Sunday, March 11, 2012

PHÓNG VIÊN NGƯỜI MỸ BỊ TRỤC XUẤT KHỎI VIỆT NAM

PHÓNG VIÊN TỰ DO NGƯỜI MỸ VỪA BỊ
TRỤC XUẤT KHỎI VIỆT NAM



Kính thưa quý vị,
- Sáng hôm nay, ngày 25/10/2011, Tờ báo Guardian thuộc loại hàng đầu của Anh , đã cho biết mới đây phóng viên tự do người Mỹ Dustin Roasa, khi trở lại Việt Nam, đã bị bắt và giữ suốt đêm ở phi trường Tân Sơn Nhất và bị trục xuất khỏi Việt Nam vào ngày hôm sau. Họ nói với Dustin Roasa: “Vi các lý do an ninh chúng tôi không hoan nghênh anh ở Việt
Nam.”


Xin nhắc lại Dustin Roasa là nhà báo tự do tại Cambodia viết về các vấn
đề nhân quyền và phát triển ở Đông Nam Á. Ông đã sống ở Việt Nam từ năm 2004 đến
2005 và thường quay trở lại Việt Nam.

Dustin Roasa and Thu Tram
Vào năm ngoái Dustin Roasa đã đến Việt Nam và viết bài về sự trấn áp gia
tăng của công an trước đại hội Đảng. Trong bài đó ông đã phỏng vấn các anh
Nguyễn Ngọc Quang, Lê Trần Luật và chị Nguyễn Thu Trâm tại một quán cà phê ở
trung tâm Sài gòn. Theo tờ Guardian anh Nguyễn Ngọc Quang và chị Nguyễn Thu Trâm
phải trốn qua Thái Lan vì sợ bị bắt sau khi trả lời phỏng vấn của Dustin Roasa.
Hai bài của Dustin Roasa đã được dịch ra tiếng Việt:

TỰ DO DƯỚI BÓNG NHÀ TÙ

Dustin Roasa -Trần Quốc Việt (danlambao) dịch


Dustin Roasa và những thành viên khối 8406 đang
tỵ nạn tại Bangkok, Thailand
Thành phố Hồ Chí Minh – ở quán cà phê thời thượng trong trung tâm thương mại Saigon Centre, nơi giới mới giàu lên thích đến để nhìn và để được thiên hạ nhìn, Nguyễn Ngọc Quang hồi tưởng lúc anh trực diện với mặt trái đen tối hơn của phép lạ kinh tế Việt Nam từng được ca ngợi rất nhiều. Anh kể những người công an thuê đã lái xe máy tông anh té xuống đất rồi cán qua người anh. Lời nhắn thẳng thừng cho nhà bất đồng chính kiến và nhà hoạt động dân chủ trên mạng này là: hãy dừng lại ngay nếu không liệu hồn. Nhưng  con người này, trước đây làm nghề trang trí nội thất, 49 tuổi, khuôn mặt hằn những vết sẹo từ vụ tấn công vào hồi tháng Chín, vẫn không khuất phục. ” Tôi nhất định không lùi bước, ” anh nói. “Chính quyền đang ra sức ngăn chặn chúng tôi chỉ vì chúng tôi nói lên sự thật.
Họ đã nói láo với nhân dân suốt bao nhiều năm nay rồi.”



Nguyễn Ngọc Quang, mới vừa mãn án tù
ba năm về tội bất đồng chính kiến, là thành viên trong nhóm ngày càng lớn mạnh
của những người Việt Nam đang công khai lên tiếng thách thức quyền lực của đảng
Cộng sản, vốn đã cai trị nước này kể từ khi thống nhất vào năm 1975 và không cho
phép đối lập chính trị. Qua những bài viết trên các blog và mạng xã hội về các
vi phạm nhân quyền, tham nhũng, và hạn chế tự do ngôn luận các nhà hoạt động dân
chủ đã thu hút lượng độc giả ngày càng tăng.

Nhưng khi nhà cầm quyền chuẩn bị cho
đại hội toàn quốc đảng Cộng sản vào ngày mai, kỳ họp rất quan trọng nhằm phác
thảo ra đường hướng quốc gia và nhân sự lãnh đạo cho năm năm tới, chính quyền đã
tìm cách khẳng định quyền lực của mình qua hành động trấn áp những người lên
tiếng chỉ trích như Nguyễn Ngọc Quang. Năm qua, hàng chục nhà bất đồng chính
kiến đã bị bắt và giam giữ, chưa kể còn biết bao nhiêu người khác đã bị công an
sách nhiễu và theo dõi.  Năm ngoái, trong công điện ngoại giao mật gởi đi từ đại
sứ quán tại Hà Nội, đại sứ Mỹ đã đề cập đến việc “xử dụng bạo lực quá đáng” để
đàn áp một cuộc biểu tình, điều đó ông nói “thật đáng lo ngại và chứng tỏ chính
phủ Việt Nam gia tăng trấn áp nhân quyền nhiều hơn trước đại hội đảng vào tháng
Giêng năm 2011.”



Căng thẳng gia tăng trong lúc tầng
lớp lãnh đạo chuẩn bị bắt đầu giải quyết các vấn đề đối nội ở đại hội Đảng trong
đó bao gồm nền kinh tế hoạt động yếu kém và sự chỉ trích công khai các mối quan
hệ kinh tế ngày càng mật thiết với kẻ thù truyền thống Trung Quốc. Hôm thứ tư,
công an thành phố Huế ở miền trung đã hành hung nhà ngoại giao Mỹ khi ông cố
gắng đến thăm cha Nguyễn Văn Lý, vị linh mục Công giáo bất đồng chinh kiến đang
bị quản thúc tại gia sau khi được thả ra khỏi tù vì lý do sức khoẻ. Nhà cầm
quyền cũng đang ngăn chặn Facebook, công cụ liên lạc rất quan trọng đối với các
nhà hoạt động dân chủ, riêng người phóng viên viết bài này thì bị công an chìm
theo dõi trong những lần gặp gỡ các nhà hoạt động dân chủ tại nhiều nơi trong
thành phố.

