Biên
dịch: Quỳnh Trâm
Những tài liệu mới được phát hiện cho thấy có sự liên kết giữa
các Cựu chiến binh phản chiến với Cộng Sản Việt Nam
Hai tài liệu tịch thu được từ những cán binh cộng sản Bắc Việt
trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam, vừa mới được phát hiện gần
đây đã hổ trợ mạnh mẽ cho quan điểm cho rằng có một sự liên kết chặt chẽ tồn tại
giữa các chế độ cộng sản Hà Nội và Hội Cựu chiến binh phản chiến (VVAW) trong thời gian John Kerry từng làm phát ngôn viên hàng đầu
của nhóm phản chiến toàn quốc.
Thông tư: Phối hợp quốc tế,
tuyên truyền chống chiến tranh
Các tài liệu đầu tiên là “Thông Tư 1971” được phân phối bởi những
người cộng sản tại Việt Nam. Nội dung “Thông Tư” là thảo luận về các chiến lược
để phối hợp nỗ lực tuyên truyền trong nước thông qua các hoạt động văn công nhằm
tạo ra sự đồng cảm của các đối tác trong phong trào chống chiến tranh Việt Nam của
người Mỹ. Cụ thể, các tài liệu ghi nhận rằng Việt Cộng và các đoàn đại biểu của
phía Bắc Việt đến Pará để tham dự cuộc hòa đàm đã được sử dụng như một nối kết
thông tin liên lạc nhằm chỉ đạo và điều hướng các hoạt động của các nhà phản
chiến đến gặp gỡ họ tại Paris.
Dưới đây là một số trích
dẫn từ tài liệu:
Các phong trào chống chiến tranh tự phát tại Mỹ đã nhận được sự
hỗ trợ và hướng dẫn từ đoàn “Thân Hữu Bắc Việt” tại hòa đàm Paris.
- Thông tư về các Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ. Tham chiếu đến “VC”
biểu thị Việt Cộng; “NVN” biểu thị chính phủ Bắc Việt.
Câu này là đặc biệt quan trọng trong sự thừa nhận của John Kerry
rằng ông ta đã gặp gỡ với các nhà lãnh đạo của cả hai phái đoàn cộng sản vào
hòa đàm Paris vào tháng Sáu năm 1970, trong đó có bà Bình, bộ trưởng ngoại giao
của Chính phủ cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (PRG), còn được gọi
là Việt Cộng. Hồ sơ của FBI từng ghi nhận rằng Kerry sau đó đã trở lại Paris để
gặp gỡ với phái đoàn cộng sản Bắc Việt vào tháng Tám năm 1971, và cũng đã từng
lên kế hoạch cho một chuyến đi thứ ba vào tháng Mười Một.
Trước khi phát hiện ra Thông tư này, thì không có bằng chứng trực
tiếp rằng Hà Nội đã thực sự chỉ đạo các hoạt động của Phong Trào Phản Chiến ở Mỹ
bằng cách truyền đạt các mục tiêu và mong muốn của Hà Nội đến các lãnh đạo
phong trào phản chiến thông qua các chuyến thăm thường xuyên của họ đến Paris,
mặc dù nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định điều đó là xác thực. Những Phân tích sâu
hơn về các tài liệu này đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm cho rằng bà
Nguyễn Thị Bình đã sử dụng các cuộc gặp gỡ của y thị với John Kerry ở Paris để
hướng dẫn cho Kerry về phương cách mà ông và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến của
Mỹ có thể làm tốt nhất vai trò của người đại diện cho Hà Nội tại Hoa Kỳ. Vào
mùa Xuân và mùa Hè năm 1971, một chiến lược quan trọng của Hà Nội đã được xúc
tiến gọi là Kế hoạch hòa bình Bảy điểm của Nguyễn Thị Bình.
Kế hoạch này được xây dựng khéo léo để buộc Tổng thống Nixon phải
đưa ra một thời hạn để kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam và rút hết quân đôi Mỹ
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Theo kế hoạch hòa bình 7 điểm của bà Bình, trở ngại
duy nhất để Hà Nội đưa ra thời hiệu phóng thích các tù nhân chiến tranh của Mỹ ấy
là Tổng Thống Nixon đã không sẵn sang đưa ra ngày giờ cụ thể cho việc rút quân.
Tất nhiên, việc chấp nhận một cách đầy đủ các điều khoản của Kế hoạch hòa bình
7 điểm sẽ buộc chính phủ Hoa Kỳ phải thừa nhận bại trận và đầu hàng, một sự đầu
hàng nhục nhã bao gồm việc bồi thường chiến tranh cho phía cộng sản Việt Nam
như một là một sự thừa nhận trước công luận quốc tế rằng Hoa Kỳ là kẻ xâm lược
sai trái trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Một phần của Thông tư có tiêu đề “CHUẨN BỊ CHO PHONG TRÀO PHẢN
CHIẾN MÙA THU 1971” đã làm rõ ràng tầm quan trọng của sự phát triển kế hoạch
hòa bình 7 điểm của bà Nguyễn Thị Bình mà cộng sản Việt Nam đặt để trên phạm vi
nước Mỹ đó là:
Đề nghị hòa bình bảy điểm của Chính phủ cách mạng Lâm Thời Cộng
Hòa Miền Nam Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề liên quan đến việc phóng
thích các tù binh Mỹ mà còn thúc đẩy người dân của tất cả các tầng lớp xã hội
và thậm chí cả thân nhân của phi công Mỹ bị giam giữ tại Miền Bắc Việt Nam tham
gia phong trào chống chiến tranh.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ cho thấy Chính phủ
cách mạng lâm Nam Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam “SVN”, tức là Việt Cộng còn Chính
Phủ Bắc Việt, “NVN” tức là đề cập đến miền Bắc Việt Nam.
