MỘT BÍ ẨN CỦA TÂM LINH
Nguyên Nhung - Hình như
suốt đêm qua tôi không ngủ, lại lơ mơ nhớ đến một lời hưá với con cuả người tù
đã chết chiều 30 Tết năm 1977 tại vùng Sơn La - Việt Bắc thâm u những mồ hoang mả
lạc. Chuyện thật 100%, không hư cấu, cũng không phải chuyện ma, nhưng cứ như một
cơ duyên bí ẩn của tâm linh, tình cờ mà đến, phải chăng vẫn có một thế giới vô
hình không hiểu được.
Khoảng đầu
năm nay, tôi đang lơ mơ ngồi đọc email cuả mấy người bạn, thì một lá thư cuả
người bạn thân từ bên Úc gửi qua, bạn nhờ có quen ai ở Trà Vinh thì tìm giùm
thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, một giáo sư biệt phái bị đi cải tạo và đẩy ra
miền Bắc, anh đã chết trong một xó xỉnh nào đó cuả miền Việt Bắc, may là còn lại
tấm bia mộ.
Anh gốc
người Trà Vinh, vợ con sau khi mất tin chồng đã tìm đường vượt biển, chẳng biết
bây giờ ở đâu. Tôi nhanh nhẩu ngồi liền vào máy viết thư cho nhà thơ Huỳnh Tâm
Hoài, một nhà thơ gốc Trà Vinh có những bài thơ được phổ nhạc rất hay là Lời Ru
Sóng Vỗ, do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Tân phổ nhạc.
Như một
bí ẩn của tâm linh, anh Huỳnh tâm Hoài vưà là bạn tù, vừa là bạn học cùng thời
với anh Chung Hữu Hạnh. Đọc tin anh buồn vui lẫn lộn, buồn vì nhớ bạn mình đã
chết đơn độc vùi thân nơi rừng sâu núi thẳm, vui vì đã tìm được mộ thì hy vọng
sẽ có ngày bạn mình được về hưởng hương khói gia đình.
Chỉ trong
5 ngày tin phóng đi, một người đã tìm ra thân nhân cuả anh Chung Hữu Hạnh, và
tháng 6 năm nay chị Hạnh cùng các con đã tìm ra miền Bắc bốc mộ chồng đem về an
táng tại Trà Vinh. Anh Chung Hữu Hạnh là thầy cuả vợ bạn tôi, chắc thầy sống
khôn thác thiêng nên tìm tới cô học trò để rồi cái đường dây loanh quanh trong
cõi vô hình, cuối cùng thầy cũng tìm được về quê nhà, được sự chăm sóc khói
hương cuả vợ hiền và các con.
Bạn tôi gửi
cho tôi xem những tấm hình cảnh bốc mộ cuả anh Hạnh, nhìn nắm xương phù du còn
lại được bươi lên từ đất cát khô cằn của miền Bắc, tôi cảm thấy ngậm ngùi, tất
cả đều là vô thường, một ngày nào đó ai cũng phải tan thành tro bụi. Sẵn trớn
tôi viết thư kể cho bạn tôi nghe về người tù chết chiều 30 tết, tôi cũng chả biết
anh ta là ai, chỉ nghe chồng tôi kể lại ngay cái tên cũng không nhớ. Câu chuyện
từ mùa đông năm 1977 tại trại tù vùng Sơn La, nằm trên con đường đến Nghĩa Lộ.
Chiều cuối
năm rét mướt, trong cảnh u ám thê lương cuả trại tù miền Bắc, cùng nỗi
đói khát cuả những người tù gầy guộc và bịnh tật. Cả lán đang xôn xao ngoài sân
chờ được phân phát thức ăn cuả ngày tết, quanh năm đói khát vất vả vẫn hy vọng
có chút thức ăn ngon, khẩu phần là hai cái bánh chưng to hơn bàn tay, và mấy miếng
thịt bé bằng ngón tay cái. Trong lán giữa nhà là đống củi lửa cháy bập bùng, sưởi
chút ấm áp cho người tù vì trời vô cùng giá rét mà chăn chiếu lại thiếu. Mọi
người ai cũng buồn vì nhớ gia đình, cám cảnh “gặm một mối hờn căm trong cũi sắt”.
Ở cuối phòng có một chỗ nằm đã giăng mùng xùm xụp, một người bạn không thấy anh
bạn tù ra lãnh món bánh chưng mà mấy ngày hôm trước anh ta thường than thở rằng
chỉ thèm một miếng bánh chưng, nên đã tốc mùng xem thì thấy anh bạn tù nằm chết
tự bao giờ.
