Bà Sính ở làng Tò có họ xa với gia đình tôi.
Làng Tò cách làng Hệ một con sông nhỏ, có cái cầu ván bắc
qua, hai bờ tre rủ bóng xuống dòng nước xanh ngắt. Tiếp giáp giữa làng Tò và
làng Hệ là một nghĩa trang chung của hai làng. Người ta nói mộ cụ tổ làng Tò
phát về quan lộc nên làng ấy thời nào cũng nhiều người làm quan, còn lảng Hệ
chỉ quen chân lấm tay bùn. Bởi thế có câu: “Quan làng Tò, bò làng Hệ”, nghĩa là
người làm quan bên làng Tò nhiều như bò làng Hệ.
Cụ Sính người làng Hệ lấy chồng làng Tò. Nghe nói trước cụ
đẹp gái lắm nên mới lấy được chồng làng Tò, bình thường thì đừng hòng được trai
làng Tò để mắt tới. Có lẽ vì vậy nên cụ Sính rất tự hào làm dâu bên ấy.
Nhưng số cụ Sính vất vả. Lấy chồng năm mười tám, chồng đi
bộ đội biền biệt, mãi đến năm hai nhăm mới sinh được con trai đầu lòng. Con mới
một tuổi thì chồng hy sinh ở mặt trận Điên Biên, cụ một mình nuôi con khôn lớn.
Năm 1972, anh Sửu, con cụ, mới 19 tuổi đã xung phong đi bộ đội. Đúng là đất làm
quan, năm 1978, mới 25 tuổi, anh Sửu đã làm đại đội phó. Cũng năm ấy anh cưới
vợ, rồi lên biên giới phía Bắc, không ngờ đầu năm sau anh hy sinh, để lại đứa
con trai vừa lọt lòng cho bà nội nuôi, chị Sửu mất vì bệnh hậu sản…
Do vất vả như thế, nên người cụ Sính quắt lại, hai bả vai
mỏng mảnh nhô lên, làm cái cổ thụp xuống như con rùa già. Năm nào về quê sang
thăm cụ, tôi cũng nghe cụ thở vắn than dài, hờn trời trách đất, đến não ruột.
Nhất là khi nhắc đến thằng cháu nội, cụ bảo van vái thế nào nó cũng chưa chịu
lấy vợ, vì còn ham phấn đấu lên cấp lên chức. Cụ sợ mắc tội với tổ tiên bên
chồng vì không có người nối dõi. Tôi muốn gặp thắng Kỳ nhưng chưa được, nghe
nói nó lả thượng úy công an.
Năm ngoái tôi về đúng ngày giỗ cụ ông, dân làng tới dự rất
đông, có cả mấy vị người làng làm quan trên huyện, trên tỉnh đi xe hơi về sang
trọng lắm. Một người người đàn ông khoảng gần sáu chục tuổi, tầm thước, mặt mũi
khôi ngô nhưng nước da và cặp mắt vàng ệch như người bệnh gan mãn tính chủ trì
đám giỗ. Các quan chức săn đón và tỏ ra rất kính trọng ông ta. Cụ Sính chỉ
người đàn ông đó nói nhỏ với tôi:
- Nhà Qúy đấy!
Nhìn cụ Sính như trẻ ra mấy tuổi. Cụ mặc áo dài, đội khăn
nhiễu, đeo sợi dây cườm nhóng nhánh, miệng cười móm mém tươi đỏ quyết trầu. Hôm
ấy sau khi cúng giỗ tiệc tùng xong, mọi người về hết. Thằng Kỳ cũng lên xe về
Hà Nội với người đàn ông chủ trì đám giỗ. Cụ Sính khoe với tôi:
- Đám giỗ hôm nay nhà Quý bỏ tiền ra làm đấy!
- Qúy con ai bà nhỉ?
- Con cụ Quyền chứ ai? Làm to lắm, trên Hà Nội kia!
