Thursday, February 14, 2013

THẦN TƯỚNG NGUYỄN VIẾT THANH

lịch sử việt   nam cận đại, tướng nguyễn viết thanh

Thần tướng Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1971) Ông sinh năm 1930 tại Đà Lạt. Nhập ngủ khóa 5 trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt năm 1952. Thăng cấp Chuẩn tướng năm 1966 giữ chức Tư lịnh Sư đoàn 7 bộ binh thuộc Quân đoàn IV Quân khu IV. Trong trận Mậu Thân 1968, ông và đơn vị thuộc quyền đã giữ vững an ninh trong toàn khu vực trách nhiệm, và năm sau 1969 được vinh thăng Thiếu tướng. Đồng thời được đề cử giữ trách nhiệm Tư lịnh quân đoàn IV quân khu IV. Đức tính bình dị, thân ái của ông đã lan tỏa đến các quân nhân thuộc quyền cũng như đối với dân chúng, đã khiến cho mọi người kính trọng và ngưỡng mộ một vị tướng lãnh tài ba, đức độ như ông. Sự ngưỡng mộ và kính trọng đã cũng đã thể hiện nơi vị Tướng cố vấn trưởng quân đoàn IV.
Tháng 5/1970, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa chia làm hai nhánh tấn công vào bộ chỉ huy trung ương cục miền Nam của Việt cộng. Phía Bắc cánh quân của quân đoàn III do Trung tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy tấn công vùng Lưỡi câu; phía Nam cánh quân của quân đoàn IV do Trung tướng Nguyễn Viết Thanh làm tư lịnh tấn công vùng Mõ Vẹt. Nhưng ngay ngày đầu tiên của chiến dịch, chiếc trực thăng chỉ huy của ông lúc đang bay theo các đơn vị thuộc quyền đã chạm vào chiếc Cobra (trực thăng võ trang) và nổ tung trên không trung cách biên giới Việt Nam khoảng 10 cây số. Tướng Nguyễn Viết Thanh và phi hành đoàn 10 người đều tử nạn. Cái chết của ông đã khích lệ đoàn quân Tây tiến và đã tạo nên những chiến thắng hào hùng của QLVNCH trong cuộc hành quân Cao Miên.
Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh 
Vào giữa năm 1968, Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV. Lúc đó tôi làm Tổng Thư Ký Hội Đồng Tái Thiết Phát Triển kiêm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tỉnh Kiên Giang.
Hàng tháng tôi thường về họp tại Trung Tâm Điều Hợp Quân Khu do Đại Tá Phạm Văn Út làm Trung Tâm Trưởng và thỉnh thoảng có ghé qua thăm Thiếu Tướng Thanh.
Nhân một buổi họp cuối năm, tôi có chở theo vài món đặc sản Rạch Giá như nước mắm nhĩ Phú Quốc, khô cá thiều và một ít bánh ú lá dừa biếu gia đình ông. Vì biết tôi có quà cho Tướng Thanh nên Trung Tá Tỉnh Trưởng Kiên Giang cũng nhờ tôi chở theo một số quà biếu Tư Lệnh. Ông nghe tiếng Thiếu Tướng Thanh rất thanh liêm, không ưa vụ biếu xén quà cáp, nên ông không dám đích thân đi biếu mà nhờ tôi là chỗ thày trò cũ, may ra được nhận chăng?
Hôm đó sau buổi họp ở văn phòng Đại Tá Út, tôi qua thăm Tư Lệnh. Thiếu Tướng Thanh niềm nở tiếp tôi, hỏi thăm chuyện vợ con, hỏi thăm Thiếu Tướng Khuyên, rồi ông nói: "Bây giờ cũng trưa rồi, Quý qua bên nhà ăn cơm với vợ chồng tôi nhé, ăn chay đó." Tôi thưa: "Cám ơn Thiếu Tướng, hôm nay đàn em không xin được trực thăng, phải đi đường bộ, về trễ sợ nguy hiểm, lần sau sẽ xin ghé tư dinh thăm chị luôn."