Cả lán lại
chìm trong nỗi buồn, giữa đêm tận cùng cuả năm mà hình ảnh người bạn tù chung nằm
chết trong lán, như một ám ảnh khiến ai cũng nghĩ đến phận mình, một ngày nào sẽ
bỏ xác nơi đây, gia đình thân nhân không ai hay biết. Báo cho quản giáo xong, họ
xem xét thấy anh đã ngưng thở, nhưng vẫn hỏi ai có thể làm hô hấp nhân tạo cho
anh ấy được không?
Mọi người
lặng im, lúc ấy không hiểu sao thì chồng tôi lại xung phong làm việc ấy đối với
một xác chết, nuôi một chút hy vọng nếu anh ấy thở lại được thì sao? Nhưng hoàn
toàn vô vọng, bốn người tương đối trẻ và khoẻ được chọn để khiêng xác anh bỏ ra
cái lò rèn, nằm đó chờ đến ngày mùng hai mới đem chôn, vì kiêng ngày mùng một tết
(síc). Một vị thượng toạ thấy vậy đã lẻn đam phần ăn ngày tết cuả anh ra nơi
quàn xác để âm thầm gọi là tiễn đưa linh hồn người bạn tù được “no nê” ở thế giới
bên kia. Thảm thật!
Ngày liệm
xác anh vào cái hòm gỗ thô sơ, xác anh được cuốn vào một cái bao cát, thay cho
anh một bộ đồ tù mới, chồng tôi thấy tội nghiệp đã lấy chiếc áo thung xanh cuả
người chết để anh gối đầu lên cho đỡ thảm, người ta còn cố tuột cho được cái nhẫn
cưới trong bàn tay gầy guộc cuả người tù ốm đói. Sau này nghe con anh kể, chiếc
nhẫn ấy đã được gửi về trả lại cho gia đình, nhưng mộ phần thì không biết thất
lạc nơi đâu vì trại tù đã bị dời đi, trả lại cái nền hoang cho dân chúng địa
phương canh tác ruộng bắp. Anh là người tù đầu tiên chết ở miền Bắc muà xuân
năm 1977.
Ngày mùng
hai, lại bốn người tù được chọn lầm lũi đẩy chiếc xe “ cải tiến” có quan
tài cuả người tử sĩ đem đi chôn. Không có một nghĩa địa nên buộc lòng phải vùi
anh một nơi nào đó dọc theo sườn núi. Tất cả suy nghĩ rồi quyết định chôn anh
trong một lòng huyệt nông vì đá tai mèo cứng quá không đào nổi, bên một dòng suối,
thoai thoải là sườn núi chênh vênh với cây rừng, anh nằm đó để linh hồn được
thanh thản nghe tiếng suối reo, nghe cây rừng than van với bốn bề hiu quạnh.
Trước khi về, họ còn ráng khiêng những tảng đá lớn chất lên mộ để đánh dấu, hy
vọng một ngày nào đó thân nhân sẽ tìm được mộ của người thân ….
Đường Tìm Về Với Thân Nhân:
Đường Tìm Về Với Thân Nhân:
Tôi gõ “meo” kể câu chuyện này cho bạn tôi nghe, rồi đi ngủ, lòng không mảy may vướng bận. Sáng hôm sau, khi xong việc nhà tôi vừa mở email thì đã thấy thư cuả bạn, với chữ Khẩn trong Subject. Tôi đọc thư, vắn tắt bạn viết:
“Đây là
chuyện thật, không phải hư cấu để nhà văn viết truyện. Làm ơn hỏi ông xã giùm hồi
xưa anh bạn tù chết chiều 30 tên gì, vì con anh đi tìm mộ cha ba năm rồi mà
không ai biết, chỉ mơ hồ nên không biết chính xác mộ nằm ở đâu. Please! Hồi âm
cho biết vì rất mong, con anh sắp trở về VN tìm lần nữa vào tháng 7 này.”