“Đảng Cộng sản muốn bóp nghẹt phê
bình và bất ổn trước kỳ họp quan trọng nhất của đảng,” Sophie Richardson giám
đốc Châu Á của tổ chức Human Rights Watch cho biết. ” Tình trạng đàn áp những
người chỉ trích chính phủ ôn hoà thật ra chẳng phải là điều gì mới mẻ tại Việt
Nam, nhưng ngay bây giờ chúng tôi thấy sự trấn áp đang tăng vọt đáng
kể.”

Khôi phục niềm tin vào nền kinh tế
Việt Nam, mà đã bắt đầu chựng lại sau nhiều năm phát triễn, sẽ là một trong
những mục tiêu phấn đấu quan trọng nhất của đảng. Tuần qua, công ty PwC tiên
đoán rằng vào khoảng năm 2050 Việt Nam sẽ là nền kinh tế lớn thứ 14 trên thế
giới, sự tăng triễn chóng mặt cho quốc gia đã từng suýt lâm vào nạn đói mới gần
đây vào giữa thập niên 1980. Bằng chứng của phép lạ kinh tế này hiện diện khắp
nơi ở thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện qua các nhà chọc trời, trong đó có toà nhà
Bitexco Tower 68 tầng mới khai trương vào tháng Mười, qua cảnh các đại lộ đông
nghẹt những xe gắn máy và xe hơi.

Sự thay đổi hoàn toàn này đa phần
nhờ chính sách Đổi Mới được đưa ra vào thập nhiên 1990, qua đó dần dần cởi trói
nền kinh tế trong khi vẫn duy trì kiểm soát chính trị tuyệt đối rất giống như
những gì diễn ra ở Trung Quốc.

Nhưng càng ngày càng phát sinh ra
nhiều vấn đề. Lạm phát rất cao ảnh hưởng nặng nề đến người nghèo. Sự phát triễn
mau lẹ đã đuổi nông dân ra khỏi ruộng vườn của họ. Các cuộc đình công ngày càng
gia tăng tại những nhà máy xuất khẩu ở trong nước và bao mối lo về ô nhiễm công
nghiệp.

Dù tầng lớp lãnh đạo nhiều lần công
khai cam kết đẩy mạnh cải cách nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng khu vực do
nhà nước quản lý tuy hoạt động kém vẫn tiếp tục nhận được trợ cấp đáng
kể.

Nhà máy đóng tàu Vinashin, một trong
những công ty quốc doanh lớn nhất trong nước, đã trở thành điển hình cho sự quản
lý kinh tế tồi tệ của chính quyền. Công ty này gần như phá sản với số nợ 4.5 tỷ
đô la, nhưng chính quyền vẫn cố tiếp sức duy trì nó.

“Trường hợp Vinashin chứng minh phát
triễn kinh tế hầu như chỉ làm lợi cho chính quyền và cho những ai có các mối
quan hệ. Còn đa số người dân đều không thấy lợi ích gì. Giá cả thì tăng vọt còn
người dân lại mất việc.” Lê Trần Luật, luật sư viết về nhân quyền và biện hộ cho
những người bất đồng chính kiến tại toà, phát biểu.



Theo lời Carl Thayer, chuyên gia về
 

Việt Nam ở Học viện Quốc phòng Úc, người ta đoán điểm nổi bật nhất ở kỳ đại hội
kéo dài cả tuần lễ này là sự kình địch trong nội bộ đảng giữa hai phe phái tranh
nhau nắm các chức vụ lãnh đạo. Phe bảo thủ trong đảng coi Trung Quốc là mẫu mực,
e ngại sự cởi mở tiếp tục ở trong nước cho nên có lẽ ra lệnh trấn áp các nhà bất
đồng chính kiến nhằm cảnh cáo phe cải cách trong đảng, ông Thayer nhận định. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng, chính trị gia quyền lực nhất nước, có thể được ban thêm
nhiệm kỳ năm năm.

Vào năm 2008, chính quyền Việt Nam
đã nhượng đất cho một công ty Trung Quốc khai thác mỏ bauxite trị giá hàng tỷ đô
la ở cao nguyên trung phần Việt Nam. Các nhà hoạt động tranh đấu dân chủ đã thu
hút được sụ ủng hộ chưa từng có từ tầng lớp tinh hoa ở đô thị và từ trong nội bộ
đảng -  trong đó có cả anh hùng giành độc lập tướng Võ Nguyên Giáp – qua chỉ
trich việc khai thác mỏ và thái độ ngày càng lấn lướt của Trung Quốc tại biển
Đông, nơi có nhiều đảo có nhiều tiềm năng khoáng sản mà cả hai nước đều tuyên bố
chủ quyền.

Hoa Kỳ, dưới chính quyền Obama tìm
cách tái xác lập ảnh hưởng ở đông nam Á như đối trọng trong vùng với Trung Quốc,
đã nhận ra cơ hội. Bộ trưởng ngoại giao Hillary Clinton đến Hà Nội hai lần trong
năm 2010, và trong lần viếng thăm vào tháng Bảy bà tuyên bố Hoa Kỳ có “quyền lợi
quốc gia” trong sự tự do hàng hải ở biển Đông.

Phe bảo thủ trong đảng, bị dồn vào
chân tường trước làn sóng giận dữ trong dân chúng về vấn đề Trung Quốc, đã tìm
cách dập tắt cuộc tranh luận bằng cách ngăn chặn và đánh phá các trang mạng và
bắt giữ những người viết blog chống Trung Quốc.



Bất chấp những rủi ro này, các trí
thức đô thị vẫn tiếp tục gia nhập vào đội ngũ những nhà hoạt động dân chủ.
Nguyễn Thu Trâm, 33 tuổi, mới tham gia vào Câu lạc bộ Nhà báo Tự do, nhóm tự
nguyện gồm những nhà báo nghiệp dư đăng những bài viết trên mạng về những cảnh
bất công đời thường tại các thành phố họ sống và qua đó tạo ra hình thức báo chí
mới cùng hiện diện với báo chí quốc doanh bị kiểm duyệt nặng nề. Nguyễn Thu Trâm
phải thoát ly gia đình vì sợ gây nguy hiểm cho người thân, và chị cho biết chị
thường xuyên bị công an tra vấn.