Tôi tranh thủ trình bày vụ biếu quà, ông bảo: "Thôi được, món nào của anh thì tôi nhận, nhưng chỉ lần này thôi nhé. Còn của anh Tỉnh Trưởng thì anh đem về nói là tôi rất cám ơn, nên đem mấy món quà đó tặng cho anh em thương bệnh binh nhân dịp Tết cho họ mừng. Đó là điều mà cấp chỉ huy nên làm." Bất giác tôi chợt nhớ đến cái Tết 10 năm trước ở Vĩnh Bình. Sáng mồng một Tết, ông cùng Thiếu Tá Khuyên vào bệnh viện tỉnh thăm thương bệnh binh. Rồi suốt ngày mồng hai Tết, ông hết đứng lại ngồi đăm chiêu trước bản đồ hành quân để nghiên cứu địa hình và tình hình địch. Hình như ông nóng lòng trông cho mau đến ngày mồng 3, hết hạn hưu chiến để tổ chức hành quân Bình Định. Cuộc đời của ông chỉ biết phục vụ, phục vụ và phục vụ, chí công vô tư, xả thân vì nước.
Một năm sau trong bữa cơm chiều tôi được tin Thiếu Tướng QĐIV tử nạn máy bay trên vùng trời Kiến Tường. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Thế là hết ! Một ngôi sao sáng vừa lịm tắt. Quân Lực mất đi một vị tướng tài ba, công minh chính trực và một cấp chỉ huy hết lòng thương yêu lính.
Sau khi mất ông Thanh được truy thăng Trung Tướng (tác giả Quế Sơn Nguyễn Mậu Quý).
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh
Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc
Cuộc chiến đấu gian khổ chống lại làn sóng xâm lăng của đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, trong đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa làm nỗ lực chính thường không được báo chí ngoại quốc coi như là biểu tượng của chính nghĩa. Báo chí Pháp thì vẫn cay cú vì cú đá "Điện Biên Phủ" của người Mỹ, hất cẳng đám con cháu của ông già mũi lõ De Gaulle ra khỏi Đông Dương, đâm ra giận lây đất nước non trẻ Việt Nam Cộng Hòa, cho nên thường lái ngọn bút hướng dẫn sai dư luận quần chúng, coi thường tư thế quốc tế và ý nghĩa chiến đấu của miền Nam. Báo chí Pháp không nói làm gì, đến báo chí Mỹ "phe ta" mà cũng kiếm chuyện bôi nhọ quân lực VNCH mới là chuyện ly kỳ. Có nhiều kẻ đoán già đoán non cho rằng có lẽ lũ chúng nó ngậm miệng ăn tiền của Việt cộng và mấy "ông thày " vĩ đại như Liên Xô, Trung cộng đến bạc tỉ nên chúng nó cứ chửi bới ba họ nhà miền Nam, bóp méo sự thật làm cho dân chúng Hoa Kỳ hoảng kinh hồn vía dậy lên những làn sóng phản chiến ồn ào vui vẻ đếch chịu nổi.
