2. Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về
Điểm đặc trưng dễ phân biệt của chính quyền Việt Nam là họ không bao
giờ cho người trong cuộc thanh trừng biết những biện pháp dành cho họ.
Họ có nhiều cách để thực hiện ý muốn của mình. Mặt Trận không còn mời
tôi dự những phiên họp của họ. Đại Học lấy lại chiếc xe đạp công vụ mà
họ đã cấp cho tôi để đi đến lớp giảng. Các Toà Án gửi trả lại cho tôi
những lá thư uỷ nhiệm luật sư. Tôi hiểu là tôi đã bị loại khỏi mọi chức
việc, đã trở thành một thứ cùi hủi, một người hạ đẳng, một kẻ bị mất
phép thông công! Vì thế, tôi đành phải tìm quên trong triết học để trám
đầy những giờ khắc bị buộc phải nhàn cư rỗi rảnh, để tránh phải trùm kín
đầu, đeo cái chuông lúc lắc kêu vang báo cho người trên đường phải
tránh không đụng tôi.
Tôi bắt đầu suy niệm bằng một câu khá nổi tiếng “mens agitate molem”
(Tinh thần làm chuyển động vật chất). Khi còn trẻ, tôi nghĩ ngược lại và
cho rằng thành ngữ ấy là do một anh trí thức hoặc quá cuồng nhiệt kiêu
căng tự đại cho rằng mình là trên hết mọi sự dù rằng hắn chẳng phải như
thế, hoặc là hắn đang trải qua một cuộc khủng hoảng mất niềm tin và đang
cố vượt qua một tự ti mặc cảm đang lớn dậy trong bản thân. Tư tưởng hay
trí tuệ, vì bản chất là phi vật chất thì không thể tác động trực tiếp
lên quần chúng vì quần chúng là một dạng vật chất với một sức mạnh toàn
diện và nó chỉ có thể là đối tượng bị tác động và chịu ảnh hưởng từ một
khối quần chúng khác. Trong mọi xung đột giữa tư tưởng và vật chất, sự
đối kháng của bên này đối với bên kia sẽ được giải quyết bằng sự chiến
thắng của vật chất. Chính trong nghĩa này mà chủ nghĩa Marx xác tín rằng
quần chúng nhờ sức mạnh vật chất của mình là người làm nên lịch sử.
Nhưng quần chúng không làm nên lịch sử nếu chỉ biết sử dụng những phương
tiện bạo lực của vật chất. Trong chuyện tàn phá, hay ngay cả trong xây
dựng, quần chúng luôn phải nhờ đến những khả năng của trí tuệ để hướng
dẫn mình cho cả hai lúc: huỷ diệt và xây dựng. Từ đó tư tưởng xen vào
ảnh hưởng lên sự vận động của quần chúng. Chỉ có lúc đó, tư tưởng mới
thật sự làm chuyển động quần chúng.
Nhưng tư tưởng chỉ có thể làm chuyển động quần chúng khi nó tiến hành
những động thái xuất phát từ những cái nhìn sâu sắc về thực tiễn để rút
tỉa, suy diễn ra cái logic của quần chúng. Tốt hơn nữa, khi quần chúng
được giáo dục tốt, tư tưởng sẽ tiếp tục nhiệm vụ của mình mà gìữ vững
hướng đi đúng. Vì thế người ta thấy có những những kẻ gây kích đông và
những chính trị viên tiến hành đấu tranh chống lại sự thất học chính
trị, gia tăng cố gắng theo dõi những sai lệch đề nhằm đưa quần chúng trở
về con đường tư tưởng chính thống thẳng tắp. Và người ta có thể thấy
một cảnh tượng vĩ đại trong đó quần chúng đang bày tỏ niềm tin trước một
thứ đạo giáo mang tên chủ nghĩa Cộng Sản, tạo nên một khối đồng nhất
sau lưng Đảng, hoàn toàn tin tưởng vào những gì Đảng khẳng định, vào
chính sách và đường lối của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy tư tưởng
lại đạt được một chiến thắng trên vật chất như thế. Sự cuồng tín của
quần chúng đã đạt được một mức hiểm ác, dù trên thực tế có những vụ việc
thảm khốc đã xảy ra là những chứng cớ về mức độ trầm trọng của những
sai lầm đã phạm, kinh tế bị xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân đã gia
tăng, phần lớn nhân dân, kể cả những người cộng sản chân chính nhất, vẫn
tiếp tục tin vào lời hứa của Đảng là sẽ phục hồi đất nước và sẽ nhanh
chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội mà thế giới không còn ai
tin và chính ngay những nước cộng sản trước đây cũng đã dứt bỏ. Và đây
là cái nguy bị rơi xuống vách đá của những người đang đứng bên bờ vực.
