5. Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn
Từ xưa con người đã sống quay quần trong một cộng đồng. Một khi các
nhu cầu đòi hỏi đã vượt quá sức lực và khả năng của cá nhân và gia đình
thì chúng chỉ được thoả mãn thông qua sự giúp đỡ hổ tương và hợp tác
trong cộng đồng, nhất là trong lãnh vực quốc phòng, canh nông cây lương
thực, chỗ ở, quần áo, giáo dục… Cái sinh hoạt muôn mặt chung góp cho
việc duy trì cuộc sống vật chất của mỗi cá nhân, chú trọng đến sự phát
triển về thể chất con người, từ đó bảo vệ sự toàn vẹn của con người và
sự tiếp diễn của cuộc sống.
Nhưng ra ngoài những giới hạn của thể chất và cuộc sống vật chất là
cái không gian vô giới hạn và vô cùng của cảm xúc và con tim. Xã hội
không muốn và không thể can thiệp vào hai lãnh vực này. Cái bên trong đó
chính là phòng xét nghiệm, là nơi cấu thành những quyết định của nội
tâm, dẫn tới những hành động thể hiện nhân cách và biểu hiện ước vọng
của con người. Có một sự hỗ tương qua lại giữa hai thế giới, thế giới
bên ngoài tạo ra những điều kiện buộc con người phải phản ứng, thế giới
bên trong phản ứng lại làm cho ngoại cảnh lại trở lại tác động trên con
người. Cái cơ chế với hai chuyển động qua lại này giúp bảo đảm một sự
quân bình cho cá nhân, những trao đổi giữa hai thế giới, bên ngoài và
nội tâm, giúp định vị và duy trì con người giữa một hệ thống phức tạp
gồm những tác động, phản tác động giúp cho con người cảm nhận sự sống.
Bởi vì, cộng sản đã ngăn cản những tiếp xúc và trao đổi giữa hai thế
giới, ngoại cảnh và nội tâm, cắt đứt cái quan hệ giữa chúng và bộ máy
ngưng không chạy hết công sức mà chỉ chạy cầm chừng, làm chậm đi một
cách đáng kể chuyển động của các bánh quay và mắc xích. Trong những
trường hợp quá nặng, cá nhân bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài, họ sẽ
mất đi những cảm xúc rồi dần mất luôn cả những khả năng của lý trí và
tâm lý sẽ rơi vào sự tê liệt càng ngày càng lớn. Cá nhân có thể trở
thành khùng điên và tổ tiên sẽ không mất công chờ đợi lâu để đón họ ở
bên kia thế giới. Đó là thứ hình phạt nặng nề nhất dành cho con người.
Bên kia chuyện đó chỉ là án tử hình.
Trong trường hợp cá nhân tôi, không hề có một bản án được tuyên,
không nhà lao, không phòng nhốt tù. Nhưng trong nhà nước cộng sản, có
bao nhiêu thứ hình phạt không tên được tiến hành, không chính thức,
nhưng về lâu đó chỉ là những án tử hình không hơn không kém. Đó là hình
phạt cắt phép thông công mà những kẻ cuồng tín chính trị đã cóp nhặt từ
kho tàng tội phạm thời Trung Cổ, cắt phép thông công là vũ khí quyết
liệt của bọn cuồng tín tôn giáo. Người ta đã cấm tất cả những người
trong họ đạo không được chứa chấp, nuôi ăn hay cho mặc những kẻ bị mất
phép thông công là những kẻ đã mất nhà cửa, kế sinh nhai, quần áo, không
còn cách nào có được một cuộc sống bình thường như trước. Chuyện cắt
phép thông công của tôi chỉ dừng ở chỗ cấm cửa không tôi vào dạy ở Đại
Học và bước vào các Toà để hành nghề Luật Sư. Cả mười Uỷ Ban Chấp Hành
Trung Ương của mười tổ chức quần chúng không chính thức đã tiến hành
loại tôi ra nhưng họ chỉ dừng ở chỗ là không mời tôi đến dự những buổi
họp của họ. Thái độ của cộng sản là có ý nghĩa: họ là những tín đồ của
những biện pháp nửa chừng, rình đâm sau lưng, bỏ thuốc độc vào tách trà
hay gian trá tạo ra những vụ tai nạn chết người. Tội ác đã phạm nhưng
không để dấu vết. Dưới mắt của Luật Pháp, họ có thể kêu gào là chuyện
xảy ra là không có chứng cớ, và hơn như thế, trong xã hội, họ đã tránh
được những tai tiếng, tránh làm dấy lên những dư luận chính trị, mà vẫn
giữ được danh tiếng cho người bị trừng phạt trong đời sống xã hội và
chính trị. Chủ nghĩa Machiavelli vẫn được tiến hành dưới một lớp nguỵ
trang đầy nghệ thuật.
Liên quan đến chuyện của tôi, tôi không bị ném vào tù hay bị còng
tay. Tôi không bị bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào.