“Tôi vẫn tiếp tục đi ra ngoài để nói
chuyện với mọi người, và để tường thuật những gì đang xảy ra trong cuộc sống của
họ.” Chị nói. “Nhưng ở Việt Nam  xử dụng internet là cả một sự liều lĩnh. Thỉnh
thoảng tôi tưởng đâu nửa người của mình đã ở trong tù rồi.”


Bản tiếng Việt: Trần Quốc Việt (danlambao)

Tựa đề của người dịch, nguyên tác
tiếng Anh “Vietnam cracks down on online critics ahead of Communist congress”,
tờ Guardian, Anh số ra ngày 10/1/2011.

Nguồn: http://www.guardian.co.uk/world/2011/jan/10/vietnam-cracks-down-online-critics


CÁC NHÀ BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN KHÔNG HIỆN DIỆN TRONG TÂM TƯỞNG PHƯƠNG TÂY

Trần Quốc Việt dịch (Dustin Roasa)


Vào ngày 8 tháng Mười năm 2009, một phụ nữ người Hà Nội tên Trần Khải
Thanh Thuỷ đi xuống Hải Phòng, thành phố biển ở Việt Nam, để dự phiên toà xử sáu
nhà hoạt động đấu tranh dân chủ. Nhưng chị không đến được toà án. Ngược lại, chị
bị công an chặn đường bắt phải quay về nhà chờ có thông báo mới. Tối hôm ấy, hai
người đột nhập vào nhà dùng gạch đánh chị trước mặt chồng và con gái, trong khi
đó các công an bên ngoài thản nhiên đứng nhìn. Rồi công an bắt chị và cáo buộc
chị tội hành hung.

Phiên toà xử Trần Khải Thanh Thuỷ diễn ra vào tháng Hai năm nay và kéo
dài một ngày. Chứng cớ buộc tội chính là tấm ảnh được xem là của nạn nhân, người
bị băng bó ở đầu, về sau những người viết blog Việt Nam chứng minh rằng ảnh đó
đã bị nguỵ tạo thô thiển. “Đây là sự thêu dệt và hoàn toàn vu cáo,” Trần Khải
Thanh Thuỷ nói về những về những cáo trạng. “Tôi phản đối phiên toà này, và tôi
không đến đây để chấp nhận điều này.” Toà án kết tội chị ba năm rưỡi tù, nhưng
chị đã không nghe được bản án vì chánh án đã đuổi chị ra khỏi toà do tội tự tiện
nói trước toà. Thông cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch)
tuyên bố là vụ xử “cố tình bóp méo sự thật.”

Đây không phải là sự bất đồng đầu tiên giữa Trần Khải Thanh Thuỷ với nhà
cầm quyền. Chị đã bị ở tù vào năm 2007 vì viết những bài báo chỉ trích chính
quyền và kêu gọi dân chủ đa đảng. Các tổ chức nhân quyền và chính phủ nước ngoài
xem chị là tù nhân lương tâm và đang kêu gọi trả tự do cho chị. Chị ít nhất là
nhà hoạt động đấu tranh dân chủ thứ mười sáu bị cầm tù ở Việt Nam kể từ tháng
Mười năm 2009, nằm trong điều mà đại sứ Mỹ tại Việt Nam mô tả là sự “tăng vọt”
các vi phạm nhân quyền.

Quả thực đã có sự tăng vọt, nhưng đấy chỉ là phần nào của câu chuyện lớn
hơn rất nhiều, và có tính lịch sử hơn. Lần đầu tiên kể từ khi thống nhất vào năm
1975, Đảng Cộng sản cầm quyền đang đối mặt với sự thách thức bền bỉ hơn và có tổ
chức hơn về tính chính danh của Đảng. Những người bất đồng chính kiến thuộc đủ
mọi tầng lớp trong xã hội đã cùng nhau kêu gọi tổ chức các cuộc bầu cử và đa
nguyên chính trị. Phong trào này tuy nhỏ, nhưng đang lớn dần, và, xét theo mức
độ trấn áp khốc liệt, nhà cầm quyền xem đây là vấn đề nghiêm trọng.

Song thế giới bên ngoài hầu như chẳng lưu ý đến. Là nhà báo đã từng làm
việc ở Đông Nam Á trong năm năm vừa qua và hay tiếp xúc với các nhà hoạt động
đấu tranh dân chủ ở Việt Nam, tôi thường tự hỏi tại sao phong trào đã không thu
hút đuợc sự quan tâm sâu rộng của thế giới như những phong trào tương tự ở Trung
Quốc, Miến Điện, và Zimbabwe. Cho dù lý do thế nào chăng nữa, bạn có lẽ đang đọc
ở đây lần đầu tiên một bài viết về phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt
Nam.

Câu chuyện ấy mở đầu vào ngày 8 tháng Tư năm 2006, khi một nhóm các nhà
hoạt động dân chủ công bố trên mạng bản tuyên bố tên “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ
Năm 2006″. Hơn hai ngàn người bao gồm các luật sư, cựu đảng viên Đảng Cộng sản,
nhà sư Phật giáo, linh mục Công giáo, nhà văn, trí thức từ mọi miền đất nước,
liều bị bắt để ký tên vào văn kiện này. Họ được biết đến qua tên Khối 8406, được
đặt tên theo ngày công bố bản tuyên ngôn. Tuyên ngôn kêu gọi tổ chức các cuộc
bầu cử và kêu gọi xác lập một thể chế chính trị tôn trọng các quyền cơ bản, lời
lẽ trong bản tuyên ngôn đánh thẳng vào phần cốt lõi nhất trong tính chính danh
của Đảng. Các cuộc chiến tranh giành độc lập chống người Pháp và người Mỹ của
Việt Nam, theo lời các tác giả của bản tuyên ngôn, về cơ bản thực chất là mang
tính dân tộc. Song qua bạo lực và khủng bố trấn áp, những người theo đuổi ý thức
hệ cộng sản đã cướp và tiếm đoạt công lao đấu tranh ấy để phục vụ cho các mục
đích riêng của mình. Điều này đúng hay sai nói chung không quan trọng. Điều quan
trọng là qua việc truy đuổi chính quyền ngay chính trên lãnh địa mà chính quyền
xem là thiêng liêng, tức vai trò lãnh đạo của Đảng trong các cuộc chiến tranh
giành độc lập và thống nhất của Việt Nam, các nhà bất đồng chính kiến đang phát
đi một thông điệp rằng họ không nói suông.

