Ngô Tổng Thống Muôn Năm |
Nguyễn Thu Trâm - Đối với phần lớn người từ miền Bắc di
cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác
mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vào khoảng 10 giờ sáng ngày 02
tháng 11, loan báo về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình
Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng
bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho
nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường
tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để
lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11
kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời
gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại
ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được
hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với
chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân
xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng
với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai
giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để
ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa,
bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính
sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư
vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng
tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng
tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của
ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau
khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên
Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và
chính phủ Cộng
Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến. Từ
vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt
Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước
phải bị
chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm
họa của
dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất
nước khi
Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789
khi Hoàng Đế Quang
Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5
Tết Kỷ
Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và
Chúa Nguyễn
mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh.
Có một
điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không
còn là sông
Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí
Minh ký hiệp
ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông
Bến Hải
đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954
cho đến
1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam |
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản
trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người
dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ
di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19
tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm
cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định
Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công
nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ
tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng
có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do
Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện
của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận
việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố
riêng:
“... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng
Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không
tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị
ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo
vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất,
Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của
đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần
văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về
điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn
đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm
thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi
hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân
Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt
Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn
cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập.
Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di
cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết,
tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam
từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu
gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất,
hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và
khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống
nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí
Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông
Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt
Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của
Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự
việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện
nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực
dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau
đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam
là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức
tuyển cử
thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ
sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên
bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử
tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng
"nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở
miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn
thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ
có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ,
để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt
Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam
tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không
bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành
phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ
tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở
lại với việc di cư vào Nam, gia
đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó,
những vụ đấu
tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh
hoàng, và cả
những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu
nước, những
chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về
những cái
chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách
thống
trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn
nạn cho
nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có
đủ chi
phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù
chuyến
hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm
cao
trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn
bỏ nước
ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải
ai cũng
có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do này.
Cho
nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong
suốt
300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn
người miền Bắc
di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính
quyền cộng
sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp
Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng
dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không
đến được
tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên
tạc chính
sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư
vào Nam
tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại
chính phủ
của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra
đi, nhưng
vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì
chắc chắn
là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa
chân,
quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do vậy mà phần lớn những người di cư
vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu
tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư
sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không
thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra
đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị
chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư". Cộng sản
Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào
Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó
là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế
các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và
các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về
chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề,
cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do
đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến
800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó, có những bằng chứng cho
thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm
do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân
chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều
tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về
hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai
nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy
rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế
Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản
hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc
dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng
45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện
Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào
Nam.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp
một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một
ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức
cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh
Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh
viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không
nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch
Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi
là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim
bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một
là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết
là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với
người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết
tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc.
Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam,
Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam".
Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự
tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh
nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ
Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên
quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của
những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm
hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức
Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn
bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi
nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời
nơi chôn nhau cắt rốn.
Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần
nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư
chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng
sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào
ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm
họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp
của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi
Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức
là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu
người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc
tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng
sản thêm một lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần
tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự
bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng
máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị
ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường
gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không
phải trả giá.
Nhiều
người cho rằng chính những kẻ phản
loạn và ăn cháo đá bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn
Minh, Mai
Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm
Xuân Chiểu,
Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn
Kim… là
những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng
miền Nam
cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh
sau đẻ
muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp
chướng
của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ
“ác ôn
côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc
nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ
như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với
một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước,
đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã
ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng
phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm
cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất,
chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch
sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi viết lên bài này chỉ là để làm
tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng
tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi
ách cộng sản vào năm 1954.
Như một nén hương lòng xin thành kính
dâng lên Cụ
28/10/2012
No comments:
Post a Comment