Và một lần nữa, đã nhấn mạnh việc cộng sản Việt Nam xem sự nối kết
các hoạt động của phong trào phản chiến Mỹ, nền chính trị Hoa Kỳ và nền chính
trị tại Nam Việt Nam với nhau, như là mục tiêu tổng quát của Kế hoạch hòa bình
7 điểm của Thị Bình có một tầm quan trọng như thế nào:
Bè lũ Nixon - Thiệu bè lũ sẽ vô cùng lúng túng vì đề nghị hòa
bình bảy điểm được ủng hộ bởi các phong trào đấu tranh trên mặt trận chính trị
của các chính trị gia thuộc Chính Phủ
Cách Mạnh Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và các phong trào phản chiến ở Mỹ.
Vì vậy, tất cả các địa phương, các đơn vị, các phân khu phải phổ biến rộng rãi
đề nghị hòa bình bảy điểm này, phải đẩy mạnh phong đấu tranh chính trị của quần
chúng nhân dân cả ở các thành phố cũng như ở các vùng nông thôn, tận dụng lợi
thế của các rối loạn và chia rẽ trong của phía đối phương (Việt Nam Cộng Hòa)
trong cuộc bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống sắp tới. Các cơ quan đoàn thể
phải phối hợp thành công hơn với các phong trào phản chiến ở Mỹ để cô lập các
phe nhóm Nixon - Thiệu.
- Thông tư về các phong trào phản chiến ở Mỹ. “RVN” nghĩa là Việt
Nam Cộng Hòa, tức là chính quyền Miền Nam do Hoa Kỳ hậu thuẩn.
Cuối năm 1970, một Việt Cộng chiêu hồi đã mô tả lại một kế
hoạch mà cộng sản sử dụng những thành phần thân cộng ở Mỹ để vận động các thành
viên gia đình của tù binh Mỹ bị giam giữ ở Miền Bắc Việt Nam cùng tham gia
trong các phong trào phản chiến. Bản tóm tắt sau đây của cuộc phỏng vấn các cán
binh cộng sản hồi chánh đã được cung cấp cho Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện:
Việt Cộng đã hoạch đinh một kế hoạch tiếp tục những nỗ lực tuyên
truyền, vận động của họ để giành sự đồng tình của thế giới đối với họ và để thu
hút càng nhiều những sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh từ các nước khác của cộng sản
càng tốt để tạo ra một môi trường thuận lợi cho cộng sản Bắc Việt tại Hội nghị
Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình cho Việt Nam.
Việt Cộng sẽ tiếp tục tăng cường các hoạt động phản chiến ở Mỹ,
gây tình trạng bất ổn trong nước, bằng các phong trào phản đối sự can thiệp của
Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam để tăng nhanh tiến trình triệt thoái quân đội
Mỹ ra khỏi Việt Nam và tạo ra áp lực sớm chấm dứt chiến tranh.
Nỗ lực này sẽ được hướng trực tiếp đến các binh sỹ Hoa Kỳ Mỹ tại
Việt Nam để họ yêu sách với chính phủ Hoa Kỳ rằng họ phải được trở về nước và
được đoàn tụ với gia đình và vợ của của họ .
Việt Cộng sẽ nổ lực để tạo ra các dự thảo chống chiến tranh và
thái độ chống chiến tranh ở Mỹ bằng cách tổ chức các nhóm thân cộng tại Hoa Kỳ
để các nhóm đó liên lạc với các gia đình có con em đang chiến đấu ở Việt Nam và
xúi giục họ gọi con em bỏ ngủ về nước. Đồng thời, các băng nhóm thân cộng tại
Hoa Kỳ cũng sẽ được tổ chức để phân phối các dự thảo và truyền đơn chống chiến
tranh cho sinh viên và thanh niên Mỹ.
Vào ngày 01 tháng hai năm 1971, tại buổi điều tra của Winter
Soldier ở Detroit, các Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã đưa ra lời tuyên bố của bà
Virginia Warner, mẹ của tù binh chiến tranh Jim Warner, đôn đốc Tổng thống
Nixon phải “kết thúc chiến tranh để các tù nhân chiến tranh có thể trở về nhà.”
Jim Warner đã cáo buộc chính John Kerry đã khai thác nỗi sợ hãi của mẹ mình để
có được lời tuyên bố đó.
Vào ngày 22 tháng bảy năm 1971, John Kerry đã tổ chức một cuộc họp
báo ở Washington DC, kêu gọi Tổng thống Nixon chấp nhận kế hoạch hòa bình 7 điểm
của Thị Bình. Tại cuộc họp báo đó, bao quanh Kerry là vô sô vợ con các tù binh
chiến tranh cùng cha mẹ và anh chị em của họ được mời tham dự để quảng bá thông
điệp của mình. Sự kiện này được tường trình trên tờ Thời Báo New York vào ngày
23 Tháng Bảy năm 1971 và trên tờ Thế Giới Cộng Sản Hàng Ngày vào hôm 24 tháng 7
năm 1971. Mỗi bài viết được đăng kè bức ảnh của Kerry được bao quanh bởi các
thành viên gia đình tù binh chiến tranh.
Việc John Kerry sử dụng các gia đình tù binh chiến tranh trong
hoạt động phản chiến đã trực tiếp tạo ưu thế cộng sản Bắc Việt trong chương
trình nghị sự tại Hòa Đàm Paris như mô tả của cán binh cộng sản hồi chánh cũng
như trong Thông tư mới được phát hiện, cho thấy thị Bình đã đề nghị cùng một kế
hoạch hành động cho các nhà hoạt động phản chiến mà y thị đã từng gặp gỡ ở
Paris.