Từ đó, vấn đề nêu ra là chuyện nhồi sọ chính trị cho quần chúng biến họ
thành cận thị hay làm cho trí thông minh của họ trở nên mù mụ, là biểu
hiện của thứ con người lành mạnh hay không lành mạnh?
Cái gì đã sản sinh ra những vụ kinh hoàng và đầy tai tiếng, những
điều quái gở bệnh hoạn của một tư tưởng chính trị? Đó là sự biến dạng
của con người, của một thứ thói quen trí não chỉ biết thấy một phần của
thực tiễn, thui chột trong khả năng đánh giá phán đoán, tinh thần phê
phán bị bóp chết, và những sinh hoạt tâm linh bị giới hạn với sự phê
chuẩn vô điều kiện của lãnh đạo và dưới sự kết án không thương tiếc của
những kẻ gièm pha, và hoàn toàn bất chấp công lý và nhân đạo.
Kinh nghiệm xã hội và lịch sử đã cho thấy chừng nào tư tưởng trở nên
điên loạn, dù bắt nguồn từ chính trị, chủng tộc hay tôn giáo áp đặt trên
quần chúng, thì ngay tức khắc chuyện thả lỏng cho những hành động dã
man sẽ đưa nhân loại trở về thời quá khứ nhục nhã đầy máu và chết chóc.
Cái giáo lý cơ bản mà chúng ta phải không bao giờ quên và nó phải bao
trùm lên tất cả những nhận thức về cuộc sống là mỗi người phải tự nhắc
mình là tất cả những cá nhân con người ai cũng có phần sự thật của riêng
mình, chúng ta phải biết tôn trọng sự thực của người khác, và pháp
luật, công lý, đạo đức, loài người không bao giờ cho phép một ông hay bà
được quyền áp đặt cáí sự thật của mình lên người khác. Chính những
người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật của Jesus mà đã đóng
đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những kẻ đứng đầu trong Nhà
Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ không tín ngưỡng hay kẻ
có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những người này trên giàn hoả. Tự
do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn nhất của thế giới hiện đại. Nó
là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ của văn minh.
Khi một người nắm giữ một sự thật và tin tưởng đó là điều hay tốt, vì
nhiều động cơ khác nhau, có người muốn thông đạt nó, truyền bá nó đến
người khác. Không có gì cấm một người muốn truyền bá sự thật của mình
đến nhiều người khác.
Nhưng những gì phải bị cấm tuyệt đối là dùng sức mạnh, bạo lực, hành
động hung ác khủng bố để ngăn cấm niềm tin của những người khác. Vì lẽ,
nhà cầm quyền cộng sản đã phạm một lỗi lầm không cứu vãn được là đã gắn
nhãn tên cho những khác biệt về quan điểm bằng những tội lỗi không thể
tha thứ được để mà trừng phạt họ một cách nặng nề. Rốt cuộc, vì lo lắng
cho an nguy của mình, không ai muốn mở mồm bảo cho lãnh đạo biết những
hậu quả xấu gây ra bởi thái độ của chính lãnh đạo. Nhà nước, thiếu vắng
sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng như con tàu đâm vào vùng san hô và
chìm đi trước sự thờ ơ toàn diện. Ngoại trừ khi, với sức mạnh của mình,
nhân dân vùng lên lật đổ độc tài và thay vào đó một chế độ dân chủ đa
nguyên, thì cái lợi ích lớn nhất là cho phép tự do ngôn luận; dù có
nhiều khác biệt, bất đồng nhưng ý kiến được tự do phát biểu trong lợi
ích chung của mọi người. Giữa nhà nước và nhân dân sẽ không còn
cái-không-thể-sống-chung nào nữa. Một đảng phải loại trừ đảng kia.
Vì thế, tôi biết là tôi đang phải chịu nhiều rủi ro. Nhưng hình phạt
trực tiếp và tức khắc dường như chậm đến: có thể cái vòng khoá để còng
tay tôi chưa được chế tạo. Chuyện phải tiêu diệt tôi đã được quyết định
nhưng việc tiến hành nó phải được tổ chức tinh vi hơn. Bất kể như thế
nào, tôi vẫn lo trám đầy cái khoản thời gian chờ đợi bằng cách chào từ
biệt cái cách sống mà mai đây sẽ bị chôn biệt vào quá khứ.
