một cách hợp lý, Hoa Kỳ đã nắm trong tay nhóm tướng lãnh
cầm quyền gọi dạ bảo vâng, từ đó Hoa Kỳ rảnh tay dùng Miền Nam trong thế cờ chiến
lược của họ. Hoa Kỳ ào ạt đổ quân và chiến cụ vào Nam Việt Nam, nhưng đồng thời
trang bi vũ khí hạn chế cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa với mục đích duy trì sức
mạnh QLVNCH ở mức cho phép hầu tránh vượt ngoài khả năng kiểm soát và cũng để
giữ thế chủ động trên nước cờ quân sự.
Trong khi
đó tại Bắc Việt, tập đoàn Lê Duẩn đã khống chế được Hồ Chí Minh và ngả hẳn về
phía Liên Sô, dốc toàn lực xâm nhập đánh chiếm Miền Nam dưới sự điều động và viện
trợ to lớn của Liên Sô. Sự kiện này đi ngược lại chiến lược của Trung Quốc về
Biển Đông và Đông Nam Á. Hoa Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập bộ đội
Bắc Việt bằng hiệp định trung lập Lào năm 1962 bởi vì Lào trung lập sẽ là đất dụng
võ cho Cộng sản Bắc Việt làm nơi trung chuyển quân xâm nhập và là địa bàn mở rộng
an toàn đường mòn Hồ chí Minh (đìều nầy lý giải tại sao Trung cộng đã cản trở
hiệp định trung lập Lào 1962). Hoa Kỳ tạo điều kiện thuận lợi để quân Bắc Việt
xâm nhập Nam Việt Nam tạo nên chiến trường trực tiếp giữa Hoa Kỳ và bên kia là
quân Bắc Việt với trang bị vũ khí tối tân của Liên Sô. Hoa Kỳ kéo dài cuộc chiến
không muốn thắng nhằm tiêu hao nền kinh tế Liên Sô, trong lúc đó Liên Sô bằng mọi
giá phải chiếm Miền Nam là bước đầu của chiến lược của họ. Trong lúc đó vì yếu
thế đối với Liên Sô, Trung cộng chỉ biết cản trở một cách vô hiệu quả mà thôi.
Chính vì vậy Trung cộng đã đi đêm với Hoa Kỳ phá thế chiến lược của Liên Sô để
được Hoa Kỳ công nhận quyền làm chủ Biển Đông trong tương lai. Hàng loạt diễn
biến quân sự leo thang chiến tranh từ từ để nuôi dưỡng khả năng chiến đấu của Bắc
Việt, và hàng loạt diễn biến ngoại giao lúc bấy giờ đã chứng minh điều vừa nói.
Sự kiện Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa năm 1975 của VNCH trước thái độ làm ngơ
của Hoa Kỳ là sự thể hiện đầu tiên Hoa Kỳ tôn trọng lời hứa đối với Trung cộng.
Liên Sô
ào ạt tuồn vũ khí tối tân qua ngã Trung cộng. Cùng với Liên Sô và các nước XHCN
Đông Âu, Trung cộng cũng viện trợ quân sự cho Bắc Việt và đòi kiểm soát mọi lô
hàng viện trợ từ Liên Sô, đổi nhãn hiệu thành China khi có thể được, đồng thời
đưa quân tiến sâu vào lãnh thổ Viêt Nam dọc các tỉnh biên giới. Mặt khác Trung
cộng tìm mọi cách trì hoãn, ngăn chận kế hoạch đánh chiếm Nam Việt Nam.
Tương kế
tựu kế, Hoa Kỳ làm lộ diện và tiêu diệt phần lớn cơ sở nằm vùng của Việt cộng
trong trận tết Mậu Thân (1968), đồng thời triệt hạ an toàn khu của Mặt trận giải
phóng bằng cuộc hành quân 720 sang Campuchia (4/1970), hai sự kiện nầy nhằm
thúc đẩy Bắc Việt tăng cường quân xâm nhập để trám chỗ trống đồng thời đòi hỏi
Liên Sô gấp rút tăng cường viện trợ. Bên cạnh đó, quân lực Việt Nam Cộng Hòa lớn
mạnh và thiện chiến cũng làm trở ngại cho Hoa Kỳ trong kế hoạch bỏ Miền Nam Việt
Nam nên việc làm suy yếu QLVNCH trong kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 sang hạ
Lào (3/1971) còn tạo cớ Bắc Việt và Liên Sô dốc toàn lực cho cuộc chiến.