Tôi không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội và mọi
người đều biết: để tránh phải chịu những phiền phức, những ai muốn tiếp
xúc với tôi, dù bất cứ chuyện gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa
một người đang bị bệnh dịch, không nên đến gần. Ra đường, mọi người thấy
tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng mặt, nếu người nào đó, vì
vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa gặp tôi, ngay sau khi vừa rời
khỏi nhà là đã có công an mời về cơ quan để tra tấn họ với những câu hỏi
về họ là ai, về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan hệ
gì đến tên tội phạm là tôi đây. Chắc chắn rằng tên tuổi của người đó sẽ
được ghi vào sổ đen và từ đó sẽ thường xuyên bị theo dõi. Không cần phải
có cặp mắt tinh anh để nhận biết rằng ở tất cả những ngã tư đường dẫn
đến nhà tôi lúc nào cũng có một hay hai tên cớm dù đã thay đổi căn cước
hình dạng nhưng không đổi nhiệm vụ cảnh giới và canh gác, để chận bắt
những người chỉ vì vô tâm hay gặp lúc số phần bị xấu mà đến bấm chuông
nhà tôi. Thật là một màn hài kịch, vừa tức cười vừa bi đát, mỗi khi tôi
ra khỏi nhà để đi lang thang đây đó, tôi luôn luôn bị bám đuôi theo dõi
chặt chẽ. Nhiều người bạn thấy tôi từ xa đã ngay tức khắc quay lưng và
biến mất như chiếc bóng trong đêm. Nếu gặp đôi lúc, để giữ gìn sức khoẻ,
tôi ra ngoài tản bộ quanh những con đường kế cận, tôi không bao giờ bỏ
qua cơ hội, mỗi khi đi ngang qua những người công an đang theo dõi tôi,
cẩn thận giở nón chào họ một cú ra trò làm cho họ không được vui lắm. Cả
họ và tôi đều biết rõ họ đang diễn trò gì. Như thế họ phải hiểu là tôi
quá biết rõ những lệnh lạc mà họ nhận từ chủ nhân và cái tinh quái của
tôi là không bao giờ để cho cái cảnh giác của họ có thể thình lình bắt
tôi được. Dĩ nhiên, tất cả thư từ của tôi đều bị mở và một số không bao
giờ đến tay tôi. Tất cả thông tin đều được ghi vào hồ sơ, về tên tuổi
những người gửi thư cho tôi và dĩ nhiên họ sẽ tiến hành điều tra về
những người này. Tất cả những con chó to đùng được gửi đến để cắn tôi
đều không thể táp với những cái răng nanh vì chúng không thể tìm ra
khoảng trống nào có thịt của tôi cả. Sau nhiều năm dài theo dõi, chủ
nhân của chúng khám phá rằng chẳng được tích sự gì nên đã buộc phải chấm
dứt sự theo dõi đó.
Vào thời gian đầu của cuộc sống đầy bất hạnh của tôi, và trong suốt
những chuỗi ngày đen tối đó, tôi thật bất ngờ khi thấy những nhân vật
chính trị có tầm cỡ đến nhà tôi, như đồng chí Hà Huy Giáp. Tôi không
biết ông ta tự ý đến hay có ai đó đã giao cho ông việc làm đến thăm tôi
như thế. Ông ta tỏ vẻ lo lắng cho sức khoẻ của tôi và đặt những câu hỏi
vô thưởng vô phạt về sinh hoạt của tôi. Trước đây tôi được nghe những
lời đồn tốt về ông nhưng chưa có dịp gặp ông ta. Cuộc trao đổi không đi
sâu đến mức riêng tư nhưng tôi có cảm tưởng là có những động lực thân
thiện đã đưa ông đến nhà. Một người trong Trung Ương, một nhân vật khá
quan trọng của Đảng, đã cất công đến thăm một kẻ bị loại, bị mất phép
thông công. Bất kể cái gì, bất kể từ động lực tình cảm nào, cuộc viếng
thăm của ông ta như thể một tia nắng chiếu vào đêm tối cô độc của tôi.
Mặc dù với cuộc viếng thăm rạng rỡ và đầy ánh sáng của Hà Huy Giáp
như là một tia chớp làm sáng lên đêm tối của đời tôi, tôi vẫn cảm thấy
đau khổ cô đơn sống cô lập vì người ta đã kết án tôi. Tôi không bị cô
lập với gia đình nhưng vợ con cố giấu nhịn những dòng nước mắt để không
làm tôi khổ thêm, và tôi biết những giọt nước mắt của họ lại sẽ tuôn
trào những khi tôi vắng nhà. Về phần tôi, tôi rán tránh nhìn trong mắt
họ để không nhìn thấy những nếp nhăn trên gò má vì những đêm mất ngủ và
phải chịu quá nhiều đau khổ. Một khi quyền lực đã ném sức nặng vào tay
gìới cầm quyền, họ hống hách tuyên bố, dưới cái nhìn của họ, là đã có kẻ
đã phạm một tội ác không dung thứ được, thì cái sợ hãi đã lan ra đến
nỗi không ai dám mở cửa hay mở lòng đón tiếp kẻ “phạm tội” đó. Kẻ “phạm
tội” chỉ còn cách tự buộc mình sống trong cô lập mà cũng chỉ có nó là
phải chịu đau khổ bởi những dày vò đau đớn của sự cô đơn. Không có nhà
nào dám che chở cho nó ngủ, không một bộ quần áo nào có thể che chở cho
nó chống chọi đêm đông lạnh giá, không món ăn nào làm ấm bụng, giúp cho
nó chút sức để đứng dậy trên đôi chân mà bước đi, không còn một đôi tai
thân thích nào để nghe lời than vãn của họ, không một tiếng nói đầy lòng
thương nào để ban bố cho tiếng kêu than.