Sau đó tôi đã qua những ngày và cả những đêm chong mắt nhoà đi với
những cay đắng và thường là nước mắt, lang thang trong cái thế giới nhỏ
bé mà tôi đang sống, ngày đêm đắm mình trong nỗi buồn và cái
trời-ơi-đừng-bao-giờ-xảy-ra-cho-tôi. Và đây là những đồ đạc bàn ghế mà
tôi thừa hưởng của cha mẹ tổ tiên: những cái bàn bằng đá cẩm thạch,
những chiếc ghế bành bằng gỗ khối, những chiếc ghế ngồi, những chiếc bàn
ngủ, những chiếc sofa, tất cả toàn bằng gỗ quí và chạm trổ tinh xảo bởi
bàn tay vàng của một lớp người thợ thủ công nay không còn nữa. Thời
gian đã làm những lớp gỗ lên nước bóng loáng. Đây là bàn thờ tổ tiên sơn
son thếp vàng, bát nhang đầy tro tàn và chân nhang cắm đầy với đốm
nhang đang thắp đỏ, bình hoa bằng sứ Tàu được để những chậu hoa lan vào
mùa đông và những chậu hoa sen vào mùa hạ, hai chiếc tủ kiếng treo trên
tường với những con rồng đang uốn lượn trên cánh cửa chứa những đồ cổ và
bộ ấm trà. Tất cả những vật bất động kia chứa bao nhiêu là hơi thở của
cha mẹ tổ tiên ông bà, trải qua bao nhiêu năm tháng dài để lên nước bóng
loáng.
Tôi hay thích đứng hàng giờ trước cái tủ sách có bộ sách Guillaume
của những tác giả người Hy Lạp và La Tinh đặt phía trên dãy sách của
những tác giả người Pháp của bộ Pleiades. Tôi không hề thấy mệt khi đứng
vuốt ve những cái bìa sách bằng da nâu của những cuốn sách mà tôi có
dịp mua ở những tiệm sách cũ ở Paris hay từ những kẻ bán sách đã qua tay
bày bán dọc sông Seine. Trên kệ sách dành cho những tác giả thời cận
đại đang mang niềm hãnh diện của những tác phẩm của Valéry, Claudel,
Gide, Montherlant, Mauriac, Maurois, Maurand, Giraudoux… Trên kệ chót,
tôi để cái máy thâu băng hiệu Columbia và hàng trăm cuộn băng mà tôi
mang về từ Pháp và nghe chúng mỗi buổi tối, thay nhạc tuỳ theo tâm trạng
mình lúc ấy, một vài bản của Mozart nếu gặp lúc đang vui, bản Pavane In
a Dead Infant của Ravel khi gặp lúc ưu tư sầu muộn, bản Dance Macabre
của St-Saens nếu gặp lúc đang gặp những chuyện đời làm tôi kinh hãi,
nhưng đặc biệt là bản Giao hưởng số 5 của Beethoven đưa tôi vào những
trầm tư mặc tưởng và bản Passionnata gặp lúc hừng chí và muốn sáng tạo.
Tôi giết phần lớn thì giờ trong cái “thư viện” của tôi nơi mà mùi
thơm đầy kích thích của quá khứ làm tôi vui thích và say đắm. Tôi không
phải là ngưởi chỉ biết tán dương quá khứ, tôi cũng biết nhận diện và quý
trọng những điều tuyệt vời của hiện tại. Trong lịch sử, trong mỗi thời
kỳ, nhận loại đều qua những lúc vinh quang và lúc nô lệ khốn khổ. Sự nô
lệ đượm trùm những tội ác mà nhân loại không phải là kẻ trực tiếp chịu
trách nhiệm, nhưng nó đã làm hoen ố một vài giai đoạn hiện hửu của nó.