Tuy nhiên không phải lúc nào quân lực VNCH cũng chiến đấu trong cô đơn thầm lặng và trong nỗi đắng cay cơ cực không ai biết đến. Cũng vẫn còn những cái đầu sáng suốt và tỉnh táo, những lương tâm trong sáng và những tấm lòng trân trọng với Việt Nam Cộng Hòa. Thí dụ như nhóm của đại tài tử Charlton Heston, ông từng thủ diễn trong nhiều bộ phim vĩ đại như Ben Hur, Mười Điều Luật Chúa, Con Thuyền Noé,v.v...Charlton Heston đã cất công sản xuất một cuốn phim tài liệu bênh vực quân lực VNCH và đích thân Charlton Heston đứng thuyết trình để tăng thêm liều lượng thuyết phục quảng đại quần chúng. Công việc hoàn toàn vô vị lợi và không thu vô được một xu nhỏ nào, vì VNCH nghèo lắm không có tiền lo lót. Charlton Heston chỉ thấy "ngứa mắt" vì thiên hạ bất công với VNCH cho nên ông nổi máu người hùng miền viễn Tây lên bênh vực kẻ cô thế. Một khuôn mặt khác từ giới báo chí Mỹ, ông David Fulghum, cựu sĩ quan hải quân Mỹ, tốt nghiệp ngành "Lịch Sử Quân Sự và Ngoại Giao" tại đại học danh tiếng Georgetown, làm việc cho tổ chức U.S. News & World Report Book Division; và ông Terrence Mailand viết cho báo Newsweek và Boston Globe. Hai ông này có một bài viết chung trong quyển "South Vietnam On Trial" (Miền Nam Trên Đà Thử Nghiệm), nhận định "sơ khởi" về tình hình khan hiếm chỉ huy chiến trường cấp sư đoàn và cấp quân đoàn trong cuối thập niên 60. Hai ông đã đưa ra hai khuôn mặt tiêu biểu và kiệt xuất nhất của quân lực VNCH trong thời điểm đó là Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh mà chúng tôi xin được tóm lược nội dung bài viết như sau. Dĩ nhiên dưới cái nhìn của những người ngoại quốc dù là có thiện cảm rất nhiều nhưng có thể cũng có một số điểm phê bình đụng chạm một cách phiến diện đến tình hình chung của tướng lãnh thời ấy. Chưa chắc họ đã nhận đúng và chúng ta cứ tự an ủi là hết thảy tướng tá của ta đều số dzách, cho vui vẻ cả làng.
Theo hai me sừ như đã giới thiệu ở trên, hai ông cho rằng hễ một khi có tướng lãnh lừng lẫy thì sẽ có quân đội anh dũng, lịch sử giữ nước của Việt Nam đã chứng tỏ điều đó. Cho nên để chận đứng đà tiến công mạnh mẽ của Bắc quân, Nam quân cần có những tướng lãnh giỏi có thể thổi bùng lên niềm hùng khí chiến đấu của quân sĩ và tư cách của những vị ấy có thể thay thế được chỗ trống to tổ bố một khi quân Mỹ rút hết về nước. Nhưng theo một bản tường trình dài dằng dặc và đáng buồn của cơ quan MACV (Military Assistance Command in Vietnam), tức Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam, về tình hình chỉ huy chiến trường trong cuối những năm 1960, thì hầu hết những tướng lãnh Việt Nam nằm trong bảng phong thần đều được cho điểm...rớt lạch bạch như những chiếc lá mùa thu. Đại khái MACV dám cả gan phê bình giới tướng lãnh là "hết sức thụ động", nào là "yếu kém", nào là "thầy chạy" (coward). Tuy vậy để bào chữa cho những yếu kém ấy, bản tường trình đã cho thêm một câu thòng là có thể những cái đó xuất phát từ thái độ thận trọng, không muốn bộc lộ tài năng chăng. Vì thực trạng miền Nam lúc đó bất cứ một tướng lãnh nào cùng với một đội quân thiện chiến và trung thành với ông ta cũng đều bị những cặp mắt nhòm ngó nghi kỵ từ cấp cao nhất. Kinh nghiệm của những cuộc đảo chánh năm 1960 và 1963 đã chứng minh điều đó, một xứ sở không cho phép bất cứ một ai trở thành người hùng dài lâu.