Cụ Sính cho miếng trầu vào cái cối đồng như cái chén uống
rượu, nghiền nát, rồi kều vào miệng nhai bỏm bẻm. Hơn tám chục tuổi, ngưởi bé
choắt, khuôn mặt tóp teo như trái táo khô, nhưng được cái mắt cụ vẫn tinh, đi
lại nhanh nhẹn và chưa bị lẫn. Cụ cứ nhắc đi nhắc lại “nhà Qúy, nhà Qúy” vừa
thân thiết vừa tự hào làm tôi phát ghen. Tôi hỏi anh Qúy là ai mà tử tế thế, cụ
Sính cười bảo:
- Người ta có đức nên mới thế! Vào đến trung ương rồi vẫn
nhớ lúc hàn vi.
Cụ Sính nhổ bã trầu, rồi chậm rãi kể cho tôi nghe chuyện
anh Qúy. Thì ra anh cùng tuổi anh Sửu, cùng học một trường, cùng đi bộ đội một
ngày, và hai người đều sống sót trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Sau ngày miền
Nam giải phóng, Qúy chuyền sang công an, bây giờ đã lên cấp tướng, Sửu vẫn ở bộ
đội và hy sinh năm 1979…
Cụ Sính tự hào nói với tôi:
- Nhà Qúy nhận thằng Kỳ làm con nuôi. Nhà Qúy nói cuối năm
cưới vợ cho thằng Kỳ.
Tôi mừng cho cụ Sính. Thế là cụ đã có chỗ nương tựa tuổi
già. Tôi cảm thấy khâm phục anh Qúy, dù quyền cao chức trọng vẫn không quên
người bạn đồng môn, và người đồng chí của mình.
Một năm qua đi tôi mải làm ăn trong Sài Gòn, không để tâm
đến chuyện đó nữa.
Cách đây mấy hôm tôi về quê giỗ ông nội tôi. Theo phong tục
trước ngày cúng giỗ tôi ra nghĩa trang thắp nhang mộ ông bà tổ tiên, mời các cụ
về từ đường dự đám giỗ.
Năm nay rét đậm quá. Mùng năm tháng Chạp mà còn rét cắt da
cắt thịt. Bầu trời xám xịt màu chì. Sương dày chụp xuống nghĩa trang tối thẫm
không nhìn rõ mặt người, gió rin rít qua các khe mộ chí. Trong đời người lúc
kiểm nghiệm cuộc sống minh mẫn nhất là lúc đứng một mình trong nghĩa trang.
Những bon chen, hờn oán, những mơ mộng viển vông, những khát vọng, và tuyệt
vọng được dung hòa giữa không gian tĩnh lặng lằn ranh hai thế giới. Tôi thắp bó
nhang, cắm từng cây trên tửng ngôi mộ và có cảm giác những đôi mắt nhìn mình.
Trong tiếng gió rít hình như có tiếng khóc, tiếng réo gọi
tuyệt vọng? Tôi lắng tai nghe, tiếng khóc rõ hơn. Tôi len lỏi qua những hàng
mộ, tìm về phía tiếng khóc.
Đi miết tới cuối nghĩa trang, cạnh bờ sông, tôi nhìn thấy
một thân hình nhỏ bé đang ngồi cạnh ngôi mộ mới chôn, giữa mấy vòng hoa xác xơ,
đốm nhang cháy trên mộ đỏ lập lòe. Tôi đến gần, nhận ra đó là một người đàn bà
mặc đồ đen, đầu đội khăn tang. Bà vẫn không hay biết, vẫn ôm ghì nấm mộ, tiếng
khóc ai oán như từ dưới lòng đất vọng lên:
- Kỳ ơi! Sao cháu bỏ bà Kỳ ơi!
Như có kim đâm vào xương sống, tôi giật bắn người, và một
cảm giác bàng hoàng không thể diễn tả nổi, tôi thét lên:
- Ôi, cụ Sính!