Những vinh quang xảy ra cùng với những tiến bộ mang lại những điều tốt
và hạnh phúc cho các dân tộc. Thời gian là yếu tố sàng lọc của lịch sử:
sự nô lệ sẽ được chôn sâu trong sự lãng quên, ngoại trừ những tội ác
kinh hoàng làm nổi loạn lương tâm, và chỉ có những vinh quang huy hoàng
kia sẽ mãi mãi chói sáng qua thời gian và là nguồn động viên cho những
tâm hồn biết suy nghĩ. Hiện tại mang những cảm xúc lộn xộn: con người có
đủ thời gian để ngạc nhiên thán phục với những tiến bộ khoa học kỹ
thuật đẩy con người tiến rất xa về phía trước của tương lai, họ phải
khóc vì điên giận khi đối diện với những hành động của một vài tầng lớp
chính quyền đã và đang giết những kẻ phản lại hay chống đối họ, những
tầng lớp người mà hành động đã đưa con người về những thời kỳ man rợ xa
xưa đầy xấu hổ. Cái hiện tại mà tôi đang sống và cái tương lai đang chờ
tôi, vì thế, đẩy tôi trốn chạy về với quá khứ huy hoàng của con người,
thoả mãn những khát khao hạnh phúc qua những gì mà những con người tuyệt
vời nhất đã làm ra để tránh cho tôi những thống khổ hôm nay và ngày mai
bởi những kẻ tệ hại nhất trong những người lãnh đạo. Nhưng trong hoàn
cảnh mà tôi đang chào biệt những vật bất động nhưng chất chứa bao nhiêu
tâm trí của tôi kia, tôi cảm thấy mình bị tràn ngập bởi nỗi buồn là
không biết bao giờ có thể gặp lại chúng.
Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt
tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng
tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù
nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau
quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra
trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc
hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề. Giống
người lữ hành bị bỏ rơi trong sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống,
không một chỗ trốn cái nắng thiêu đốt ban ngày, không một mảnh chăn
chống cái lạnh cóng người ban đêm, tôi phải lê những bước chân cho đến
khi tấm thân khô nước, cạn máu như một bộ xương biết đi kiệt sức bởi
đói, khát, dưới cái nóng thiêu đốt của mặt trời, cái lạnh tê người về
đêm, tôi sẽ té ngã trên một đồi cát nào đó và buông hơi thở cuối cùng.
Bao nhiêu đau khổ đó, tất cả đều giấu mặt sau tấm mặt nạ của Thần Chết,
đang bao quanh tôi, nhảy múa nhạo báng, đang chuyển mình trong một điệu
múa ghê rợn chung quanh và trong chính tôi, hành hạ tôi bằng những trận
cười châm biếm mĩa mai, những cú đòn giáng xuống để cho cái mong muốn
được chuộc lại cái lỗi lầm là đã dám suy nghĩ khác với Đảng trở thành
cái đau đớn tột cùng trước khi Thần Chết đến ca khúc khải hoàn trên đống
xương trắng của tôi trong sa mạc. Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy
tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa
một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa
những kẻ thừa mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi.
Để quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm
chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải
chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.
Và Đảng phủi tay dễ dàng. Họ hợp lý vấn đề một cách thâm hiểm. “Tôi
có một nhân viên, nay tôi không thích nó, tôi cho nó nghỉ việc. Có gì
không đúng?”. Có một câu trả lời từ hắn: “Đây không phải đơn giản là một
chuyện cho nghỉ việc, khi có một hệ thống cửa hàng nhà nước và tem
phiếu, một người bị đuổi việc thì không thể mua gạo bất cứ ở đâu, cho
hắn và cho gia đình, khi mà hắn không có tiền và tem phiếu chỉ dành cho
công nhân viên nhà nước! Hơn nữa, các ông đã căn cứ trên điều Luật Hình
Sự nào để trừng phạt một tội bất đồng ý kiến và được Thế Giới công nhận
về nhân quyền? Các ông có biết được cái đặc biệt nghiêm trọng của cái án
phạt mà các ông tuyên phán trong nhà nước công sản của mấy ông khi các
ông lẫn lộn giữa hành chánh và luật pháp? Các ông đã kết tội tôi phải
chết, một cái chết chậm và lâu cho cả một gia đình chỉ vì các ông bị mất
vui? Một chuyện giả dối như thế có xứng đáng là một Nhà Nước tự cho
mình là văn minh không? Nhưng con cừu thì không thể lý luận với một con
sói.