[Lưu ý: Một số gia đình tù binh chiến tranh đã được liên lạc bởi
một nhóm “giao liên” do Cora Weiss, con gái của tài nhà hổ trợ tài chính cho đảng
cộng sản, Samuel Rubin, lãnh đạo với những đề xuất là sẽ giúp chuyển thư tín và
các thông tin về người chồng tù binh của họ nếu gia đình đồng ý công khai lên
án cuộc chiến tranh. Hầu hết các thành viên gia đình tù binh từ chối hợp tác với
hành vi tống tiền này, ngay cả khi họ được hứa hẹn sẽ đối xử tốt hơn với chồng
hoặc con của họ tại các nhà tù ở Hà Nội. Bốn người vợ tù binh tức giận phản đối
tại cuộc họp báo của John Kerry vào tháng bảy, một trong số đó cáo buộc Kerry tội
“thường xuyên sử dụng đau khổ và đau buồn của chúng tôi” để xiễn dương tham vọng
chính trị của mình.]
Chỉ Thị: Hỗ Trợ Các
Cuộc Biểu Tình, Bạo Lọan Trong Nước Mỹ
Tài liệu thứ hai, lực lượng quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam vào ngày 12 tháng
năm 1972, đã bắt giữ một điệp báo cộng sản với chỉ thị được soạn thảo để thúc đẩy
các cuộc thảo luận tại Việt Nam về việc thúc đẩy các hoạt động phản chiến đang
diễn ra tại Hoa Kỳ. Đoạn thứ năm của tài liệu này đã tường giải rằng những người
cộng sản Việt Nam đã được sử dụng cho mục đích tuyên truyền về các hoạt động của
Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ chống chiến tranh Việt Nam. Cuộc biểu tình được mô tả
là diễn ra từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 4 năm 1971tại Washington DC trùng hợp
trực tiếp với các ngày khởi đầu chiến dịch hành quân Lam Sơn 719, là một cuộc
biểu tình do John Kerry đầu têu, trong đó John Kerry làm chứng nhân của cuộc
chiến tranh trước Ủy ban Đối ngoại của Thượng nghị sĩ Fulbright là một trung
tâm truyền hình. Các mô tả về các hoạt động phản chiến theo Chỉ thị thậm chí
bao gồm cả việc “trả lại huy chương” tại chính buổi lễ đó, chính John Kerry và
các thành viên khác của nhóm Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã ném bỏ các huy chương
và/hoặc ruy băng danh dự của họ xuống các bậc tam cấp của Điện Capitol Hoa Kỳ,
cùng với hành động đó là nhiều tiếng la hét đe dọa bạo lực đối với chính phủ.
Các Kết Nối: Ủy Ban
Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ)
Một luận cứ quan trọng trong các tài liệu cho thấy mức độ mà những
người cộng sản Việt Nam đã làm việc với và thông qua các Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa
Bình và Công Lý. Thông tư, ngay lập tức tiết lộ các Phái Đoàn Cộng tham dự cuộc
đàm phán hòa bình Paris đã được sử dụng để hướng dẫn phong trào phản chiến Mỹ,
đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ)
như thế nào đối với những nỗ lực này:
Đối với các phong trào phản chiến ở Mỹ, thì hai thực thể quan trọng
hơn cả là: Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và Ủy Ban Quốc Gia Hành
Động Vì Hòa Bình (NPAC). Hai phong trào này đã tập được nhiều sức mạnh quần chúng và tổ chức nhiều cuộc biểu
tình tuần hành. Trong đó, Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là quan
trọng nhất. Ủy Ban này vẫn duy trì mối quan hệ với chúng tôi.
- Thông tư về các
phong trào phản chiến ở Mỹ (Nhấn Mạnh Bổ Sung).
Trong báo cáo thường niên 1971 của Cục Nội An đã mô tả Ủy Ban
Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) là một tổ chức đặt dưới quyền kiểm soát của
cộng sản Mỹ: “Vấn đề đáng quan tâm ở đây là các đảng viên đảng Cộng sản đã tạo
ra những ảnh hưởng lớn, và những hướng dẫn có tác động mạnh mẽ đến sự hình
thành và phát triển các chính sách của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý
(PCPJ)”.
Những tường trình về kết quả giám sát của FBI vừa công bố gần
đây đã chứng tỏ một mối liên kết mạnh mẽ giữa John Kerry, Al Hubbard, các Cựu
Chiến Binh Phản Chiến, Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ) và các chuyến
đi của họ đến Paris để gặp gỡ với thị Bình. Như những tranh luận được trình bày
trong cuốn Unfit For Command, về Hubbard, trưởng ban điều hành của Hội Cựu Chiến
Binh Phản Chiến và một đường lối cứng rắn cực đoan có quan hệ với các thế lực
đen Black Panthers và Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ), đã trực tiếp
tuyển dụng John Kerry vào Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến, bỏ qua
quá trình bầu cử của tổ chức. Tuyên bố của Al Hubbard rằng bản thân từng là một
phi công vận tải, từng bị thương tích trong chiến đấu, đã trở nên bất khả tín khi
Bộ Quốc phòng công bố các tài liệu chứng minh rằng, mặc dù Hubbard đã ở trong
không lực lượng Không quân, nhưng ông không phải là phi công cũng chẳng phải là
sĩ quan, và chưa bao giờ phục vụ tại chiến trường Việt Nam và cũng đã chưa từng
tham gia chiến đấu ở bất cứ nơi đâu. Chính ông John Kerry chia sẻ câu chuyện
tham chiến của mình với Al Hubbard trong cuộc biểu tình Phản Đối Cuộc Hành Quân
Lam Sơn 719 tại Washington, DC, và Kerry đã xuất hiện cùng với Hubbard trên
chương trình Gặp Gỡ Báo Chí trên kênh truyền hình NBC vào ngày 18 Tháng Tư năm
1971. Hubbard cũng đã ký Hiệp ước Hòa Bình Dân Tộc People's Peace
Treaty (Giữa Người Mỹ, Người Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam và người Việt
Nam Cộng Sản ở Miền Bắc), một tài liệu của Ủy Ban Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công
Lý (PCPJ) mà đã tái khẳng định vị trí của Bắc Việt Nam và Việt Cộng, nhân danh
Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến.