Nhà cầm quyền trả đũa bằng nhiều vụ bắt giam. Những ai thoát khỏi cảnh tù
tội thì đối mặt với cảnh bị đánh đập, sách nhiễu, và hăm dọa. Báo chí nhà nước
đăng những bài báo lên án những thành viên Khối 8406 là “lạm dụng tự do dân chủ”
và mưu toan lật đổ chính quyền. Cuộc trấn áp này đã gây ra hậu quả đáng sợ. Đa
số các nhà bất đồng chính kiến ngừng phát biểu công khai, nhưng một thiểu số rút
lui vào hoạt động bí mật, họ vẫn âm thầm tiếp tục tổ chức và cho ra những nội
san và tuyên bố.

Tôi có dịp thăm vài thành viên Khối 8406 ở Việt Nam vào mùa đông năm
2007, và tâm trạng của họ là bi quan. Mặc dù họ tin là, theo thời gian cùng với
lòng kiên nhẫn, toàn thể nhân dân sẽ tìm thấy đủ can đảm để chung sức với họ,
nhưng phong trào luôn luôn bị trấn áp và các thành viên đang bị mất hút dần vào
chốn lao tù. Các nhà bất đồng chính kiến bị cô lập nên cần một vấn đề để kích
hoạt sự ủng hộ. Người thì hy vọng các quyền lao động sẽ là câu trả lời – các
cuộc đình công là hiện tượng ngày càng gia tăng tại các xí nghiềp trong nước –
ngược lại kẻ thì hy vọng các quyền về đất đai và tự do tôn giáo sẽ tạo ra sự ủng
hộ hợp lòng dân. Các nhà bất đồng chính kiến cũng hy vọng các nhà báo sẽ bắt đầu
đổ xô vào trong nước để tường thuật câu chuyện của họ, và các nhà hoạt động dân
chủ người nước ngoài sẽ quan tâm đến phong trào của họ. Trừ một vài ngoại lệ,
bao niềm hy vọng này đã không thành. Tại sao?

Phải chăng Việt Nam thiếu một nhà lãnh đạo có tầm thu hút lớn để lay động
luơng tâm  thế giới, như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Morgan Tsvangirai
của Zimbabwe? Các nhà lãnh đạo phong trào Việt Nam không có nhân vật nổi tiếng
tương tự, nhưng họ cũng đã chứng tỏ rất can đảm và từng trải qua nhiều gian khổ
không kém. Chẳng hạn, bác sĩ Nguyễn Đan Quế ở thành phố Hồ Chí Minh, trong ba
mươi năm vừa qua đã ở tù đến hai mươi năm, tuy nhiên không ai biết đến ông ngoại
trừ các độc giả chăm chỉ nhất của trang mạng của tổ chức Human Rights Watch. Ông
tranh đấu không ngừng nghỉ với tư cách tác giả, nhà tư tưởng, và nhà chiến lược
của phong trào. Ông hiện thực sự sống trong cảnh bị quản chế tại gia, nơi ông bị
công an theo dõi và sách nhiễu thường xuyên. Dù bản thân và gia đình đã phải trả
một giá quá lớn, ông vẫn từ chối những lời mời sang sống lưu vong ở Hoa Kỳ.
Không có tiếng nói nào tốt hơn cho phong trào bất đồng chính kiến Việt Nam bằng
tiếng nói của Nguyễn Đan Quế. Nhưng thế giới chẳng đáp lại lời họ.

Phải chăng phong trào không có đủ sự ủng hộ ngay trong nước để được xem
là một hiện tượng quần chúng thực sự? Mặc dù chính các nhà bất đồng chính kiến
thừa nhận rằng phong trào còn nhỏ, có lẽ với chỉ độ vài ngàn thành viên tích
cực, nhưng họ tuyên bố có nhiều người Việt Nam ủng hộ họ nhưng không thể bộc lộ
do sợ nhà cầm quyền. Ta không có cách thật sự nào để kiểm chứng lời tuyên bố
này, nhưng phong trào tranh đấu dân chủ tại Trung Quốc, vẫn số lượng nhỏ như vậy
và vẫn sự ủng hộ không thể xác định được trong quần chúng như vậy, đã được
truyền thông quốc tế bênh vực ủng hộ. Các nhà báo như Howard French trong suốt
nhiều năm đã tích cực đưa những nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc lên trang
nhất tờ New York Times, ngược lại tờ báo ấy quyết định nhắc đến các nhà
bất đồng chính kiến Việt Nam chỉ một vài lần. Còn các tờ báo khác hầu như hành
xử cũng chẳng gì tốt hơn.

Phải chăng chính quyền Việt Nam thật ra chẳng tồi tệ đến như thế? Theo
các tổ chức như Human Rights Watch, Freedom House, Phóng Viên Không Biên Giới,
và nhiều tổ chức khác, Việt Nam là một trong những nước hà khắc nhất thế giới.
Chính quyền Việt Nam không cho phép đối lập chính trị; chính quyền kiểm soát
toàn bộ truyền thông trong nước; chính quyền không cho phép công nhân tập hợp tổ
chức; chính quyền thường xuyên tịch thu đất đai của nông dân để làm giàu cho nhà
cầm quyền và cho những kẻ có những mối quen biết về chính trị. Tuy nhiên không
hiểu sao chính quyền đã tìm được cách giới hạn các cuộc thảo luận quốc tế về
Việt Nam chỉ riêng vào lĩnh vực du lịch và kinh tế đang bùng nổ ở trong nước.
Những người Phương Tây tái khám phá đất nước này sau nhiều năm cô lập đã kinh
ngạc khi thấy Việt Nam không còn giống như vùng chiến sự ngày xưa và khi thấy
Việt Nam mời gọi đầu tư nước ngoài. Các cuộc thảo luận hay trò chuyện đều không
đi xa quá điều ấy.