Rà tới rà lui mãi mới đề ra được hai khuôn mặt sáng giá nhất, có tài chỉ huy trên chiến trường nhưng không có tham vọng chính trị. Đó là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến Thuật (năm 1972 tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh chuyển những vùng chiến thuật thành quân khu) với các sư đoàn thuộc quyền là Sư Đoàn 5 Bộ Binh, SĐ18BB và SĐ25BB. Vị thứ hai là Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh, tư lệnh Quân Đoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật với các SĐ7BB, SĐ9BB và SĐ12BB. Cả hai vị tướng đều trẻ, tự tin và vô cùng năng động, chỉ mới nổi lên sau Tết Mậu Thân, chứng tỏ được là những vị tướng có thực tài, có khả năng kích thích tinh thần chiến đấu quân sĩ và có tầm nhìn chiến lược. Sự nổi lên của hai vị tướng lãnh một phần cũng xuất phát từ ý đồ chính trị của TT Thiệu nhằm loại bớt một số tướng lãnh thuộc "phe" Phó TT Kỳ, đưa những tướng lãnh "trung lập" lên hay ít ra, không có tham vọng chính trị, chỉ biết đánh giặc làm niềm...vui duy nhất mà thôi. Hay biết chắc là họ sẽ trung thành và cho họ trấn đóng ở hai quân khu giàu có nhất và gần cận nhất để đem quân về cứu giá khi cần. Cho nên những vị tướng tá nào được cho về làm tư lệnh SĐ7BB coi như nắm chắc chiếc ghế tư lệnh quân khu trong tương lai gần. Thí dụ như trường hợp Tướng Nguyễn Viết Thanh, kế đến là Thiếu Tướng Nguyễm Khoa Nam, đều là những vị tư lệnh quân khu 4 xuất thân từ tư lệnh SĐ7BB.
Theo bảng lượng định của MACV thì tuy SĐ7BB không có gì xuất sắc hơn SĐ9BB hay SĐ21 BB, tuy nhiên Thiếu Tướng Thanh có phần nhỉnh hơn với những tiếng tốt trong quân đội. "Nhất Thắng, Nhì Chinh, tam Thanh, Tứ Trưởng", là những vị tướng đánh giặc lả lướt nhưng cũng rất thanh liêm. Hơn nữa, Tướng Thanh được Đại Tướng William C. Westmoreland đánh giá là viên tướng kiệt xuất nhất trong các vị tư lệnh sư đoàn. Tuy nhiên Westmoreland và bộ tham mưu của ông ta cũng rất dè dặt không dám ra mặt thổi phồng Tướng Thanh nhiều hơn nữa, vì sự ủng hộ về phía Mỹ đối với một tướng lãnh nào đó một cách lộ liễu, ở một khía cạnh nào đó có thể là bản án...tử hình cho ông ta mà thôi. Nhưng may mắn cho Tướng Thanh, Tonton không những hài lòng khả năng tác chiến của Tướng Thanh mà "người" còn rất tán thưởng thái độ thờ ơ với chính trị của ông.
Trở lại với những huyền thoại về Thiếu Tướng Thanh. Có thể nói ông là một trong những vị tướng hiếm hoi được lòng binh sĩ và cả lòng dân. Chỉ có những vị tướng lừng lẫy khác như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng hay Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam mới đạt được cả hai thứ ấy. Danh tiếng của Tướng Thanh và lòng dân thương yêu ông to lớn như thế nào, chúng ta hãy nghe một câu chuyện cảm động do Thiếu Tướng Cố Vấn Quân Đoàn 4, ông George Eckhardt, kể lại. Trong một dịp đi thanh sát đơn vị cũ của ông là SĐ7BB tại Mỹ Tho, đoàn của Tướng Thanh đang dùng cơm trưa trong một nhà hàng, vô cùng âm thầm và không kèn không trống. Nhưng không hiểu sao tin tức xì ra ngoài và chẳng mấy chốc dân thị xã rần rần kéo tới như đi hội chợ và reo hò chào mừng vị tướng thân mến của họ. Trung Tướng Thanh buộc phải ngừng bữa ăn và tiến ra chào hỏi bắt tay từng người dân một trong suốt 45 phút. Một sự kiện kỳ lạ lẫn kỳ diệu xảy ra ngay trước những cặp mắt sửng sốt của người Mỹ.