Một tường trình của FBI ấn ký ngày 11 tháng 11 năm 1971 báo cáo
rằng FBI đã nắm bắt được thông tin tại Hội
nghị Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến khu vực Norman Oklahoma, vào ngày 5-
Tháng 7, năm 1971, rằng
John Kerry và Al Hubbard đã hoạch định chuyến đi đến Paris trong tháng 7 để
tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình với các đoàn đại biểu cộng Sản Việt Nam.
Trong khi tài liệu này đang được phối kiểm từ nhiều nguồn khác nhau, thì một
báo cáo khác của FBI khác đã tường minh rằng Đảng Cộng sản Mỹ lo liệu mọi chi
phí cho chuyến đi của Al Hubbard đến Paris.
Cần lưu ý rằng “ĐẢNG CỘNG
SẢN” ĐƯỢC ĐỀ CẬP ĐẾN TRÊN RETEL là Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, VÌ AL HUBBARD LÀ THÀNH
VIÊN phối hợp của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình Và Công Lý (PCPJ), CŨNG NHƯ GIL
GREEN LÀ THÀNH VIÊN CỦA ỦY BAN QUỐC GIA CỦA CỘNG SẢN Hoa Kỳ và Jarvis TYNER LÀ
GIÁM ĐỐC LIÊN ĐOÀN THANH NIÊN CÔNG NHÂN GIẢI PHÓNG DÂN TỘC. HUBBARD, GREEN VÀ TYNER
ĐÃ TỪNG CÙNG THAM DỰ CÁC CUỘC HỌP CỦA LIÊN MINH DÂN TỘC VÌ HÒA BÌNH VÀ CÔNG LÝ (PCPJ).
-Trong một báo cáo về giám sát thực địa của Cục Điều Tra Liên
Bang FBI, nộp ngày 11 tháng 11 năm 1971, gồm một bản sao của báo cáo này được gởi
đến văn phòng FBI ở Boston bằng đường hàng không yêu cầu Văn Phòng lưu tâm đặc
biệt đến John Kerry .
Một báo cáo khác của Cục Điều Tra Liên Bang FBI trong lĩnh vực
giám sát thực địa ngày 24 Tháng 11 năm 19 đã tường trình chi tiết về phần trình
bày của Al Hubbard cho các ủy ban điều hành và chỉ đạo Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến trong một cuộc họp tại thành phố Kansas, Missouri, trong suốt những ngày
cuối tuần từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 11 năm 1971. Tại cuộc họp này các Hội Cựu
Chiến Binh Phản Chiến đã xem xét, và sau đó đã từ chối kế hoạch ám sát một số thượng
nghị sĩ Hoa Kỳ ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam. John Kerry được ghi nhận là có
hiện diện trong cuộc họp. Một lần nữa, Al Hubbard đã làm sáng tỏ thêm sự phối hợp
của cộng sản có liên quan đến chuyến đi gần đây của ông đến Paris:
[BLACK OUT] Xin được thông báo rằng Hubbard đã cung cấp các
thông tin sau về chuyến đi Paris của mình như sau:
Có hai thực thể nước ngoài, một là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc
Việt) và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, đã mời đại diện của Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến cùng đại diện Đảng Cộng sản Hoa Kỳ,
và một nhóm cánh tả tại Paris, cùng tham dự cuộc họp của họ ở Paris. Hubbard khai
là ông được bầu chọn để đại diện cho Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến. Một người
đàn ông khác, không rõ danh tính đã được mời đại diện cho đảng cộng sản Hoa Kỳ
và một cá nhân không rõ danh tính khác đã được tuyển chọn để đại diện cho các
nhóm cánh tả ở Paris. Tại cuộc họp, Hubbard cũng đã trình bày rằng chuyến đi của
ông được tài trợ bởi Đảng Cộng Sản Mỹ.
- Báo cáo giám sát thực địa
của Cục Điều Tra Liên Bang, nộp 24 Tháng 11 năm 1971.
Một lá thư do Al Hubbard viết vào ngày 20 tháng 4 năm 1971 đã
xóa tan mọi nghi ngờ về sự phối hợp chặt chẽ giữa Hội Cựu chiến binh chống chiến
tranh Việt Nam và Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý. Địa chỉ nơi gửi đi
là từ các văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến ở Washington, DC, bức thư đưa
ra lời kêu gọi cho các thành viên của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến hãy dành sự
hỗ trợ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ). Nội dung bức thư
cũng bàn thảo về một số phương cách mà hai tổ chức đó đã làm việc chặt chẽ với
nhau:
Đây là một lời kêu gọi giúp đỡ cho Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình
và Công Lý (PCPJ). Trong những tháng qua, Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công
Lý (PCPJ). đã hỗ trợ Hội Cựu Chiến Binh
Phản Chiến bằng nhiều cách. Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) đã cung
cấp miễn phí văn phòng làm việc cho Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến, và Liên Minh
cũng cho phép Hội được sử dụng tất cả các thiết bị văn phòng cần thiết như máy
máy quay rô nê ô, máy làm stencil thư mục và máy đánh chữ. Họ cho chúng tôi mượn
chiếc xe hơi, phương tiện thông tin, và thiết bị địa chỉ công cộng. Nhân viên của
họ đã tiếp nhận thông tin báo chí cho chúng tôi và giúp chúng tôi tham gia cùng
chúng tôi trong tình đồng chí để giúp đỡ cho chúng tôi cùng tiến bộ của chúng
tôi. Bây giờ là lúc mà chúng ta có thể đáp trả lại bằng sự hỗ trợ này.