Phải chăng thế giới đối xử Việt Nam khác vì Việt Nam chiếm một vị trí độc
đáo trong tâm tưởng Tây Phương? Trước tiên, dĩ nhiên, “Việt Nam” gợi tưởng đến
chiến tranh. Trong tâm tưởng Tây Phương, tất cả những ý nghĩa khác của từ này
đều bắt nguồn từ sự gợi tưởng ấy. “Việt Nam” là ẩn dụ đầy bất trắc của niềm tự
tin thái quá Tây Phương và, ngược lại, là sự cao quý của các phong trào cách
mạng thế giới thứ ba. “Việt Nam” gắn liền với thập niên sáu mươi và với sự thay
đổi căn bản trong các giá trị Mỹ cùng sự xuất hiện nền văn hoá đại chúng mới.
Trong những năm gần đây, “Việt Nam” đã bắt đầu được dùng đến để biện minh cho
nhiều lập trường trái ngược nhau về các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq.
Nếu ta ủng hộ sự tham chiến tiếp tục của Mỹ trong các cuộc chiến này, “Việt Nam”
là câu chuyện cảnh báo về cái giá bỏ rơi đồng minh, là chuyện kể về các trại cải
tạo và thuyền nhân. Còn nếu ta phản đối các cuộc chiến này, “Việt Nam” là câu
chuyện cảnh báo không kém về những làng mạc bị ném bom tan tành và những người
lãnh đạo không trung thực. Cho nên, ta không lấy làm ngạc nhiên rằng trong tâm
tưởng Tây Phương, “Việt Nam” không còn giống nhiều Việt Nam ngày nay, một nước
của tám mươi lăm triệu người dưới ách cai trị của một trong những chế độ độc tài
cộng sản cuối cùng trên trái đất.

Dù vậy, có lẽ “Việt Nam” khắc sâu trong lòng nhất là Việt Nam của mặc cảm
có tội. Chuyện Hoa Kỳ đã làm những điều kinh hoàng – từ chất độc da cam, ném bom
rải thảm, đến những vùng oanh kích tự do – là hiển nhiên, và nhiều hậu quả từ
những hành động này ngày nay ta vẫn còn nhìn thấy ở cảnh và người ở
đấy.

Tôi sống ở Phnom Penh, Cambodia, một đất nước chỉ mới vừa đây thoát ra
được cơn chấn thương từ cuộc chiến tranh Việt Nam mà họ đã bị lôi kéo vào. Trong
những di sản thấy rõ nhất của thời chiến này là hình ảnh vô số người tàn phế ở
trong nước, nhiều người trong số họ bị mất tay chân do hàng ngàn quả bom chưa nổ
do máy bay Mỹ thả xuống trong những phi vụ bí mật ở miền đông Cambodia đã san
bằng toàn bộ những ngôi làng và sát hại hàng chục ngàn người. Những vùng rộng
lớn ở miền đông Cambodia hiện vẫn còn đầy rẫy những quả bom còn sót lại chưa nổ
này, để rồi từ đấy tiếp tục giết và gây tàn phế cho nhiều người Cambodia nghèo ở
nông thôn. Việt Nam cũng có  những tàn tích riêng của cuộc chiến, trong đó có
đạn pháo chưa nổ còn sót lại và những trẻ em bị khuyết tật bẩm sinh do chất độc
da cam gây ra. Tôi sống và làm việc ở Việt Nam từ năm 2004 đến 2005, và bản thân
thường cảm thấy it nhiều ray rứt hay xấu hổ. Nhưng tôi ngạc nhiên rằng tôi không
bao giờ gặp phải sự thù hận từ phía những người Việt Nam. Thay vào đấy, tôi chủ
yếu cảm nhận sự cởi mở và quan tâm. Có nhiều dịp khi chủ đề chiến tranh được
nhắc đến, phản ứng thường phụ thuộc tuổi tác người đối diện. Người trẻ nói chung
thờ ơ về cuộc xung đột đã diễn ra trước khi họ chào đời và chẳng ảnh hưởng gì
mấy đến cuộc đời họ. Còn những người Việt Nam đủ lớn tuổi để trải qua chiến
tranh nói chung là rất lịch sự, tôi nghĩ điều này có lẽ do người Việt Nam phân
biệt rạch ròi giữa nhân dân Mỹ và các hành động của chính quyền Hoa Kỳ. Tôi thậm
chí thỉnh thoảng đã gặp phải điều mà tôi hiểu là sự thương hại, mà tôi tin là có
liên quan đến kết quả của cuộc chiến: họ thắng ta thua. Tuy thế tôi vẫn không
bao giờ cảm thấy vơi hết sự ray rứt và xấu hổ trong lòng.

Khi ở Việt Nam phần lớn thời gian tôi làm việc cho các báo nhà nước ở Hà
Nội. Vào đầu đợt làm việc ở một trong những tờ báo này, tôi có lần biên tập một
bài báo về các phi công Mỹ trong thời gian chiến tranh bị giam tại “Khách sạn
Hilton”, một nhà tù miền Bắc khét tiếng về việc đối xử tàn tệ và tra tấn các
người tù. Bài báo khẳng định rằng miền Bắc Việt Nam đã đối xử tốt với các người
tù. Để chứng minh điều ấy, báo đưa ra một loạt các tấm hình trắng đen đã bị nổi
hột chụp cảnh người Mỹ đang chơi bóng chuyền và đánh cờ và ngồi thành vòng tròn
trò chuyện với nhau ở trong sân nhà tù. Qua các dáng bộ cứng ngắc và những nụ
cười gượng gạo, những tấm hình này rõ ràng đã được dàn dựng trước. Tôi nghĩ đến
chuyện nên than phiền với người biên tập về điều này. Không phải vì lời góp ý sẽ
thay đổi số báo ra ngày hôm sau – những người phụ trách kiểm duyệt của báo đều
có quyết định cuối cùng về tất cả nội dung của báo sẽ được in ra – mà vì, ít ra,
cũng phải có người lên tiếng phản đối. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ lại, tôi đã
từ bỏ ý định ấy. Là người Mỹ, tôi lập luận, tôi không có quyền phàn nàn, khi xét
đến tất cả những chuyện ghê sợ mà nước tôi đã gây ra ở Việt Nam trong thời chiến
tranh. Chẳng quan trọng là những chuyện này xảy ra trước khi tôi sinh ra, và tôi
sẽ lên án những chuyện này ngay nếu có bất kỳ ai hỏi đến. Tôi sẵn sàng chấp nhận
phiên bản lịch sử mà tôi biết là giả dối để tránh đối diện với cảm giác xấu hổ
mà tôi đã không tìm được những lời giải hợp lý.