Hoàn tất
cuộc đi đêm với TC, HK đi đến kết thúc hiệp định Paris 1973, điều mà Trung cộng
không muốn, tạo lợi thế rõ rệt để Bắc Việt chiếm trọn Miền Nam. Cộng sản
Campuchia chiếm Phnom Penh ngày17/4/1975. Sài Gòn thất thủ ngày 30/4/1975,
nhưng sứ mệnh của Lê Duẩn đối với Liên Sô chưa kết thúc, biên giới Thái Lan –
Campuchia bất ổn vì những cuộc đụng độ quân sự nhỏ nhưng có nguy cơ nổ lớn bất
cứ lúc nào.
Nhằm chận
đứng đà tiến quân của CSVN, Trung Quốc (có sự ủng hộ của HK) sử dụng Khmer Đỏ
chống lại CSVN. Năm 1979 CSVN đánh bật Khmer Đỏ ra khỏi Phnom Penh nhưng chính
quyền Khmer Đỏ vẫn còn kiểm soát một phần lãnh thổ phía tây và vẫn giữ chân
trong Liên Hiệp Quốc đến năm 1982. Cũng trong năm 1979 Trung Quốc xua quân đánh
sáu tỉnh biên giới Việt Nam để thị uy. Trong khi đó lực lượng Khmer Đỏ gây trở
ngại đáng kể cho lực lượng CSVN tại Campuchia và cuối cùng CSVN chịu rút quân
năm 1989 sau khi củng cố sức mạnh cho chính phủ bù nhìn Phnom Penh. Chiến lược
của Liên Sô hoàn toàn sụp đổ cộng với thời gian chạy đua vũ trang không gian với
HK cùng với việc thất bại ở Afghanistan, kinh tế Liên Sô kiệt quệ dẫn đến sự sụp
đổ hệ thống XHCN Liên Sô và Đông Âu.
Mới ngày
nào đây CSVN không tiếc lời chửi bới Trung cộng thì giờ nầy Hà Nội vội vã sang
Bắc Kinh thú tội, nhận chịu tất cả điều kiện để được che chở. Vậy là Việt Nam nằm
gọn trong tay Trung cộng, đồng thời bước đầu Việt Nam chịu mất một phần lãnh thổ
biên giới phía Bắc, một phần lãnh hải và nhiều hải đảo thuộc Trường Sa. Trung cộng
yên trí thỏa thuận ngầm giữa HK- TC năm 1972 đi đến kết thúc qua việc làm chủ
được Việt Nam và chắc chắn làm chủ được Biển Đông.