Vào ngày thứ bảy, 24 Tháng Tư, Liên minh cần sự giúp đỡ quyên
góp tiền và bán các nút bấm tại cuộc diễu hành tuyệt và cuộc biểu tình lớn. Những
người làm công việc quyên góp và bán hàng phải tràn đầy hang hái và quyết tâm. Sẽ
có vấn đề rắc rối về an ninh trong việc mang số tiền lớn đến các ngân hàng.
Liên minh cần quyền lực của nhân dân, và cần hàng trăm người tham gia trợ giúp.
Tôi tha thiết mong các bạn sẽ tiến lên để hỗ trợ cho bạn bè của
chúng tôi trong trường hợp khẩn cấp này.
- Al Hubbard đã ký tên dưới bức thư, từ Văn Phòng Hội Cựu Chiến Binh Phản chiến tại
phòng 900, 1029 Đại Lộ Vermont. N.W. Washington, DC, ngày ngày 20 tháng 4 năm
1971. Bức thư dược tìm thấy trong hồ sơ đối tượng tại Ủy Ban An Ninh Nội Địa,
Washington, DC
Hai ngày sau khi bức thư được viết ra, John Kerry đã thực hiện một
buổi làm chứng nổi tiếng của mình trước Thượng nghị sĩ Fulbright của Ủy ban Đối
ngoại, trong đó ông so sánh quân đội Mỹ tại Việt Nam với quân đội của Thành Cát
Tư Hãn. Cuộc tuần hành và biểu tình mà Hubbard đã được kêu gọi sự hỗ trợ của Hội
Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã trở thành cuộc biểu tình với quy mô lớn của Liên Minh
Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ) vào ngày 24 tháng 4 ở Washington, DC mà
ngay lập tức theo sau là một cuộc biểu tình của Hội Cựu Chiến Binh Phản chiến phản
đối cuộc hành quân Lam Sơn 719 kéo dài một tuần. Tờ Thế Giới Cộng Sản hàng ngày
đã tường thuật vào ngày 27 tháng 4 rằng “Cống vật đặc biệt đã được dùng để trả công
cho vai trò đặc biệt của Cựu chiến binh Hoa Kỳ từng tham chiến tại Việt Nam” đã
tham gia vào cuộc biểu tình của Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ),
và chương trình tường thuật được tiếp nối bằng phần trích dẫn bài phát biểu dài
lê thê của John Kerry tại sự kiện đó.
Đối Tác Sẵn Sàng: Hội
Cựu Chiến Binh Phản Chiến và Cộng Sản Việt Nam
Có vô số những ví dụ khác về sự vận động của Hội Cựu Chiến Binh Phản
chiến cho vị thế của cộng sản Việt Nam trong thời gian John Kerry lãnh đạo hội.
Nhóm Phản Chiến đã ban hành một tuyên bố vào tháng Hai năm 1971 kêu gọi đại
chúng bất tuân dân sự và binh biến quân sự nếu các lực lượng Mỹ hành quân vào
Lào. Sau chiến tranh, các nhà lãnh đạo quân sự Bắc Việt đã thừa nhận rằng một
trong những lo ngại lớn nhất của họ là Mỹ sẽ di chuyển lực lượng đáng kể vào
Lào để ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh. Sự háo hức của Hội Cựu Chiến Binh Phản
Chiến trong việc tuân thủ các nguyện vọng của cộng sản Việt Nam thậm chí còn mở
rộng sự lựa chọn của danh mục. Ban Chấp hành Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến đã
nói trong một cuộc họp tháng 7 năm 1971 rằng các thuật ngữ như “Việt Cộng” và “Cộng
Sản Bắc Việt” đã không được sử dụng trong các thông cáo báo chí của truyền
thông và của Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến. Thay vào đó, chúng ta chỉ sử dụng
nhóm từ “Chính Phủ Cách Mạnh Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa” (Tức Cộng Sản Bắc Việt) để phản ánh sự chấp nhận của chúng ta
đối với các chỉ định của họ. Và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến vẫn không ngớt nhấn
mạnh rằng các lực lượng Mỹ đã thảm sát hàng loạt thường dân Việt Nam, là hành động
lặp lại một cách hoàn hảo những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc sự thật do
chính bọn cộng sản Việt Nam đưa ra và được các đồng minh cộng sản quốc tế của họ
hà hơi tiếp sức tuyên truyền, gồm cả mẫu
quốc Liên Xô của cộng sản Bắc Việt.
Kết luận
Các tài liệu mới được phát hiện giúp làm rõ sự liên minh ma quỷ
giữa của Bắc Việt, Việt Cộng , Liên Minh Dân Tộc Vì Hòa Bình và Công Lý (PCPJ),
Đảng Cộng sản Mỹ, và Hội Cựu Chiến Binh Phản Chiến của John Kerry. Những cứ liệu
đó đã chỉ ra rằng các tổ chức này đã làm việc chặt chẽ với nhau, bằng cách sử dụng
hòa đàm Paris như một trung tâm thông tin liên lạc, để sử dụng các chiến lược
và chiến thuật do cộng sản Bắc Việt hoạch định nhằm đạt được mục tiêu chính của
họ là đánh bại Hoa Kỳ tại Việt Nam.