Từ nơi ấy tôi nhảy ngay qua nơi khác với những công việc mới còn đáng lo
hơn nhiều. Những tù binh cuối cùng đã trở về Hoa Kỳ cách đây hơn ba mươi năm;
thế còn ở đây ngay bây giờ thì sao? Ngoài các nhà bất đồng chính kiến, trong dân
chúng nói chung ở Việt Nam có sự bất mãn thật sự về chế độ chính trị hiện nay.
Sau nhiều tháng gầy dựng lòng tin, một số người Việt Nam tôi quen biết đã thổ lộ
tâm tư của mình. Một người bạn làm báo đã chợt vỡ lẽ ra khi đọc cuốn Mộ
Lenin
của tác giả David Remnick tại một đại học ở nước ngoài. “Cũng giống
như ở đây thôi,” chị thì thầm với tôi vào một buổi tối khá khuya ở một nhà hàng,
“Tôi chẳng biết làm gì về hơn về chuyện này. Tôi còn phải lo cho gia đình.” Một
tay ghi-ta chơi cho một trong vài ban nhạc rock trong nước phàn nàn rằng các
nghệ sĩ trình diễn phải cẩn thận những gì họ nói trên sân khấu vì sợ rắc rối với
công an. Một nha sĩ thất nghiệp cho biết ông không mở phòng mạch được vì thiếu
tiền lo lót.

Là ngoại kiều, tôi sống thoải mái và chẳng phải lo sợ gì nhà cầm quyền.
Nhưng hễ lúc nào tôi bắt đầu quên đi hiện thực trước mặt, thì một sự việc đã xảy
ra thoáng qua trên đường phố lại hiện về nhắc nhở tôi đến thực tại thực sự như
thế nào. Tôi sẽ không bao giờ quên cái cảnh tượng một người phụ nữ bán trứng
rong bị một tốp công an đánh đập vào một buổi sáng trên đường tôi lái xe đi làm.
Chị là phụ nữ nghèo ở nông thôn dạt lên thành phố kiếm sống, và tôi chẳng biết
chị bị tội gì, hay có lẽ tội vặt vãnh không đáng. Khi lòng đỏ trứng ứa ra từ
những vỏ trứng bị bể chảy xuống lòng đường, những người đang trên đường đi làm
thấy vậy khiếp sợ giả vờ không chú ý đến, còn người phụ nữ bán hàng rong ấy nhẫn
nhục chịu đòn mà không một lời cầu cứu. Tôi cố gắng không chú ý đến cảnh tượng
đau lòng đang xảy ra ấy, nhưng khác với những người đi đường khác, tôi không sợ
công an. Các lý do của tôi thì khác, và đến thời điểm ấy đã trở thành một phản
xạ: tôi lấy quyền gì mà lên án vụ đánh người ấy, xét đến những gì nước của tôi
đã gây ra tại Việt Nam trong thời chiến?

Niềm ray rứt và nỗi xấu hổ đằng sau quyết định của tôi đã không phản đối
vụ đánh đập chị bán trứng rong ấy, tôi tin, cũng chính là các thôi thúc giải
thích quyết định của cộng đồng quốc tế làm ngơ trước phong trào đấu tranh dân
chủ tại Việt Nam. Một người Tây Phương ủng hộ dân chủ ở Việt Nam đương thời có
thể gượng gạo nêu ra nhiều lý lẽ tương tự như những lý lẽ biện minh cho chiến
tranh của người Mỹ – phải chăng chúng ta đã không rút ra được bài học gì? Hãy
quên đi rằng đưa ra sự ủng hộ công khai, và, nếu cần thiết, cả về vật chất cho
phong trào bất đồng chính kiến sở tại là tuyệt đối khác hẳn với sự ủng hộ can
thiệp bằng quân sự. Theo nếp nghĩ này, những người Tây Phương đã từ lâu mất đi
“thẩm quyền đạo đức” của mình để can dự vào Việt Nam đương thời ngoại trừ với tư
cách du khách hay nhà đầu tư.

Một vấn đề gắn liền với sự giả định này là thực ra nó chỉ là sự ích kỷ vì
nó cho phép những người Tây Phương tránh đưọc những cảm xúc phức tạp và khó
chịu. Vấn đề khác là chẳng ai bận tâm nói chuyện với những người Việt ấy. Ta có
thể hỏi những nhà bất đồng chính kiến ấy sự ủng hộ nào họ muốn, dù rằng các câu
trả lời của họ cho câu hỏi này sẽ gây ra những nguy hiểm rất lớn cho bản thân
họ.

Các nhà bất đồng chính kiến mà tôi biết hy vọng sự tham gia nước ngoài
vào sự nghiệp đấu tranh của họ. Họ cần đến sự ủng hộ của các nhà báo và các nhà
hoạt động dân chủ để thuật lại câu chuyện của họ và qua đó áp lực Đảng Cộng sản
phải thay đổi. Thêm vào đấy, họ nói, cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ buộc Việt Nam
phải tôn trọng những tiêu chuẩn nhân quyền thông qua những tổ chức quốc tế mà
Việt Nam đã gia nhập hay hy vọng gia nhập. Cuối cùng nhiều người chọn ra Hoa Kỳ:
người Mỹ phải tác động hơn nữa, vừa với tư cách cá nhân và vừa thông qua chính
phủ, để đòi hỏi có sự thay đổi ở Việt Nam.