Trung cộng
mở cửa. Hoa Kỳ và Châu Âu đầu tư ào ạt nhanh chóng đẩy nền kinh tế Trung Quốc
phát triển vượt bậc. Từ một nước với nền kinh tế lạc hậu, bỗng chốc hàng hóa
Trung Quốc xuất cảng đi khắp thế giới, trữ kim tăng vọt và là chủ nợ lớn của
HK. Đệ nhất siêu cường thế giới giờ nầy cũng tỏ vẻ lép vế(?) thì Trung Nam Hải
còn e dè gì mà không đẩy mạnh sách lược hành động để gấp rút thống lĩnh Biển
Đông. Đổ tiền của mua chuộc và đầu tư vô điều kiện hòng làm chủ kho nhiên liệu
Phi châu, viện trợ và xây dựng hải cảng cho Bangladesh, viện trợ và lôi kéo
Pakistan, vẽ đường lưỡi bò đến tận Philippine chiếm trọn Biển Đông, đẩy thế lực
CSVN ra khỏi Lào, dùng mọi thủ đoạn khống chế Hà Nội, đổ tiền đầu tư những công
trình có tính chiến lược và ào ạc đưa nhân công vào Việt Nam nhằm đồng hóa và
thôn tính Việt Nam mà không tốn đến một viên đạn. Trung cộng thực hiện những điều
trên trước sự im lặng bất lực (?) của Hoa Kỳ và Tây Âu. Trung Nam Hải đánh giá
rằng Hoa Kỳ đang sa lầy ở Iraq và Afghanistan, kinh tế Tây Âu và Hoa Kỳ phải trải
qua hết suy thoái lại suy trầm. Báo chí và bình luận gia thế giới hết lời ca ngợi
một đại siêu cường Trung Hoa đang lên và chẳng mấy chốc sẽ thay Hoa Kỳ lãnh đạo
thế giới. Mộng thiên triều Đại Hán trở thành hiện thực trước mắt nên Trung Nam
Hải dốc tiền của tối tân hóa kho vũ khí nhằm trực tiếp đối đầu với Hoa Kỳ, đe dọa
nền an ninh các Quốc gia trong vùng. Trung cộng đã thực sự cỡi lưng cọp rồi !!!
Về đối nội, nhiều tổ chức chống đối, dân trí càng ngày càng cao đủ để ý thức rằng
tự do dân chủ là vốn quý không thể bị tước đoạt. Mặt đối ngoại, các quốc gia
trong vùng và dư luận thế giới cảm nhận mối đe dọa thực sự phát xuất từ một
Trung cộng hiếu chiến. Trung cộng càng vùng vẫy càng gây nỗi sợ hãi và càng bị
cô lập. Đợi chỉ có thế, Hoa Kỳ lên tiếng trở lại Biển Đông thể theo nguyện vọng
của các quốc gia trong vùng. Một liên minh được hình thành từ Ấn độ đến
Singapore, Úc, Nam Hàn ,Nhật bản ký thỏa ước quân sự song phương hoặc đa phương
cho tàu chiến và quân đội Hoa Kỳ hiện diện trên lãnh thổ của họ.
Tình hình
sẽ đi về đâu?
Chừng nào
Trung Quốc chưa thay đổi chế độ từ đó những lãnh thổ bị cưỡng chiếm tuyên bố độc
lập thì chừng đó thế giới chưa yên.
Chiến lược
toàn cầu của Hoa Kỳ từ sau thế chiến thứ hai là nhất quán. Từ đó tùy theo diễn
biến tình hình chính trị thế giới và phản ứng của đối phương, sách lược có thay
đổi, tiến trình khi thuận lợi, khi trở ngại, những con đường vòng nhiều đời tổng
thống Hoa Kỳ đã đi khiến thế giới phải đảo điên không luận ra nhưng tựu trung vẫn
nằm trong sự chỉ đạo của một quyền lực gần như vô hình. Giờ này Trung cộng
không còn lối thoát mà chỉ biết theo cái lao do chính họ phóng ra. Nền kinh tế
Trung cộng sẽ kiệt quệ vì nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chính
là chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ. Nếu Trung cộng không sụp đổ vì lý do kinh tế thì
chiến tranh tại Biển Đông sẽ xảy ra đồng thời với nội loạn đảng Cộng sản Tàu phải
sụp đổ là tất yếu, và dĩ nhiên CSVN cũng cáo chung nhường chỗ cho chế độ ĐỆ TAM
CỘNG HÒA xây dựng một Việt Nam tự do và phú cường và lúc đó qua thương thảo ngoại
giao Việt Nam sẽ thu hồi lại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Là người
dân Việt thực sự yêu nước tại Quốc nội và hải ngoại chúng ta phải làm gì trong
giai đoạn thuận lợi nầy để có hiệu quả tốt đẹp nhất cho Tổ Quốc Việt Nam?...
Quách
Vĩnh Niên
* Tác giả
Quách Vĩnh Niên là một cựu sĩ quan QLVNCH, tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt. Xin
chân thành cảm ơn tác giả Trần Việt Trình đã giới thiệu và gửi đến bài viết
No comments:
Post a Comment