Tôi giật
mình, lại một chuyện lạ, chẳng lẽ hồn anh Chung hữu Hạnh lại dẫn bạn tù về tìm
đúng người để về với gia đình sao? Ớn lạnh, tôi là tác gỉa cuả một loạt
truyện Cõi Mù Sương viết về thế giới bên kia, nhưng thật ra tôi toàn mượn chuyện
người sống để nói về người chết, hư cấu 100%. Chờ chồng tôi đi làm về, tôi kể
chuyện, sau đó liên lạc với con anh người tử sĩ, anh tên là trung úy Huỳnh tự
Trọng, sinh quán ở Đà Nẵng hay Quảng Nam gì đó.Người con cuả anh liền xin số
phone để liên lạc, cháu yêu cầu chồng tôi cố nhớ lại vị trí cuả trại tù ngày
xưa, và nhất là vị trí cuả nơi chôn cất anh Huỳnh tự Trọng.
Hơn 30
năm vật đổi sao dời, dâu hoá biển, biển hoá dâu là chuyện thường, bây giờ chẳng
biết cảnh cũ thay đổi ra sao, nhưng may ra còn dãy núi, còn con suối làm chứng
cho cái trại tù heo hút ngày xưa. Đấu óc một người đã từng sống trong cảnh tù đầy
thiếu ăn thiếu mặc, thêm nhiều năm vất vả với cuộc đời để tìm nguồn sống cho cả
gia đình, chắc chắn là không nhớ hết được, thế nhưng như một sức mạnh thiêng
liêng, từ linh hồn người tử sĩ, chồng tôi đã vẽ được sơ đồ cho con anh bạn
tù bạc mệnh đi tìm lại mộ cha.
So sánh với
sơ đồ anh vẽ, và những hình ảnh các cháu đã chụp lại trong chuyến đi kỳ trước,
khó mà tìm ra mộ vì tất cả chỉ còn một màu xanh của ruộng bắp, không thấy suối,
hòn đá cao chắn ngang lối mòn năm xưa cũng không còn, lấy gì để xác định được
ngôi mộ nằm ở chỗ nào.
Hành
Trình Đi Tìm Mộ Cha:
Thư qua
tin lại với con cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng, nhiều câu hỏi được đặt ra qua những
thông tin của cháu, sự tha thiết tìm lại ngôi mộ của người cha bất hạnh vẫn
nung nấu trong lòng những đưá con. Có lúc cả hai bên tưởng như tuyệt vọng, dù
cháu cố nài nỉ “Chú ơi! Làm ơn nhớ giùm con, lúc ấy chú đi từ trại ra nơi
chôn ba cháu ra sao? Chú chấm thử một địa điểm lần chót nữa đi, cháu hy vọng ba
cháu sẽ chỉ cho chú…” Cảm động đến rơi nước mắt, chỉ còn hai hôm thôi hai
đưá con anh lại lên đường đi tìm mộ cha, lần này nếu không được là thôi, hết hy
vọng.
Tối hôm
đó ngồi thần thừ trước tấm sơ đồ trại tù miền núi năm xưa, chồng tôi thầm cầu
nguyện rồi khoanh tròn màu đỏ lên tấm ảnh mà cháu gửi qua. Anh nghĩ nó nằm ở chỗ
này, làm một phép tính nhỏ (anh học ban B, vốn giỏi toán từ hồi đi học), lấy
khoảng đứng từ ngoài đường vào trại tù cũ, gần một ngã ba cuả con đường tẽ vào
Nghĩa Lộ, rặng núi đánh dấu cho địa điểm chính xác, ngôi mộ sẽ nằm ở khoảng
này, khoanh một vòng tròn màu đỏ, anh đi ngủ để mai đi làm mà lòng nặng trĩu…
Theo chuyện
kể cuả các cháu, chuyện người tử sĩ Huỳnh Tự Trọng ly kỳ như một cuộn phim tâm
linh khó giải thích, dọc đường đi anh đã phù hộ cho con anh ra sao, và khi đến
nơi, lần trước các cháu đã biết có một ngôi miếu do một người bộ đội đã phục
viên kể lại. Chính anh ta vì được một linh hồn khuất bóng lảng vảng nơi này cứu
giúp trong cơn hoạn nạn, nên đã tự lập một ngôi miếu để thờ, mà chẳng biết là
ai. Anh ta về quê làm rẫy, thường hay thấy một bóng người đi ra đi vào ruộng bắp,
nhưng chỗ ấy không có nhà cửa thì lấy làm lạ, có khi cái bóng ấy còn đi vào nhà
anh, nên anh tin là có một điều gì lạ lùng trong thế giới vô hình mà không diễn
tả được. Trước khi đến đây làm nhà, anh ta nghe dân địa phương nói chỗ sườn núi
này có một ngôi mộ nhưng bây giờ không biết nằm đâu rồi. Khi gia đình gặp chuyện
không may, anh van vái người khuất mày khuất mặt phù hộ gia đình anh thoát nạn,
anh sẽ cất miếu thờ, chính vì vậy mà có miếu thờ tử sĩ Huỳnh Tự Trọng (nhưng vẫn
không có tên).