Con sói có thể hùng hồn tuyên bố là nó đã tử tế cho phép con cừu được
tự do hạnh phúc, nhưng rốt cuộc nó cũng không thể thuyết phục những con
cừu với những lý lẽ để biện minh cho tội lỗi của mình, cũng chẳng chứng
minh được gì ngoại trừ sự tàn ác và dối trá của nó. Những văn kiện linh
thiêng nhất, những lời hứa trang trọng nhất luôn ẩn chứa những ảo tưởng
cũng chỉ với mục đích gìn giữ cái dáng vẻ bề ngoài trong khi sự thực là
đang chà đạp lên thực tế. Chủ nghĩa hình thức chỉ là một trò ảo thuật,
nhưng là một trò ảo thuật tệ hại xấu xa nhất vì nó không nhằm làm vui
mọi người nhưng nhằm cắt cổ họ.
Trong suốt một thời, nhân dân đã bị kinh hoàng vì tội ác của chế độ
phong kiến, họ luôn luôn mơ ước một nền công lý, mong có kẻ công minh
phân biệt thiện ác như Bao Công để bảo vệ những người dân chân chất
chống lại những kẻ bạo quyền. Nhưng niềm mơ ước sâu thẳm nhất của người
dân chưa bao giờ thành sự thật. Những kẻ to đầu vẫn cứ tiếp tục áp bức,
khủng bố, bắt nạt người yếu kém vô tội. Khi mà Nhà Nước không còn bảo
đảm công lý, niềm tin vào chính nghĩa cũng mất đi, những người mờ mắt vì
ích kỷ tham lam, hư hỏng vì mê muội và chẳng cần “lo cho mọi người” và
chằng cần lo cho có sự công bằng thì dân chúng quay ra cầu xin sự can
thiệp của những quyền lực siêu nhiên, tin vào chuyện nhân quả “ác giả,
ác báo”, gây gió sẽ gặp bảo, gây ác sẽ gặp chuyện ác.
Những con người tích cực thì không muốn chờ công lý của toà án “quả
báo” vì nó đến quá chậm, quá lâu. Họ muốn thay một nền công lý chậm chạp
và chưa bao giờ được hiện hữu một cách vững bền bằng một chế độ hoàn
toàn gồm những nguyên tắc và tổ chức nhằm mang lại những gì mà nhân dân
khát vọng. Luật Pháp là đoá hoa tinh khiết nhất của văn minh, toà án áp
dụng luật và phổ biến Công Lý, như bản Tuyên Bố Quốc Tế Về Nhân Quyền đã
mở đầu cho kỷ nguyên Dân Chủ, là những thành quả quý báu của nhân loại.
Bất hạnh thay, bộ máy tuyệt vời đó chỉ chứng tỏ một thứ chủ nghĩa duy
tâm, một bộ óc khéo léo ranh ma vận hành một cách chu đáo khi quyền lực
đưa ra để thực hiện những ý định mong muốn. Nếu theo chế độ dân chủ đại
nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại diện
và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định để
ngăn chận sự quá đà của giời cầm quyền và những lạm dụng của họ; trái
lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực độc tài, độc đoán sẽ khiến
cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ áp dụng nó để bảo vệ quyền
lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức quần chúng và những cơ quan
luật pháp sao cho những nơi này biến thành những người đầy tớ trung
thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy mất hết cả quyền lực của
mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong tay giới chức quyền, chỉ còn
biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình. Trong khi chờ những ngày phúc
phần, ngày mà nền công lý được vận hành hết công xuất, sự tàn ác phải
chịu trừng phạt, ngày mà quần chúng quá kinh tởm với những bất công của
giới lãnh đạo, mất kiên nhẫn và nỗi lên làm nên Lịch Sử, nhân dân dưới
chế độ cộng sản đối mặt với những kẻ độc quyền có con tim đóng kín, câm
lặng sau cửa Thiên Đường không còn nghe đến lời cầu xin và ước vọng của
con người, chẳng còn một giải pháp nào khác hơn là thu mình trong cam
chịu và tuyệt vọng.
Chính trong một tâm trạng như thế mà tôi đã là kẻ lữ hành trong
chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm
dài đằng đẵng. Chìm trong vùng cát sa mạc của tuyệt vọng làm cạn khô
giòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn, với
quả tim rướm máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của mật. Không
một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần gian mà tôi
đang bị quét đi trong nỗi cô đơn, nhưng tôi cố gắng tự cứu mình, vượt
qua cảnh địa ngục tối tăm, những cơn sóng dữ, để một ngày nào đó có thể
kêu lên chuyện đoạ đày của tôi.