Tôi ngồi sụp ôm gọn cụ Sính vào lòng. Người cụ lạnh băng,
nhẹ tênh, như một con búp bê bằng nhựa. Ôi sao lại đến nỗi này hở trời?
Tôi bế cụ vào nhả người quen gần nghĩa trang. Cả nhà xúm
vào xoa dầu gió cho cụ, đổ cho cụ vài thìa sữa nóng, cụ tĩnh lại.
Tôi không thể nhận ra cụ Sính một năm vể trước. Cụ đã tóp lại như một trái
chanh vắt kiệt nước, tóc bạc trắng, hai hố mắt lõm sâu, hai bàn chân bàn tay
rệu rạo những đốt xương lạnh ngắt.
Cụ nhìn tôi, mắt lờ đờ, thều thào:
- Nhà Qúy ác lắm!
Cụ chỉ nói được như vậy rồi cụ khẽ nấc lên ba nấc. Mắt cụ
mở to. Tôi lấy tay vuốt mắt cho cụ. Hai con mắt khép lại và hai hàng nước mắt
lăn ra hai gò má nhăn nheo của cụ. Cụ ra đi cô đơn trong ngôi nhà người quen
làng Hệ nơi cụ sinh ra.
Mấy ngày sau dân làng Tò, làng Hệ đều biết câu chuyện đau
lòng về cụ Sính. Thương cụ bao nhiêu mọi người căm ghét ông Qúy bấy nhiêu.
Người ta gọi hắn là con quỷ.
Viên tướng công an ấy là bạn đồng môn, là đồng chí của anh
Sửu. Hắn bị xơ gan cổ trướng đang chuyển sang giai đoạn ung thư, biện pháp tốt
nhất là thay gan. Tay chân của Qúy tình cờ phát hiện thượng úy Kỳ có nhóm máu
và các chỉ số sinh học hợp với hắn, thế là kịch bản con nuôi, đám giỗ được thực
hiện nhằm mục đích lấy lá gan của Kỳ.
Có thể Kỳ sẽ không chết nếu Qúy chỉ lấy nửa lá gan mà Kỳ đã
hiến tặng. Vì tham sống lâu hơn, hắn móc ngoặc với bọn bác sỹ vô lương tâm,
đánh cắp gần hết lá gan của đứa “con nuôi”. Kỳ vừa bị suy kiệt vừa bị nhiễm
trùng, đã chết ba tháng sau khi hiến gan cho quỷ.
Có một câu chuyên cổ tích Campuchia kể rằng, con quỷ
Rat-ta-rít-nom, thường ăn thịt đồng loại. Một hôm, đệ tử cùa Rat-ta-rít-nom
mang về một đứa bé, bảo đó là con trai duy nhất của Ro-tor-tha-chạt, kẻ thù của
Rat-ta-rit- nom. Con quỷ nói: “ Hãy tha cho đứa bé, để ta còn có kẻ thù mà
khẳng định sức mạnh cùa ta! Không nên triệt hạ hết nòi giống kẻ khác!” .
Tôi được biết sau khi ăn cắp lá gan của con người đồng
hương, đồng môn, đồng đội mình, cũng là con nuôi, Qúy khỏe mạnh hẳn, mặt mày
béo tốt, da dẻ hồng hào và lại được lên cấp lên chức. Càng khỏe Qúy càng lao
vào các cuộc làm ăn bẩn thỉu và tàn nhẫn với dân lành hơn, nên bây giờ cái dấu
sắc bỗng cong vênh, người ta gọi hắn là Quỷ. Tôi nghĩ luật nhân quả luôn hiện
hữu và thế nào con quỷ đó cũng bị quả báo.
Cầu trời cho linh hồn cụ Sính bình yên. Mong cụ linh thiêng
giúp chúng con diệt loài quỷ dữ.
No comments:
Post a Comment