Bình luận của Lê Nguyên Bình (ĐVDVN)
Ngày
16/12/2013, Tòa án TP. Hà Nội xử đại án tham ô Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam
(Vinalines) thật rầm rộ và nặng nề. Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc tất nhiên có
tội nhưng bản án tử hình dành cho hai phạm nhân này không đủ để thể hiện quyết
tâm bài trừ tham nhũng. Tương tự như các vụ án tham ô lớn trước đây, mọi người
thừa hiểu rằng: Tham nhũng ở nước ta là do cơ chế gây ra. Đối với các
nước dân chủ thì cách thức giải quyết thông thường là thay đổi nội các, và có
thể điều chỉnh luật pháp; nhưng với bộ máy độc tài toàn trị đương quyền, muốn
giải quyết tình trạng tham ô một cách rốt ráo thì giải pháp duy nhất là phải
giải thể chế độ.
Trong những năm qua, đảng và nhà nước CSVN đã
chính thức công nhận sự hiện hữu của quốc nạn tham nhũng. Do đó, vụ án
Vinalines xử Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc cùng tám đồng phạm không gây ngạc
nhiên cho ai. Nhưng dù vậy, một lần nữa, nó gây ra thêm bao xót xa, phẩn uất
trong công luận.
Theo tin báo Tuổi Trẻ Online về vụ án
Vinalines: “Chiều 16-12, sau ba ngày xét xử, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã
tuyên án đối với 10 bị cáo trong đại án tham nhũng tại Vinalines. Hội đồng xét
xử đã tuyên án tử hình đối với Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc…. Theo hội đồng
xét xử, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về hành vi tham ô tài sản và cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng là có cơ
sở. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây thất thoát
cho nhà nước hơn 366 tỉ đồng.” (XEM TIN NGUỒN)
Con số “thất thoát cho nhà nước hơn 366 tỉ
đồng” tương đương với hơn 100.000 lần lương tháng trung bình của một giáo
viên hay công nhân lao động (khoảng $3.500.000 đồng/tháng). Nhưng đây chỉ là
một vụ tham ô không may bị đổ bể, trong vô số những vụ tham ô đã và đang xảy ra
nhan nhản ở nước ta. Vụ án này là thêm một bằng cứ để minh chứng tình trạng
tham ô đang xảy ra trong hầu hết các lãnh vực.
Có thể nói, nếu có điều kiện để thành hình một
cơ quan độc lập có thẩm quyền điều tra và truy tố đúng người, đúng tội, thì bộ
máy cầm quyền hiện nay sẽ bị tê liệt hoàn toàn, vì không còn đủ người làm việc
trong mỗi bộ phận, kể cả ngành Tư pháp.
Nếu bộ phận Tư Pháp có thể xử án một
cách công tâm, độc lập với đảng CSVN, thì dù là theo luật lệ hiện hành, vấn đề
tham ô cũng sẽ được ngăn chận một cách đáng kể. Nếu đảng CSVN thật sự muốn
thanh lọc bộ máy chính quyền, họ phải trả lại quyền tự do ngôn luận cho xã hội
để người dân có thể yểm trợ trực tiếp cho việc tố giác kẻ gian tham. Họ đồng
thời phải gỡ bỏ sự kềm kẹp đối với giới báo chí, dù tất cả đều là cơ quan
truyền thông nhà nước. Nếu giải tỏa đi sự kềm chế khắc nghiệt đang có, các ký
giả có lương tâm nghề nghiệp sẽ giúp phanh phui thực trạng lạm dụng quyền lực,
tham ô của công và cưỡng chiếm của dân trong một thời gian không lâu.
Nhưng tất cả giả thiết nêu trên sẽ không bao
giờ trở thành hiện thực trong chế độ độc đảng thối nát hiện nay. Bởi lẽ, khi
nhà cầm quyền thật sự giải quyết nạn tham ô, thì có thể là đa số viên chức của
bộ máy cầm quyền hiện nay đều phải lãnh án tù và không ít người phải bị xử tử.
Xử Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc cùng đồng phạm
và tuyên án nặng nề là điều tất nhiên song vụ án này không thể chứng tỏ là Việt
Nam có công lý, khi mà vô số cá nhân, cơ quan khác đang tiếp tục ăn cắp của
công và ăn cướp của dân một cách có hệ thống. Việt Nam không phải là nước duy
nhất bị khủng hoảng bởi quốc nạn tham ô, vì đó là một căn bệnh chung của các
chế độ độc tài tòan trị, dù có là Cộng sản hay không. Nhưng thảm trạng tham ô ở
Việt Nam đã trở nên nghiêm trọng khi tự nó chứng tỏ rằng nó là quốc nạn mang
tính hệ thống của một cơ chế hoàn toàn KHÔNG có ba quyền phân lập như ở các
nước phát triển khác. Hơn nữa, nó còn được đảng cầm quyền có tình dung dưỡng, bao
che.
Nạn tham ô không phải là một tội cá biệt của
những cá nhân phạm tội nên vụ Vinalines vừa rồi không thể hiện sự công bằng của
bộ máy cầm quyền. Những vụ án “tế thần” có thể sẽ tiếp tục xảy ra khi sự va
chạm giữ các nhóm quyền lợi cao cấp đã đến mức vượt khỏi giới hạn bình thường.