Điểm cuối cùng này dễ dẫn đến tranh cãi, nhưng nó không dựa vào niềm tin
hơi ngây thơ về các ý định của Mỹ; mà đấy là sự thừa nhận hiện thực có tính
địa-chính trị. Hoa Kỳ là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam; Hoa Kỳ cũng là nơi có cộng đồng người Việt lưu vong đông nhất thế giới;
người Mỹ là một trong những nhóm khách du lịch lớn nhất đến Việt Nam hàng năm;
và, tuy Trung Quốc mới trỗi lên gần đây, nhưng Hoa Kỳ vẫn là người dự phần có
ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á. Những hoang tưởng do tội lỗi gây ra về những
người Mỹ đang sám hối tội lỗi của họ trong quá khứ bằng cách đứng bên lề vẫn chỉ
đơn thuần là những hoang tưởng. Chúng không giải thích sự ảnh hưởng ngày càng
tăng của Mỹ ở tại nước này. Khi mối ảnh hưởng này còn duy trì, thì người Mỹ phải
bảo đảm rằng nó có yếu tố nhân quyền mà không nhất thiết phải hợp với quyền lợi
Mỹ về thương mại hay về chiến lược.

Trong các nhà bất đồng chính kiến tôi có dịp nói chuyện, Nguyễn Thanh
Giang, nhà địa vật lý bảy mươi bốn tuổi ở miền Bắc, có những quan điểm khá tiêu
biểu về những chủ đề này. Tuy ông chưa bao giờ là đảng viên Đảng Cộng sản, nhưng
ông vẫn được giữ chức vụ lãnh đạo ở Cục Địa chất Hà Nội trong một thời gian dài.
Chính quyền cho phép ông sang Hoa Kỳ để dự một số hội nghị vào những năm tám
mươi và chín mươi – ông là một trong những nhà khoa học đầu tiên được phép đến
Mỹ – nhờ vậy ông đã mở mắt thấy được những vấn đề ở Việt Nam. Từ đấy ông bắt đầu
viết những bài góp ý và thư ngỏ gởi tới Đảng nhằm kêu gọi cải cách. Năm 1999 ông
bị bắt giam về tội bất đồng chính kiến và bị biệt giam hơn một tháng, nhưng ông
được thả ra do áp lực từ chính phủ Hoa Kỳ và từ các tổ chức nhân quyền và khoa
học. Hiện giờ ông về hưu và sống trong cảnh bị quản chế tại gia ở Hà
Nội.

Tuy Nguyễn Thanh Giang kêu gọi Mỹ ủng hộ sự nghiệp đấu tranh dân chủ,
nhưng ông không phải là kẻ biện minh cho những hành vi của Mỹ trong thời chiến.
Người Mỹ đúng khi cảm thấy đau buồn và xấu hổ, ông viết trong một điện thư gởi
cho tôi. “Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam cũng phải nên bày tỏ sự đau buồn và xấu
hổ tương tự,” ông viết. Chế độ ở Việt Nam đã làm những chuyện “trái với đạo lý
và xuẩn ngốc không kém”  trong và sau chiến tranh, bao gồm chiến dịch Cải cách
Ruộng đất giữa thập niên 1950 đã khiến hàng trăm ngàn người chết, và vụ trấn áp
tàn bạo phong trào Nhân Văn, một nhóm cải cách của Đảng Cộng sản. Ông nêu những
chuyện này ra không phải để xí xoá cho hành vi của Mỹ, mà để chứng minh điều ông
tin là bản chất thật sự của chiến tranh, tức một “trò chơi bẩn thỉu” mà khi tàn
cuộc không ai lại không vấy bùn. Nhưng tội lỗi không có nghĩa là sự ân hận nên
khiến cho người Mỹ bị tê liệt; trái lại, họ nên coi đó là một trách nhiệm đặc
biệt để “đền bù sự tàn phá do bom Mỹ gây ra ở Việt Nam ” bằng cách ủng hộ phong
trào đấu tranh dân chủ.

Một số người Mỹ đã lên án tình cảnh tại Việt Nam. Song rất ít người trong
số họ thuộc về cánh Tả. Một số nhỏ các tờ báo Mỹ đăng những bài ủng hộ phong
trào đấu tranh dân chủ Việt Nam thường có khuynh hướng bảo thủ: các tờ Wall
Street Journal, New York Post, New York Sun
.  George W. Bush đã mời bốn nhà
hoạt động dân chủ người Mỹ gốc Việt, trong đó có một người từng bị ở tù, đến toà
Bạch Ốc vào năm 2007 và giúp đạt được sự phóng thích cho nhà bất đồng chính kiến
trên mạng Nguyễn Vũ Bình trước khi Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm
toà Bạch Ốc trong cùng năm. Barack Obama, ngược lại, đã không biểu lộ sự quan
tâm như thế về chủ đề này, mà ta có lẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên vì ông cũng
chẳng mở miệng nói gì về nhân quyền ở Châu Á. Như vậy chỉ còn lại hai nhóm cử
tri chính người Mỹ hoạt động tại Việt Nam, và cả hai đều bảo thủ: mạng lưới
những người quan tâm đến tự do tôn giáo và các nhà đầu tư quan tâm đến tự do
kinh tế.

Tự do tôn giáo và tự do kinh tế thật sự là những vấn đề quan trọng đối
với phong trào đấu tranh dân chủ, nhưng chương trình hành động của phong trào
bao quát hơn nhiều và bao gồm những vấn đề tha thiết đối với những ai cấp tiến,
chẳng hạn các vấn đề người thiểu số và các quyền lao động. Những nhà bất đồng
chính kiến xem mình là đồng minh tự nhiên của hàng triệu công nhân Việt Nam đang
làm việc tại các nhà máy sản xuất hàng hoá cho Phương Tây. Các cuộc đình công,
tuy bất hợp pháp, nhưng đã gia tăng trong những năm vừa qua, nên các nhà bất
đồng chính kiến đang cố gắng đi sâu vào công nhân, bất chấp chính quyền ra sức
ngăn chặn họ. Chừng nào chính quyền Việt Nam và giới chủ Tây Phương là những
tiếng nói duy nhất ở các nhà máy, các công nhân nhất định còn chịu bao điều kiện
khắc nghiệt, tiền công thấp, và sự cô lập về chính trị.