3. Cái đói thê thảm
Lãnh đạo thật phúc đức. Họ đã tránh cho tôi phải chịu một chế độ tù
giam mà ở đó tôi có khi thành đứa hầu lo quét dọn cho các đại ca đầu
gấu, cho những tay trùm phòng giam, thành nạn nhân bị bóc lột bởi bọn
cai tù, bởi bọn du côn tham lam tàn bạo tước đoạt đi chút lương thực dự
trữ và phải chịu những hành hạ tàn khốc của chúng. Tôi cũng không bị đưa
vào những trại cải tạo nơi mà từng hàng tù nhân phải thi hành những
công việc lao động đất đai dưới sự điều khiển của những ông quản giáo.
Tôi được tha khỏi bị những ngày tháng dài, rất dài trong trong tù, có
khi đền tận ngày lìa đời, giữa những chấn song của một căn phòng chật
hẹp của công an ở một nơi nào đó mà không ai biết là ở đâu, bao trùm bởi
một màn đen bí mật và huyền bí, hay bị nhốt kín ngày đêm không thấy ánh
sáng mặt trời, không hít thở được không khí bên ngoài dù chỉ một phút
giây, hình phạt buộc phạm nhân không được chút sinh hoạt nào trong một
đêm dài vô tận ngập tràn trong tiếng inh ỏi khua vang của soong chảo và
nồi đồng mà những cánh tay lực lưỡng của mấy tên cai ngục thay phiên mà
đập để tra tấn cho đến khi nạn nhân biến thành kẻ khùng điên. Và, trong
khi đầu óc và đôi tai bị tra tấn vì những tiếng khua đập vào thành của
kim loại như muốn xuyên thủng các màng nhĩ, thì bao tử của người tù phải
chịu những cơn đau thắt vì bị viêm do những thức ăn hư thối cho tù nhân
ăn. Những kẻ bợ đỡ cộng sản kêu gào là những người cộng sản đã phải
chịu tra tấn trong những “chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo và ra sức lên
tiếng tố cáo những việc làm vô nhân đạo của thực dân. Người ta có thể tự
hỏi: thế thì ở mức độ hùng biện và nhiệt thành nào họ sẽ lên tiếng khi
họ biết những gì đang xảy ra trong chế đô cải tạo để bành trướng chủ
nghĩa công sản hiện nay?
Phúc đức thay cho những lãnh đạo nào đã tha cho tôi khỏi phải chịu
những khổ đau như thế. Những kẻ đã trừng phạt tôi, cho dù là do chính ý
muốn của họ, hay vô tình không hay biết vẫn là những kẻ muôn phần hiền
lành so với những con người kia, những con người còn hơn quỷ dữ. Nhân
dân sẽ phán xét.
Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.
Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên
chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc
dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay
từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít
oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm. Trước tiên, loại
bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp
đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối. Khẩu phần
cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một
bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng
đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói. Họ tự hỏi tại làm sao mà
các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon thả?
Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ
cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói.
Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng
làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt
làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng
tôi khó khăn kiếm sống? Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ qua con đường
buôn lậu mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải bán là cái máy
may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang ra chợ bán. Nếu
bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê mua rau cải lên bán ở những nơi
đông người qua lại. Nhưng tất cả những dự tính dễ thương nhỏ nhoi đó đều
không thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì không thể
làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.
Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số,
trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong
Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở trường
Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ Pháp. Nhưng
sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân giáo viên ở
một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có một chỗ ở
Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy. Hai thí sinh
được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái tôi được hội
đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận, vì cha của cô ta
là một đảng viên. Trong khi chờ kiếm việc, con gái tôi phải đạp xe đi
về mỗi bận 20 cây số để đi học nghề làm gốm trong một hợp tác xã ở ngoại
ô Hà Nội. Nhưng đến lúc học xong, thay vì được hưởng một tí tiền bồi
dưỡng người ta lại buôc nó phải trả tiền học phí. Nó muốn đóng góp được
một chút gì cho ngân sách gia đình nhưng vô vọng vì không thể làm được
gì.
Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một
đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi
báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không
có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông
thầy tận tuỵ. Phải làm gì đây? Tôi không thể ra đạp cyclo như một số
đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì chuyện “thiên hạ xầm xì” mà chỉ
vì tôi đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi
tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của một hai chuyến đi không đủ
để mua thuốc cho tôi lại sức với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi. Tự
nhủ là không có nghề gì là đáng khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên
vệ đường như những sĩ quan cao cấp già của bộ đội về hưu đang làm. Những
kiến thức về văn chương và ngôn ngữ trở nên vô dụng trước những chiếc
xe đạp hư cần sửa chữa như một quan hoạn đứng trước người đàn bà không
mảnh vải che thân.