- Jerome R. Corsi và
Scott Swett
Biên dịch: Nguyễn Thu Trâm
Biên dịch: Nguyễn Thu Trâm
Nguyên Văn: JOHN KERRY AND THE VVAW: HANOI'S AMERICAN
PUPPETS?
Newly discovered documents link Vietnam
Veterans Against the War to Vietnamese communists
Two recently discovered documents captured from
the Vietnamese communists during the Vietnam War strongly support the
contention that a close link existed between the Hanoi regime and the Vietnam
Veterans Against the War (VVAW) while John Kerry served as the group's leading
national spokesman.
The Circular: International
Coordination of Antiwar Propaganda
The first document is a 1971
"Circular" distributed by the Vietnamese communists within Vietnam.
It discusses strategies to coordinate their national propaganda effort with
their orchestration of the activities of sympathetic counterparts in the
American anti-war movement. Specifically, the document notes that the Vietcong
and North Vietnamese delegations to the Paris Peace talks were being used as
the communications link to direct the activities of anti-war activists meeting
with them in Paris. To quote from the document:
The spontaneous antiwar
movements in the US have received assistance and guidance from the friendly
((VC/NVN)) delegations at the Paris Peace Talks.
-- Circular on Antiwar Movements in the US. The
reference to "VC" indicates the Vietcong; "NVN" is the
North Vietnamese government.
This sentence is particularly important in
light of John Kerry's admission that he met with leaders of both communist
delegations to the Paris Peace Talks in June 1970, including Madame Binh,
foreign minister of the Provisional Revolutionary Government (PRG) of South
Vietnam, also known as the Vietcong. FBI files record that Kerry returned to
Paris to meet with the North Vietnamese delegation in August of 1971, and
planned a third trip in November.
Prior to the discovery of the Circular, there
was no direct evidence that Hanoi was actually steering the U.S. antiwar
movement's activities by conveying Hanoi's goals and wishes to movement leaders
during their frequent visits to Paris, though many investigators had assumed
that to be the case. Further analysis of this document supports the contention
that Madame Binh used her Paris meeting with John Kerry to instruct him on how
he and the VVAW might best serve as Hanoi's surrogates in the United States. In
the spring and summer of 1971, a key strategy of Hanoi was to advance what was
known as Madame Binh's Seven Point Peace Plan.
The plan was cleverly constructed to force
President Nixon to set a date to end the Vietnam War and withdraw American
troops. According to the 7-Point Peace Plan of Madame Binh, the only barrier to
Hanoi setting a date to release American Prisoners of War was President Nixon's
unwillingness to set a specific date for military withdrawal. Of course,
accepting the full terms of the 7-Point Peace Plan would have amounted to an
American capitulation, a virtual surrender that included the payment of
reparations to the Vietnam communists as an admission that America was the
wrongful aggressor in an immoral war.
A section of the Circular titled
"PREPARATION FOR THE FALL ((1971)) ANTIWAR MOVEMENT" makes clear the
importance the Vietnamese Communists placed on advancing Madame Binh's 7-Point
Peace Plan within the United States:
The seven-point peace
proposal ((of the SVN Provisional Revolutionary Government)) not only solved
problems concerning the release of US prisoners but also motivated the people
of all walks of life and even relatives of US pilots detained in NVN to
participate in the antiwar movement.
-- Circular on Antiwar Movements in the US.
"SVN" indicates the South Vietnam Provisional Revolutionary
Government, i.e., the Vietcong. "NVN" refers to North Vietnam.
And again, highlighting how the Vietnamese
communists viewed the activities of the US antiwar movement, US politics, and
politics in South Vietnam as interconnected; all to be targeted by Madame
Binh's 7-Point Peace Plan:
The Nixon-Thieu clique is
very embarrassed because the seven-point peace proposal is supported by the SVN
people's (( political struggle)) movement and the antiwar movements in the US.
Therefore, all local areas, units, and branches must widely disseminate the
seven-point peace proposal, step up the people's ((political struggle))
movements both in cities and rural areas, taking advantage of disturbances and
dissensions in the enemy's forthcoming (RVN) Congressional and Presidential
elections. They must coordinate more successfully with the antiwar movements in
the US so as to isolate the Nixon-Thieu clique.
-- Circular on Antiwar Movements in the US.
"RVN" refers to the Republic of Vietnam, the government in South
Vietnam supported by the US.
POW Families: Targets of the
Vietnamese Communists
Late in 1970, a defecting Vietcong organizer
described a communist plan to use Vietcong sympathizers in the US to recruit
family members of American POWs held captive in North Vietnam. The following
summary of his interview was provided to the House Foreign Affairs Committee:
The Viet Cong plan to
continue their efforts to win worldwide opinion to their side and to solicit as
much material support for the VC struggle as possible from other countries in
order to create a favorable climate for the VC at the Paris Peace Conference.
The Viet Cong will continue
to promote domestic unrest against the war in the United States in order to
speed withdrawal of US troops and create pressure for an end to the war.
Efforts will be directed
toward the US soldier in Vietnam to demand that they be returned to the US and
be reunited with their families and wives.
The VC will strive to create
anti-draft and anti-war attitudes in the US by organizing VC sympathizers in
the US to contact families with sons in Vietnam and urge them to call their
sons home. Also VC sympathizers in the US will be organized to distribute
anti-draft leaflets to students and young people.
On February 1, 1971, at their Winter Soldier
Investigation in Detroit, the VVAW released a statement by Virginia Warner,
mother of American POW Jim Warner, urging President Nixon to "end the war
so the prisoners of war can come home." Jim Warner has accused John Kerry
of exploiting his mother's fears to obtain this statement.