Cũng trong thời điểm ấy Trung Tướng Đỗ Cao Trí mới vừa nhiệm chức đã hăng hái bắt tay ngay vào việc chỉnh đốn những sư đoàn nghiêng ngả và rách nát của ông, mà theo lượng giá của các cố vấn quân sự Mỹ thì SĐ5BB là "sư đoàn bết bát nhất chưa từng thấy", còn SĐ25BB thì là "sư đoàn dở nhất trong tất cả các sư đoàn", trong khi SĐ18BB cũng không khá hơn và đã được cải đổi từ sư đoàn "bù mười nút", tức SĐ10BB ra thành sư đoàn "hên chín nút", tức SĐ18BB cho mãi đến ngày nay. Công việc của Tướng Trí hết sức vất vả, nhưng chẳng mấy chốc phần thưởng xứng đáng đã hiện ra rõ nét. Trong cuộc tấn công của Quân Đoàn 3 vào đất Kampuchea, SĐ5BB đã không phụ lòng trông cậy của ông và đã đánh những trận để đời. Sau này Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng cũng đã cùng với SĐ5BB tử thủ anh dũng ở An Lộc, viết nên trang sử hào hùng trong chương sử hoàng tráng của Việt Nam Cộng Hòa. SĐ18BB trong những giờ phút hấp hối của VNCH đã vượt trội lên thành sư đoàn thiện chiến nhất của QLVNCH dưới quyền của Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo đã làm cho Văn Tiến Dũng, vị tướng "hay không bằng hên", phải ngừng ngay tiếng hót và ngậm bồ hòn ngay tại ngưỡng cửa Sàigòn. Việt Cộng đã cay đắng quá đối và đã hèn hạ trả thù vị tướng anh dũng ấy sau năm 75 bằng cách giam ông hơn 20 năm và có lẽ ông là vị tướng ra về chót hết trong số những vị tướng VNCH. SĐ25BB của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá trấn thủ vững vàng ở mặt Tây Bắc Sàigòn và chỉ chịu rã ngũ vào những giờ phút cuối cùng nhất của cuộc chiến. Riêng viên tướng trẻ từng nổi danh thế giới trong mùa hè binh lửa 72 ở mặt trận Kontum, chỉ với một mảnh rách nát của SĐ23BB đã chuyển bại thành thắng, góp phần tống tiễn tướng "hên" trong trận Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp cay đắng lui về vườn đuổi gà, nằm gậm nhấm nỗi buồn bại tướng.
Đánh giá của bảng tường trình thì Tướng Trí là mẫu người ngoại hạng, có thể hoàn thành những công việc hầu như là vượt quá sức người. Ngôi sao Đỗ Cao Trí sáng chói quá đỗi cho nên cấp chỉ huy cao nhất cũng không thích ông và có tin đồn rằng cả 2 cuộc mưu toan ám sát ông bất thành đều có sự nhúng tay từ trên tận chóp đỉnh quyền lực. Tướng Trí cũng bị tung hỏa mù là một tay tham nhũng gộc, có lẽ muốn hạ uy tín quá lớn của ông. Những tờ báo lá cải thì tung tin Tướng Trí đào địch lăng nhăng trong giới thượng lưu. Bỏ qua hết thảy những tin tức giật gân và tào lao đó, Tướng Trí đúng là một con người cứng đầu cứng cổ, khi ông dám đương nhiên thay thế hai viên tư lệnh sư đoàn cục cưng của Tonton bằng hai viên tướng có thực tài khác. Một vị tướng tài năng về nắm SĐ5BB, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từng 2 lần làm Tư Lệnh SĐ22BB ngoài Quân Khu 2 và đã tạo được nhiều chiến công vang dội, ông đã bỏ nhiều công sức nhào nặn sư đoàn "Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà" 22 Bộ Binh thành một lá chắn thép không thể nào Bắc quân có thể đánh thủng nổi để cắt Việt Nam Cộng Hòa ra làm hai khúc. Giờ đây, Thiếu Tướng Hiếu về làm tư lệnh SĐ5BB, ông đã dẫn dắt sư đoàn làm nỗ lực chính, mũi đột phá của Quân Đoàn 3 trong chiến dịch tấn công sang lãnh thổ Kampuchea trong năm 1970. Để xoa dịu tự ái Tonton, Tướng Trí đã hứa chỉ đến cuối năm 1970 là ông sẽ nhào nặn 3 sư đoàn của Vùng 3 Chiến Thuật thành những sư đoàn thiện chiến nhất.