Nhưng phía sau hậu trường chính trị và kinh tế là một bộ máy tham ô đang tiếp
tục vận hành một cách quy mô, tàn bạo và có hệ thống. Những gì bị phanh phui
chỉ là một phần trăm nhỏ trong hiện trạng quốc nạn tham nhũng ở nước ta.
Vấn đề tham ô đáng lên án vì nạn độc tài, tham ô
gây thiệt hại vất chất và tinh thần một cách lớn lao cho toàn thể thành phần
lao động nghèo. Nó đồng thời cũng phá hoại tiềm năng và tiến trình phát triển
lành mạnh tự nhiên của một đất nước, bao gồm tất cả lãnh vực quan yếu trong xã
hội. Mặt khác, điều đáng tiếc khác là những người liêm chính trong bộ máy cầm
quyền cũng phải chịu ảnh hưởng liên đới từ các thành phần bất hảo trong đảng và
nhà nước CSVN.
Tài sản khổng lồ của mỗi gia đình các quan
chức là bằng chứng mặc nhiên. Mức độ giàu sang bất chính của các cán bộ cao cấp
tự nó là biểu hiện mặc nhiên của quốc nạn tham nhũng ở Việt Nam. Nó là hậu quả
tất nhiên của cơ chế độc tài toàn trị, là biểu hiện thực tế của một bộ máy cầm
quyền không có cơ cấu giám sát độc lập.
Đất nước và nhân dân Việt Nam đang bị cấu xé,
tàn hại bởi đảng Cộng sản Việt Nam. Hậu quả không phải chỉ là vấn đề nhân quyền
thuần túy qua chuỗi bắt bớ, giam tù những người đấu tranh ôn hòa một cách phi
lý. Cơ chế độc tài toàn trị đã dẫn đến tình trạng mất lãnh thổ và nguy cơ chủ
quyền bị đe dọa nặng nề. Nó đồng thời gây ra bao cảnh thương tâm cho đa số quần
chúng, kể cả với những gia đình đã có nhiều đóng góp, hy sinh to lớn cho giai
đoạn cướp chính quyền của đảng CSVN. Vì quốc nạn tham nhũng xuất phát từ hậu
quả mặc nhiên của bộ máy cầm quyền độc tài toàn trị nên chỉ có một chính thể
dân chủ đa đảng đúng nghĩa mới có điều kiện và khả năng để giải trừ nó. Nói
cách khác, chỉ có một chế độ chính trị cho phép xã hội, đặc biệt là các cơ quan
truyền thông độc lập và những đoàn thể xã hội dân sự, được quyền tố giác những
sự lạm dụng quyền lực và tham ô thì tình trạng nguy hại này mới có thể được
ngăn chận, hóa giải dần. Do vậy, vấn đề tham ô ở Việt Nam sẽ tiếp tục là một
quốc nạn nghiêm trọng cho đến khi chế độ cầm quyền độc tài bị giải thể.
Muốn giải quyết một cách hiệu quả và rốt ráo
các vấn nạn lớn của đất nước, Việt Nam phải thay đổi cơ chế chính trị và thành
phần lãnh đạo quốc gia một cách dứt khoát. Những cái gọi là "cải
cách" chính trị, kinh tế, xã hội... vá víu nửa vời không thể được chấp
nhận vì những thay đổi này, cho dù có được thực hiện, cũng không thể giải quyết
tận gốc rễ các quốc nạn. Nếu đảng CSVN thật sự có thiện chí hoàn lương và đổi
mới, họ phải nhanh chóng trả lại quyền lãnh đạo đất nước cho toàn dân.
Đã đến lúc để khẳng định rằng: Chỉ với
trọng tội gây ra và dung dưỡng quốc nạn tham nhũng hoành hành một cách có hệ
thống từ trên xuống dưới, chế độ đương quyền đã xứng đáng để bị giải thể!
Giải thể một chế độ độc tài theo tinh thần
nhân bản thời nay KHÔNG phải là lật đổ chế độ và tiêu diệt toàn thể viên chức
chính quyền, quân đội, công an. Chủ trương "Giải Thể" theo tinh thần
dân chủ là chấm dứt tình trạng lãnh đạo độc tài, thiết lập một cơ chế chính trị
dân chủ bằng Hiến Pháp mới, và thành hình một chính phủ dân cử qua cuộc Tổng
Tuyển Cử Tự Do thật sự công bằng và tự do. Theo đó, nhiệm vụ các bộ phận chính
quyền, quân đội, công an trong chính phủ mới là phục vụ quốc gia, thay vì chỉ
là đảng hay liên minh cầm quyền, dù là không Cộng sản.
Tóm lại, muốn có điều kiện giải quyết quốc nạn
tham nhũng ở nước ta, con đường duy nhất là chấm dứt chế độ độc tài toàn trị và
thiết lập một chính thể dân chủ đa đảng. Chỉ có một chính phủ với tam quyền
phân lập mới có thể ngăn chận hữu hiệu sự hoành hành của nạn tham ô và lạm dụng
quyền lực.
Lê Nguyên Bình (ĐVDVN)
No comments:
Post a Comment