Trong thời gian đầu khó khăn, người bõ già vào làm việc ở nhà tôi từ
những năm kháng chiến, hơn mười năm về trước, thông hiểu tình trạng tài
chánh kiệt quệ bất khả cứu vãn của tôi, đành xin phép nghỉ việc về quê.
Chúng tôi đã xem bà như một thành viên của gia đình, và chưa bao giờ
nghĩ đến việc cho bà ra đi, đã quyết tâm chia sẻ ngọt bùi sướng khổ với
bà. Nhưng chính bà lại khéo léo đề nghị chia tay, chúng tôi không còn
cách nào hơn là đồng ý. Cuộc chia tay thật cảm động, không bên nào kềm
được dòng nước mắt.
Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu
nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt
và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng
đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc
chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải
rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng. Trong
số gia súc chúng tôi chỉ còn con gà mái mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên.
Chúng tôi không thể giết thịt vì nó đã đáp lời kêu cứu của chúng tôi và
ngày nào cũng đẻ cho một trứng. Không như trứng vịt, có thể luộc dầm
nước mắm để chấm rau cải luộc, trứng gà chỉ dành cho một người, thay
phiên nhau mỗi ngày một người ăn. Đó là thức ăn dinh dưỡng duy nhất mà
chúng tôi còn có. Tới lúc chúng tôi không còn gì để nuôi con gà, bắp
cũng không, lúa cũng không, mỗi ngày vào lúc hoàng hôn khi mà chợ đã
vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh
không để kẻ qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó.
Sống trong một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con
gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tuỵ ốm
tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền não,
chỉ dám giấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên giường ngủ.
Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa hơn một lần,
phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương
phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi nhường bát cơm
duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm ăn, và có khi đặc biệt
hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn mà tôi vừa viếng thăm.
Một sự dối trá không thể kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái
chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi
phí.
Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không
còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như con nước tràn đê bao trùm
lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm tưởng
như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn của ý thức
bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình đứng dậy làm
một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm xuống trên chỗ
nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn biến mất. Cùng
lúc đó, cái bao từ co thắt từng chặp làm cho tôi vô cùng đau đớn. Cơn
đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu đựng vừa nghỉ ngơi
trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô thức, bất tỉnh không còn
biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi cũng thoát được cơn đói đau
thắt với cái lưng đau và một tâm hồn bầm dập quá đỗi. Tôi vừa xong bài
học nhập môn về sự đói.
Trong hoàn cảnh như thế, cuộc đời tiếp tục trôi như một vòng quay tự
động, cứ quay và quay đều trên một dây chuyền sản xuất, quay vô tận,
trong khoảng không. Một vòng quay thay vì như thông thường là môt sự kết
nối cân đối, một sự ăn khớp nhuần nhuyễn của ba trục máy để hướng đến
một mục tiêu đầy sinh động: chuyển động nhờ chân tay, suy nghĩ của bộ óc
và rung động của con tim để cảm xúc và yêu thương. Giờ đây thì không
còn bất cứ thứ mục tiêu gì, mọi thứ đều biến mất: ngọn lửa hy vọng, giận
dỗi, hận thù, cay đắng cũng chết đi, những suy nghĩ cuồng nộ như trong
cơn giông bão, như điệu vũ điên cuồng ghê gớm rồi yếu dần, kéo lê, bung
ra rồi biến mất như những bóng ma tan biến trước ánh sáng ban ngày. Thân
phận con người bị vỡ nát trôi lạc loài vô định, như một chiếc bè trên
biển cả mênh mông, phó mặc cho sóng cao, bão tố. Nó không còn là người
sống, chỉ để cuộc sống trôi đi, cứ để cái u mê nó bao trùm từ đầu đến
chân, như cây độc cần, chẳng cần một cú hich làm giật mình, mà cũng
chẳng cần nó phản ứng cục cựa. Một sự chán ngắt mênh mông, mệt mỏi và
yếu sức tràn ngập đến tận từng tế bào của cơ thể, tận từng sợi dây của
linh hồn, báo hiệu cho một cái chết đang tới gần trên những bước đi
không nghe tiếng.
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
No comments:
Post a Comment