Trước khi
các cháu lên đường tìm mộ cha, chồng tôi chỉ bảo một lần chót: “Chú không
tin lắm ở trí nhớ cuả mình, nhưng khuyên cháu là khi về nên đến cái miếu thờ ấy
van vái ba cháu cho tìm được mộ. Nếu linh hồn ông thiêng thật, nhất định các
cháu sẽ tìm ra mộ cha.”
Một tin
tưởng để vớt vát niềm hy vọng cho con cuả người bạn tù năm xưa, chúng tôi không
tin rằng các cháu có thể tìm được mộ cha dưới gần 3 thước đất, vì sau khi gặp
được người địa phương nổ mìn phá núi để lấy đá, ông ta nói ngày xưa nơi đây có
cái suối nước nhưng bị lấp mất rồi, còn hòn đá to chặn ngang đường đi đã bị phá
huỷ để lấy đá làm đường thì có lẽ trong lúc ấy, đã đẩy ngôi mộ sâu xuống đất
nên không còn dấu vết.
Nghe xong
những chi tiết này, con anh Huỳnh Tự Trọng liền suy nghĩ và tính toán xem mộ
cha sẽ nằm ở khoảng nào, đúng với cái vòng tròn màu đỏ và quyết định không bỏ
cuộc. Cộng thêm giấc mơ anh Huỳnh Tự Trọng báo mộng, xác anh nằm gần một mô đất
cao, cháu nhìn thì thấy có một mô đất cao hơn đường đi nên nhất định đào sâu
thêm nữa theo hình tam giác cuả sợi dây giăng làm chuẩn. Mấy người đào mộ thấy
đào sâu quá bèn hỏi bộ định đào ao nuôi cá sao?
Vậy mà
khi nhát xẻng chạm vào một khoảnh đất cứng hơn, mọi người mới bàng hoàng nhận
ra những mảnh gỗ mục và hiện ra hình dạng một bộ xương người nằm trong cái bao
cát tẩm liệm 33 năm dài trong lòng đất, loại bao này bằng ni lông cuả quân đội
VNCH, được cắt ra chia cho tù dài khoảng 2 mét để làm tấm trải ngủ. Khi mở ra,
cái đầu lâu khô cuả tử sĩ Huỳnh Tự Trọng còn gối lên chiếc áo thun xanh năm
xưa, chỉ bị huỷ hoại khoảng 20%...
Một buổi
chiều tháng bảy ở quê người, trong khi tôi đang nói chuyện qua phone với Đỗ
Dung, cô bạn văn có ngòi bút trung thực và tính tình điềm đạm nhất cuả tôi thì
chồng tôi báo tin, các con anh Trọng đã tìm được xác cha. Tôi cảm thấy lạnh cả
sống lưng, và kể chuyện cho bạn tôi nghe. Chao ơi! người chết tìm về, tin hương
linh người tử sĩ không quen tìm về với gia đình anh đã làm tôi xúc động, tôi
cũng cảm được sự xúc động cuả bạn tôi qua giọng nói từ xa vọng tới…
Đây là
câu chuyện về người tù chết chiều 30 tết trong một ngày cuối đông rét mướt đã
33 năm về trước, anh đã tìm về được với gia đình, trở về với mảnh đất quê nhà
và hưởng hương khói gia đình. Hôm nay còn lại một vài ngày nữa để bước sang một
năm mới, tôi nhớ đến lời hưá với con cuả người tử sĩ, nên viết một mạch cho tâm
hồn thanh thản.
Xin mời
những nhà thơ nhà văn có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động như cung đàn muôn điệu
cùng với gió với mây, hãy cảm tác mấy vần thơ cho ấm lòng người tử sĩ.
Phần tôi, quá mệt cho một đêm không ngủ để nhớ lại từng chi tiết vì câu chuyện không thể nào hư cấu được.
Phần tôi, quá mệt cho một đêm không ngủ để nhớ lại từng chi tiết vì câu chuyện không thể nào hư cấu được.
Nguyên
Nhung
No comments:
Post a Comment