On July 22, 1971, John Kerry held a press
conference in Washington, DC, to call upon President Nixon to accept Madame
Binh's 7-Point Peace Plan. Kerry surrounded himself at the press conference
with POW wives, parents and sisters who had been recruited to promote his
message. The event was reported in The New York Times of July 23, 1971 and the communist Daily World of July 24, 1971.
Each article included a photograph of Kerry surrounded by POW family members.
Kerry's use of POW families directly advanced
the North Vietnamese communist agenda as described by enemy defectors and in
the newly discovered Circular, which suggests that Madame Binh had recommended
the same course of action to antiwar activists meeting with her in Paris.
[Note: A number of POW families were contacted
by a "liason" group headed by Cora Weiss, the daughter of Communist
Party financier Samuel Rubin, with offers to provide mail and information about
their husbands if the families agreed to publicly denounce the war. Most POW
family members refused to cooperate with this extortion, even when promised
better treatment for their husbands or sons in Hanoi. Four angry POW wives
protested at Kerry's July press conference, one of whom accused Kerry of
"constantly using our own suffering and grief" to advance his
political ambitions.]
The Directive: Supporting the
US Domestic Insurgency
The second document, captured by US military
forces in South Vietnam on May 12, 1972, is a communist Directive designed to
motivate discussions within Vietnam about promoting the ongoing antiwar
activities in the United States. The fifth paragraph of this document makes
clear that the Vietnamese communists were utilizing for their propaganda
purposes the activities of the Vietnam Veterans Against the War. The protest
described as occurring from April 19 through April 22, 1971 coincides directly
with the dates of Dewey Canyon III, the Washington, DC, protest led by John
Kerry, during which John Kerry's testimony before Senator Fulbright's Foreign
Relations Committee was a televised centerpiece. The description of the protest
activities in the Directive even include the "return their medals"
ceremony in which John Kerry and other VVAW members threw their medals and/or
ribbons toward the steps of the US Capitol, with several shouting threats of
violence against their government as they did so.
The Connection: The People's
Committee for Peace and Justice
Another key discussion in the documents reveals
the degree to which the Vietnamese communists were working with and through the
PCPJ (People's Coalition for Peace and Justice. The Circular, immediately after
disclosing how the communist delegations to the Paris Peace talks were being
used to guide the US antiwar movement, stresses the importance of the PCPJ to
these efforts:
Of the US antiwar movements,
the two most important ones are: The PCPJ ((the People's Committee for Peace
and Justice)) and the NPAC ((National Peace Action Committee)). These two
movements have gathered much strength and staged many demonstrations. The PCPJ
is the most important. It maintains relations with us.
-- Circular on Antiwar Movements in the US
(emphasis added).
The House Internal Security Committee in its
1971 Annual Report described the PCPJ as an organization strongly controlled by
US communists: "There is no question but what members of the Communist
Party have provided a very strong degree of influence, even a guiding
influence, in the evolution and formation of policies of the Peoples' Coalition
for Peace and Justice."
Recently released FBI surveillance reports
establish a strong link between John Kerry, Al Hubbard, the VVAW, the PCPJ, and
their trips to Paris to meet with Madame Binh. As discussed in Unfit for
Command, Hubbard, the Executive Secretary of the VVAW and a hard-line radical
with ties to the Black Panthers and the PCPJ, had directly recruited John Kerry
into the VVAW's Executive Committee, bypassing the organization's election
process. Al Hubbard's own claim to have been a transport pilot wounded in
combat was discredited when the Department of Defense released documents
demonstrating that, though Hubbard had been in the Air Force, he was neither a
pilot nor an officer, had never served in Vietnam and had never been in combat.
John Kerry shared the stage with Al Hubbard during the Dewey Canyon III protest
in Washington, D.C., and he appeared together with Hubbard on NBC's Meet the
Press on April 18, 1971. Hubbard also signed the People's Peace Treaty, a PCPJ document that
reiterated the positions of North Vietnam and the Vietcong, on behalf of the
VVAW.
An FBI field surveillance report stamped November 11, 1971 reported
that the FBI had learned at the Regional VVAW Convention in Norman Oklahoma, on
November 5-7, 1971, that John Kerry and Al Hubbard were planning to travel to
Paris later in the month to engage in talks with the Vietnamese communist peace
delegations. While this document is heavily redacted, other FBI reports make it
clear that the Communist Party of the USA was paying for Al Hubbard's trips to
Paris.
IT IS NOTED THAT THE
"COMMUNIST PARTY" REFERRED IN RETEL IS PROBABLY THE COMMUNIST PARTY,
USA, BECAUSE AL HUBBARD IS A MEMBER OF COORDINATING OF PEOPLES COALITION FOR
PEACE AND JUSTICE (PCPJ), AS ARE GIL GREEN, MEMBER OF NATIONAL COMMITTEE,
COMMUNIST PARTY, USA AND JARVIS TYNER, NATIONAL DIRECTOR, YOUNG WORKERS
LIBERATION LEAGUE. HUBBARD, GREEN AND TYNER HAVE ATTENDED SAME NATIONAL
MEETINGS OF PCPJ.
-- Federal Bureau of Investigations, Field
Surveillance Report, filed November 11, 1971. A copy of this report was
air-mailed to the Boston FBI office in reference to John Kerry.