Tuy nhiên, vẫn có con đường tiến đến tương lai cho những người Mỹ nào
quan tâm đến dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Khi hồi tưởng lại quá khứ của
mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ hầu như chẳng có gì để cảm thấy tốt, nhưng nước Anh cũng
đâu có vui gì khi hồi tưởng lại lịch sử của họ ở Zimbabwe hay ở Miến Điện. Thế
mà người Anh và chính quyền họ đã và đang là những người chỉ trích chính cả hai
chế độ, cho dù biết làm thế là chịu đựng những lời tố cáo có thể đoán trước được
như thói xưa đánh chết cũng không chừa. Người Mỹ cất tiếng phản đối chế độ hiện
nay tại Việt Nam có thể lường trước lời tố cáo như vậy từ chính quyền Việt Nam
và cũng từ bên ngoài nước này. Điều ấy sẽ gợi lên những ký ức không vui, nhất là
đang có chiến tranh diễn ra tại Iraq và Afghanistan.

Nhưng cái giá đứng bên lề lại quá cao, đặc biệt khi xét đến những biến
chuyển gần đây ở Việt Nam mà gợi ý rằng phong trào đang ở vào một giai đoạn rất
quan trọng. Vào mùa hè năm 2008, các nhà bất đồng chính kiến nhận một món quà
không ngờ từ nhà cầm quyền. Chính quyền Việt Nam đã âm thầm nhượng đất trị giá
hàng tỷ đô la cho một công ty Trung Quốc ở cao nguyên trung phần Việt Nam. Theo
điều khoản của việc mua bán này, công ty Trung Quốc đã đưa vào hàng ngàn công
nhân nước ngoài, vào lúc thất nghiệp lên cao tại Việt Nam, và họ đồng thời xây
dựng những khu nhà ở và những nhà hàng mang bảng hiệu tiếng Trung
Quốc.

Ít có vấn đề nào đoàn kết người Việt Nam cho bằng sự nghi ngờ về người
hàng xóm to lớn của họ ở phương Bắc. Hai nước có chung lịch sử đầy sóng gió được
đánh dấu qua những thời kỳ dài Bắc thuộc và chiến tranh, gần đây nhất là cuộc
chiến tranh tuy ngắn nhưng đẫm máu vào năm 1979. Phản ứng mạnh mẽ chống lại vụ
khai thác mỏ đã bùng lên. Tướng Võ Nguyên Giáp chín mươi tám tuổi, vị anh hùng
quân đội của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, đã công khai
chỉ trích sự nhượng bộ đất đai này. Những người viết blog ở Việt Nam viết về
hiểm hoạ thâm nhập từ các nhân viên tình báo và quân đội bí mật Trung Quốc.
Phong trào đấu tranh dân chủ đã chụp lấy vấn đề này này để phát ra những lời
hiệu triệu cháy bỏng kêu gọi lòng yêu nước của người Việt được lồng trong những
nguyên tắc dân chủ: tầng lớp cai trị cao nhất trong chính quyền tham lam, vô
trách nhiệm, đang bán đứng linh hồn Việt Nam cho Trung Quốc, và chỉ có thể chế
chính trị thật sự dân chủ mới có thể ngăn chặn họ lại.

Một người chỉ trích đã kết nối vấn
đề Trung Quốc với dân chủ là Lê Công Định, luật sư bốn mươi mốt tuổi từng theo
học tại Đại học Tulane nhờ học bổng Fulbright. Lê Công Định nổi tiếng ở Việt Nam
sau khi đại diện cho chính phủ trong một số vụ kiện nổi bật, trong đó có việc
tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ về vụ bán phá giá cá ba sa, mà Việt Nam đã
thắng. Anh cũng đảm nhận công việc đầy bất trắc là biện hộ cho các nhà bất đồng
chính kiến tại toà, nhưng danh tiếng cùng với địa vị cao trong chính quyền đã
bảo vệ anh khỏi bị trả thù. Cuối cùng anh bị rắc rối với nhà cầm quyền khi anh
bắt đầu viết các bài về vụ khai thác bauxite và cũng về vụ tranh chấp lãnh thổ
với Trung Quốc liên quan đến các đảo có tiềm năng chứa nhiều dầu lửa trên biển
Đông. Vào ngày 20 tháng Giêng năm nay, anh bị kết án năm năm tù vể tội tuyên
truyền chống nhà nước. Án tù áp đặt lên Lê Công Định phát đi một tín hiệu rõ
ràng: phát biểu công khai về Trung Quốc và dân chủ sẽ không dược dung thứ, dù
với những ai có mối quan hệ với chính quyền hay xuất thân trong các gia đình tốt
về chính trị.
Khi qua vấn đề Trung Quốc, ngày càng có nhiều người Việt trở
nên ý thức về phong trào đấu tranh dân chủ, và khi sự trấn áp các nhà bất đồng
chính kiến càng tiếp tục khốc liệt như hiện nay, sự ủng hộ quốc tế dành cho sự
nghiệp đấu tranh dân chủ ở Việt Nam càng cực kỳ quan trọng hơn bao giờ hết.
Trường hợp Lê Công Định nhắc nhở rằng trong các xã hội chuyên chế, bất đồng
chính kiến là một chuyện đầy nguy hiểm mà chẳng đảm bảo thắng lợi. Dù vậy, ta
hãy tưởng tượng nếu những lời kể của Solzhenitsyn về các quần đảo ngục tù bị bỏ rơi ngoài tai. Hay nếu
Hiến chương 77 không bao giờ được ai ngoài
biên giới Tiệp Khắc đọc đến. Ngay giờ đây có những Solzhenitsyn và những Havel ở
Việt Nam. Liệu có ai sẽ lắng nghe họ?

Dustin Roasa là nhà báo tự do tại Cambodia viết về các vấn đề nhân
quyền và phát triển ở Đông Nam Á. Ông đã sống ở Việt Nam từ năm 2004 đến 2005 và
thường quay trở lại Việt Nam.

Nguồn: “Vietnamese Dissidents: Absent from the Western Mind”, Tạp chí
Dissent, số mùa Hè năm 2010.

No comments:

Post a Comment