Cả hai viên tướng ấy và 6 sư đoàn thiện chiến đã sẵn sàng cho cuộc thử lửa trong chiến dịch tấn công sâu vào đất Kampuchea vào tháng 5, 1970 mà chúng ta quen gọi là chiến dịch KPC70. Tướng Trí được chỉ định làm tư lệnh quân đoàn VNCH làm cỏ các căn cứ Bắc quân trong khu vực Mỏ Vẹt (Parrot's Beak). Trong khi đó Tướng Thanh làm tư lệnh 4 chiến đoàn bộ binh-thiết giáp tấn công từ Vùng 4 Chiến Thuật lên hướng Bắc đến khi bắt tay với quân đoàn của Tướng Trí. Một nỗi bất hạnh cho người dân vùng 4 nói riêng và cho quân lực VNCH nói chung là trong ngày đầu của chiến dịch, Trung Tướng Thanh bay thị sát chỉ huy mặt trận để thúc giục lòng quân và nhịp độ tiến quân. Chiếc UH1 trực thăng chở Tướng Thanh đã vào sâu trong nội địa KPC được gần 20 cây số thì bất ngờ đụng nhau với một chiếc trực thăng tấn công Cobra. Tất cả những người trên 2 chiếc phi cơ đều tử nạn. Cái chết của Thiếu Tướng Thanh, giờ đây là Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, đã phủ một màu tang tốc lên hai quân đoàn đang hừng hực hùng khí tiến công. Nhưng trái với sự hí hửng hả hê của cộng quân, Quân Đoàn 4 tuy thiếu vắng con chim đầu đàn đã tràn lên tấn công như vũ bão và đã đánh một trong những trận lừng lẫy nhất. Chuẩn Tướng Trần Bá Di, Tư Lệnh SĐ9BB đã điều động sư đoàn làm mũi đột phá chính của Quân Đoàn 4.
Tướng Trí đã tạo ấn tượng rất mạnh lên tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Nhìn tới nhìn lui, nếu Tướng Trí không ở trên trực thăng gọi máy chỉ huy thì đã thấy ông ngồi ngất ngưởng trên thiết vận xa M113 cùng tiến lên với binh sĩ. Lúc nào ông cũng mặc chiếc áo rằn Nhảy Dù, binh chủng hào hoa ông xuất thân, không đội nón sắt, chỉ tà tà chiếc mũ lưỡi trai đính 3 sao, dưới nữa là cặp kính đen quen thuộc nằm thường trực trên khuôn mặt đẹp hùng dũng, tay cầm cây "ba toong" vung vẩy về phía trước gào to: "Tiến lên! Nhanh Lên!". Westmoreland đã phải viết trong bản báo cáo: "Trí đúng là một con hổ trong chiến đấu, một George Patton (tướng thiết giáp lừng danh của Mỹ) của Việt Nam." Tuy vậy nhiều vị tư lệnh sư đoàn thuộc quyền cũng không khoái mấy cung cách chỉ huy quá lả lướt ấy, họ cho rằng Tướng Trí muốn chơi trội, ông ta chỉ chú ý đến việc tạo ánh hào quang anh hùng cho riêng mình hơn là những quyết định quân sự thích ứng. Có ít nhất hai vị thượng nghị sĩ đã lên tiếng tố giác Tướng Trí có dính líu tới đường dây buôn lậu tiền tệ ở Sàigòn. Và nhiều cáo giác khác nữa, nhưng không làm lu mờ được những chiến công hiển hách và rõ ràng của ông.