An FBI field surveillance report dated November 24, 1971 details
Al Hubbard's presentation to a VVAW meeting of the Executive and Steering
committees in Kansas City, Missouri, during the weekend of November 12-15, 1971
-- the same meeting at which the VVAW considered, then rejected a plan to
assassinate several pro-war US Senators. John Kerry is listed as present. Once
again, Al Hubbard made clear the communist coordination involved in his recent
trip to Paris:
[BLACK OUT] advised that
Hubbard gave the following information regarding his Paris trip:
Two foreign groups, which are
Democratic Republic of Vietnam (DRV) and Peoples Republic Government (PRG)
(phonetic), invited representatives of the VVAW, Communist Party USA (CP USA),
and a Left Wing group in Paris, to attend meeting of the above inviting groups
in Paris. Hubbard advised he was elected to represent the VVAW. An unknown male
was invited to represent the CP USA and an unknown individual was elected to
represent the Left Wing group from Paris. He advised at the meeting that his
trip was financed by CP USA.
-- Federal Bureau of Investigations, Field
Surveillance Report, filed November 24, 1971.
A letter written by Al Hubbard on April 20, 1971 leaves
no doubt about the strong coordination between the Vietnam Veterans Against the
War and the People's Coalition for Peace and Justice. Addressed from the
offices of the VVAW in Washington, D.C., the letter is an appeal to VVAW
members to provide assistance to the PCPJ. It discusses several ways in which
the two organizations have worked closely together:
This is an appeal for help
for the Peoples Coalition for Peace and Justice. Over the past months the
Peoples Coalition has supported the Vietnam Vets Against the War in many ways.
The Coalition has made office space available at no charge, and permitted the
use of all necessary office equipment such as mimeograph machines,
stencil-making machines, folders and typewriters. They have loaned us cars,
bullhorns, and public address equipment. Their staff has taken messages for us
and joined fraternally in building our progress. Now we can return this
support.
Saturday, April 24, the
Coalition needs help collecting money and selling buttons at the great march
and rally. Collectors and sellers must be energetic and determined. Theree will
be security problems in taking large amounts of money to banks. The Coalition
needs people power, hundreds of workers.
I earnestly hope that you
will come forward to support our friends in this emergency.
-- Letter signed by Al Hubbard, addressed from
the Vietnam Veterans Against the War office at Room 900, 1029 Vermont Ave.
N.W., Washington, D.C., dated April 20, 1971. Found in the House Internal
Security Committee subject files, Washington, D.C.
Two days after the letter was written, John
Kerry gave his famous testimony to Senator Fulbright's Foreign Relations
Committee in which he likened the American military in Vietnam to the army of
Ghengis Khan. The march and rally for which Hubbard was recruiting VVAW
assistance was the PCPJ's massive April 24 demonstration in Washington, which
immediately followed the VVAW's week-long Dewey Canyon III protest. The communist Daily world reported on April 27 that
"Tributes were paid to the special role of the Vietnam Veterans" at
the PCPJ rally, and went on to quote at length from John Kerry's speech at that
event.
Willing Partners: the VVAW
and the Vietnamese Communists
Other examples of the VVAW's advocacy of
Vietnamese communist positions during the period of John Kerry's leadership
abound. The group issued a proclamation in February 1971 calling
for mass civil disobedience and military mutiny if American forces entered
Laos. After the war, North Vietnamese military leaders acknowledged that one of
their greatest fears was that America would move significant forces into Laos
to interdict the Ho Chi Minh Trail. The VVAW's eagerness to comply with the
wishes of the Vietnamese communists even extended to its choice of
nomenclature. The VVAW's Executive Committee stated in a July 1971 meeting that
the terms "Vietcong" and "North Vietnamese" were not to be
used in VVAW press releases and communications. Instead, "PRG (Provisional
Revolutionary Government)" and "DRV (Democratic Republic of
Vietnam)"... "are to be used by us to reflect our acceptance of their
designations." And the VVAW's unremitting insistence that American forces
were mass-murdering Vietnamese civilians perfectly echoed the primary
propaganda theme put forth by the Vietnamese communists, their international
communist allies, and their Soviet sponsors.
Conclusion
The newly uncovered documents help clarify the
relationship of the North Vietnamese, the Vietcong, the PCPJ, the Communist
Party of the USA, and John Kerry's VVAW. They indicate that these organizations
worked closely together, using the Paris Peace Talks as a central point of
communication, to employ the strategy and tactics devised by the Vietnamese
communists to achieve their primary objective: the defeat of the United States
of America in Vietnam.
-- by Jerome R. Corsi and Scott Swett
----------
[Note 1: On October 22, 2004, Swift Veterans
and POWs for Truth researchers Troy Jenkins and Tom Wyld located the two
Vietnamese communist documents referenced above in the archives of the Vietnam
Center at Texas Tech University, in the Douglas Pike Collection. Douglas Pike
was a leading authority on the Vietnam War who collected over 2 million pages
of original documents now archived at the Vietnam Center. James Reckner, Ph.D.,
Director of the Vietnam Center at Texas Tech, verifies that the documents in
the Pike collection are original and authentic. The Circular and the Directive
are listed as items numbered 2150901039b and 2150901041 respectively.]
[Note 2: The authors wish to thank Max Friedman
for making available two additional documents, first, Al Hubbard's April 20,
1971 letter to the VVAW membership. The full citation is: National Peace Action
Coalition (NPAC) and Peoples Coalition for Peace & Justice (PCPJ) Part I,
hearings before the Committee on Internal Security, House of Representatives,
92nd Congress, First Session, May 18-21, 1971, p. 1796. The second document,
"Extracts from an interview with a Viet Cong returnee" comes from the
American Prisoners of War in Southeast Asia 1971 hearings before the Subcommittee
on National Security Policy and Scientific Development, House Foreign Affairs
Committee, 92nd Congress First Congress, March 23-25, 30-31, April 1, 6 &
20, 1971, Testimony of Max P. Friedman, pg 299.]
No comments:
Post a Comment