Việt Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một ông Võ Nguyên Giáp đã chết
từ năm 1984 và một ông Võ Nguyên Giáp khác vừa mới qua đời. Hai ông Võ Nguyên
Giáp về thịt xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là
hai. Khi Võ Nguyên Giáp còn sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp
tắt thở đảng lại quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các hãng tin quốc
tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và
cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không
đưa tin ông Giáp từ trần. Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên
cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên
Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực
Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt
Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18 giờ 9 phút,
ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội
108; hưởng thọ 103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố tình viết sót. Thông thường
trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức và các chức
vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao. Chức vụ về mặt nhà nước
cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch
Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số
58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984. Khi đó ông đã rời chức Bộ
Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế giới đều biết mà đảng còn giấu
được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo phần sinh đẻ của ông
Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn
và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người may mắn. Khi còn sống ông
có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi, vinh danh và thương tiếc nhiều đến
thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lãnh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi
như ông. Việc chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa trang Mai Dịch
cho thấy tâm trạng của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu
đã bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải
nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Võ Nguyên Giáp chết vào đầu
thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư có lẽ cũng
không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn (1914-1986), Hoàng
Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên Giáp còn cao hơn cả đảng tịch
lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đình đám hơn.
Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê bình kiểm
thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách chứ không phải là một tình cảm tự
nhiên. Tận diệt kẻ thù còn sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù
đã chết cũng là một trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới.
Stalin khóc Sergey Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu
Bình khóc Mao Trạch Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có
trong các điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn Liên Xô,
Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì. Xác chết không nghe được lời
ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu
người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng
thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đã chết. Họ đối xử nhau còn tệ
hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đã làm mờ nhân
tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Võ Nguyên Giáp,
rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên giường bịnh vì
không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành kể trong hồi ký
Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết
chết hết cả gia đình.
Nhưng tại sao lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống
như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?
Lãnh đạo CS cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử. Như
người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong tình hình mới
trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á châu như Trung Quốc, Việt
Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích chính trị có thể giải thích nguyên
nhân một cách khác nhau tùy theo góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số
đã đồng ý rằng các nước Cộng Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản
Đông Âu không có, đó là sự liên hệ lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và
dòng sống của đất nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập
1921 trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930
trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối đa mối
liên hệ này.
Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS tại Trung Quốc
biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính
chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về
Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính
phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng
Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để
cai trị đất nước.”
Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận của Đảng Cộng Sản Trung
Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc
để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của dân tộc. Đừng
quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều
đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi
thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương
lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lãnh đạo cách mạng,
đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi về sau như đảng CSVN.
Đó là lý luận của kẻ cướp nước.
Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải đương đầu với
nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền kinh tế suy sụp,
những thành phần từng nhiệt tình ủng hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lãnh
đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức
quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và
muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp là những que củi
cần thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã nhiều năm nguội lạnh.
Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt nhân dân và đã
nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh,
cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung Quốc còn tồn tại vì khái niệm
tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn đã có lợi cho CS.
Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy
não. Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam còn quá nhiều người
bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người dân Trung
Hoa ít ra đã chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của họ qua biến cố
Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt của thủ đô Bắc
Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo,
chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi
dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lãnh đạo của
phong trào Thiên An Môn đã chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do
dân chủ và không có một con đường nào khác.
Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập nhưng từ
1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi địa ngục
Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt,
nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận
tra tấn vô cùng dã man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ còn máu và mủ.
Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết. Tuy
nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do là một quyền bẩm
sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho và cũng không cần
ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji Seong-ho, người đã vượt
sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Đài Loan để tìm tự do
năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đã đánh mất niềm tin trong lòng
dân, và khi tôi còn ở đó người dân đã nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi
công cộng nhưng trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu
chuộng cũng như uy tín của chế độ đã giảm nhiều.
Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới lãnh đạo CS
buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua các chính sách đổi mới kinh tế.
Ánh sáng văn minh nhân loại đã theo những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người
Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là
thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một
nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng
phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra cũng biết
tự trọng làm im.
Khi còn sống, những lá thư của ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng về
chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần
về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số
rất nhỏ, không ai binh vực ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều
bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ mình
luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm
vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Võ
Nguyên Giáp. Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên Giáp mà cảm thấy tội
nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não lại tiếp tục đóng
vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời chiến tranh. Tang lễ của
Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị lừa gạt một cách quá dễ dàng và
thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam còn quá đông. Thì ra, dù nhân loại đã
bắt đầu thám hiểm những vì sao xa nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại
Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ lên một tiếng nào.
Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não, sau 38 năm, tầng lớp có học
thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng
nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc,
nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc
hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì
thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn
đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những
anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc
thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đã phạm nhiều sai lầm trong
quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng không từ chối đang có nhiều
tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là hiện tượng không phải bản chất của
chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho đến gần bốn chục năm, một học
sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy não bằng những lập luận như vậy qua
các lớp chính trị.
Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì nói” là ai và quá khứ xuất
thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn đất nước Việt
Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn
điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lãnh
đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lý học Michael Langone mô tả đó tình
trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực
và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng
trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn diện và đắp đập để
giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.
Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ nửa khuya thức
dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi những những nhận thức
chính trị của mình từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của mình do ai cấy
vào? Ông Võ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế
như nhiều lãnh đạo CS khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một
trong những người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay? Nếu
ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho
cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ những nạn
nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt Nam sao? Và cứ thế,
hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết luận mà đảng đã
trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp mà cả một giai đoạn lịch sử dài
từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách
khách quan và độc lập để thấy những gì được gọi là “chân lý” và “sự thật” dưới
chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.
Giải tẩy não
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong về tẩy não
dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lý học về chế độ toàn trị:
Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại Trung Quốc (Thought Reform and the Psychology
of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông đã đưa ra 8 đặc điểm về cải
tạo tư tưởng của CS: (1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa
nạn nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả giữa
nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng
cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đòi hỏi sự
thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên tục để đạt đến trình độ tự
giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xã hội CS phải phô bày mọi suy
nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư về thể chất cũng
như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận
như đồng nghĩa với khoa học và phê bình chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo
đức mà còn vi phạm các nguyên tắc “khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ
(Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng
thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7)
Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một
người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử
của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ thuyết); (8)
Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại trong xã hội (Có hai hạng người
trong xã hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn
bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không
cần phải tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton trình bày về chính sách tẩy
não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy
não CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.
Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận mình từng bị tẩy
não. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xã hội Tây phương
đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy
viên Bộ Chính trị, đã củng cố quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau
này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự
tang lễ của lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết
các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ý Alessandro Pertini
cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico Berlinguer. Đảng CS Ý
trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong đời sống chính trị Ý và có hậu
thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư
xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với
chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc nhiều sách
Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng mình không bị
tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ
trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học
như là chân lý. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước
vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối
Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức
VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong các thùng sắt, bỏ
đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết sức khó
khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thật, thừa
nhận tình trạng bị tẩy não và giải tẩy não liên tục.
Can đảm đối diện với sự thật. Mọi hành trình bắt đầu từ chính
con người. Nếu những người bị tẩy não còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến
thức mình đang có là kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào
nhận thức và thấm dần qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến
trường mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy
đem những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án vì
người bị tẩy não chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn
người khóc vật vã trên đường phố trong tang lễ của ông Võ Nguyên Giáp không
quan trọng vì ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà
thơ, nhà báo thì khác. Họ là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những
phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô
lệ vật chất chỉ thiệt hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người
chung quanh, người đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra
khỏi vết thương và tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập,
khách quan và tự do.
Thừa nhận tình trạng bị tẩy não. Con người thường bất đồng với
những điều nghịch lý nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lý.
Người bị tẩy não thường không thừa bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ
chối. Tuyên truyền tẩy não CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó
phải tin nhưng thuyết phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính. Những tù
binh Mỹ bị bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và
không bị kết án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là
những người tốt, chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để
làm một công việc trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người
tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ
giết chết. Người tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống
cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi
niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.
Tiến trình giải tẩy não là một tiến trình liên tục. Tẩy não dưới
chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục
đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu
của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt
khác. Khác với các tù bình Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một
giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục,
thông tin và tình cảm, họ nhanh chóng trở lại bình thường. Những người sống
ngay giữa lòng chế độ, việc giải tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên
tục về mặt tư tưởng để chống lại các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và
trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ
lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.
Sự thật sẽ thắng
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người viết tin rằng
phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến vai trò của cựu
Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đã đã đưa ra hai chính
sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xã
hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan,
người đã tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ;
một số có thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu
nói “Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân Đoàn
Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có thể nghĩ đến cố
thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như báo chí Liên Xô mô tả
và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong ba người (Roldnald
Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp phần quan trọng vào việc làm sụp
đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đã có đóng góp quan trọng
vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt nước tràn ly
và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lý do chính làm tan vỡ các chế độ
CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô đã vượt qua được
căn bịnh tẩy não. Các chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời Lenin, Stalin đã
không còn hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hãi, không
còn ai kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính
sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xã hội, ở đâu có áp bức ở đó có
đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù giữa mùa đông
tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu
trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng
trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và
khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh và yêu chuộng
hòa bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng tại châu Âu và
sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một
tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần
những con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.
© Trần Trung Đạo
Nguồn: trantrungdao.com
Nguồn: trantrungdao.com
No comments:
Post a Comment