Mặt trận Hạ Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719 khởi diễn hồi đầu tháng 2.1972 do Quân Đoàn 1 cùng với các binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân và Thiết Giáp bị khựng lại bất lợi trong khoảng trung tuần cùng tháng. Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu triệu hồi Tướng Trí từ mặt trận KPC về để trao cho ông quyền tư lệnh mặt trận Hạ Lào thay thế cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Tướng Trí như thường lệ đứng nghiêm chào vui vẻ nhận nhiệm vụ mới, to lớn hơn, khó khăn hơn. Tuy nhiên công vụ bề bộn ở Quân Đoàn 3 và diễn biến của chiến dịch KPC còn cần đến sự hiện diện của Trung Tướng Trí. Trong một phi vụ quan sát hành quân, Trung Tướng Trí bay trên một chiếc UH1 về hướng biên giới Miên-Việt. Nhưng ông không biết rằng đó là chuyến phi hành cuối cùng. Khi chiếc UH1 bay ra khỏi không phận Biên Hòa và đang tiến vào không phận tỉnh Tây Ninh thì thình lình nó lảo đảo nghiêng ngửa, mất cao độ và đâm sầm xuống đất nổ tung lên. Một số các vị trí dưới đất các chiến sĩ Mũ Nâu nhìn thấy một chiếc trực thăng bao bọc bởi khói và lửa mất cao độ và rơi chúi đầu xuống cực nhanh. Không ai có thể ngờ đó chính là chiếc trực thăng đang chở vị tướng lừng danh nhất của Nam quân. Trung Tướng Trí, giờ đây là Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã tuẫn nạn phi cơ cùng với toàn bộ phi hành đoàn. Lại thêm một mất mát quá lớn khác cho quân lực VNCH. Có nguồn tin cho rằng Tướng Trí bị mưu sát vì thanh danh quá lừng lẫy của ông. Nhưng theo bản phúc trình của phái bộ MACV thì chính là do tình trạng thiếu kinh nghiệm bảo trì phi cơ của các chuyên viên Việt Nam, Nếu Đại Tướng Trí không bất ngờ bị tử nạn và ông ra Vùng 1 làm tư lệnh chiến dịch Hạ Lào Lam Sơn 719, biết đâu lịch sử chiến đấu bảo quốc của người miền Nam và Vùng 1 Chiến Thuật sẽ được viết bằng những trang chữ vàng chói lọi hơn. Nam quân dưới sự điều động thần sầu của vị tướng tài sẽ đánh những trận lừng lẫy, đập nát các căn cứ tiếp liệu quân sự quan trọng của Bắc quân nằm trên tục đường Hồ Chí Minh, từ đó Bắc quân không còn tiềm lực để mở trận tấn công Việt Nam Cộng Hòa trong mùa hè năm 1972.
Hai viên đại tướng cùng hy sinh vì tổ quốc đã để lại một khoảng trống lớn trong cấp chỉ huy chiến trường trong một thời gian dài và phần nào làm khựng lại đà tiến của hai Quân Đoàn 3 và 4 QLVNCH. Viên Thiếu Tướng Mỹ George Wear đã đưa ra nhận xét như sau để thay cho lời kết thúc một chương sử u ám của QLVNCH: "Một khi mà QLVNCH được chỉ huy tốt thì họ chiến đấu dũng mãnh như bất cứ quân đội nào. Họ cần những vị chỉ huy biết cách hỗ trợ một cách thích đáng và lấy được lòng tin của lính tráng thì với giá nào binh sĩ cũng sẵn sàng dâng hiến đời họ cho những giá trị tuyệt đối của chiến thắng. Trung Tướng Thanh và Đại Tướng Trí chính là những mẫu người ấy." (Phạm Phong Dinh phỏng theo David Fulghum, Terrence Mailand South Vietnam on Trial - The Vietnam Experience. Boston Publishing Company)

No comments:

Post a Comment