Người đời nhìn tôi, tôi nhìn họ, không còn ai nhận ra ai. Vâng, một
kẻ bị trục xuất, bị cắt phép thông công thì phải sống cô đơn ở mọi nơi,
ngay cả khi đang sống trong đất nước của mình.
Nhưng cuộc sống bị cô lập giữa những người xa lạ, dù họ là những
người cùng nòi giống với bạn, đau đớn bao nhiêu cũng không sánh bằng cái
khổ khi phải thấy cái thống khổ của chính gia đình mình, của những
người thân thương nhất, của người bạn đời và của máu mủ của mình! Cái cô
đơn này cũng là cái quí giá hiếm hoi làm lộ ra cái tình yêu sâu đậm tạo
nên sợi giây liên lạc thiêng liêng giữa tôi và vợ con. Họ đau khổ khi
nhìn thấy tôi khổ. Họ nghĩ suy cho đó là bổn phận và tình yêu nên cố
giúp tôi bớt đau khổ bằng cách giấu đi khổ đau của chính họ. Tự nó, đó
là cái động lực rất đáng khen, quý phái, đáng được thán phục và vinh
danh, nhưng rủi thay, người chồng và cha, mà họ mong muốn làm cho bớt
khổ, dù chỉ trong muôn một, lại làm cho hắn khổ đau gấp hai khi thấy
không thể chia cho nhau những tiếng thở dài và niềm đau cay đắng. Trong
cuộc chơi đầy bi thảm và đau đớn, mỗi người trong ba chúng tôi là lo cho
người kia, cho hai người kia, tin rằng mình mới là kẻ có khả năng chịu
những đợt tấn công của nghịch cảnh và giữ được sự thanh thản và cân bằng
bên trong để có được sự an bình của tâm hồn. Nhưng cái mà đang giết
chúng tôi là ai cũng biết mình đang lừa dối với chính mình, và muốn lừa
dối người kia hay cả hai người kia. Không ai bị lừa cả, nhưng cả ba
người đều tự cho rằng mình là người được nhiều an ủi, để rồi tuôn trào
nước mắt nhiều hơn khi nỗi cô đơn đến trong đêm khuya.
Vì thế tôi rất đau khổ khi biết rằng vợ con đã phải chịu khổ vì mình,
sức khoẻ họ đang kém đi vì những đêm không ngủ kéo dài, và cứ lập đi
lập lại mỗi ngày. Ý nghĩ đó tra tấn tôi ngày đêm, xé nát tim tôi, làm
tôi luôn thao thức trên giường, buộc tôi phải ngồi dậy, bước quanh trong
phòng cho tới khi đi nằm lại. Trong nhà, cả ba con người đều không nhắm
mắt ngủ được, và nhờ cái đói, họ đành cứ phải lê những buớc yếu ớt
quanh phòng và nếu có một cơn ngủ đến làm họ nằm xuống, chẳng qua là nhờ
sự kiệt sức đã làm tan biến chút năng lượng hay sức lực còn lại. Thật
là một phép lạ khi chúng tôi đã vượt qua biết bao lần như thế, trong khi
chỉ cần một lần là có thể đã dễ dàng lấy đi mạng sống của chúng tôi.
Nếu cứ mỗi cuộc khủng hoảng làm chúng tôi đau nhức chết người, thì
những lúc tĩnh lặng sau đó, khi dài khi ngắn, lại làm cơn đau dồn dập
hơn nữa. Cái đau đớn đã xé tôi ra từng mảnh, đè nghiến, xé toạc tôi,
xuyên thủng tim tôi những lỗ sâu bén, cắn xé hồn tôi ra từng mảnh với
hàm răng sắc nhọn. Đó là một thứ sức mạnh hiện hữu, có nét riêng và, nếu
tôi có thể nói là xác thực, mà tôi không thể đo lường được cái cường
độ, cái năng động, sức mạnh, sự tiến hoá và chu kỳ, thời gian ngưng đọng
và tái diễn. Ngược lại, những cảm giác thống khổ mới đang tra tấn tôi
lại thuộc về một chủng loại hoàn toàn mới mà tôi chưa bao giờ được biết.
Ngược với cái đau đớn mà tôi gọi là hiện hữu xác thực đang đập nát tinh
thần và đang xé nát tim tôi, thì những cái đau mà tôi cảm nhận là những
tác động tiêu cực làm tan rã ý chí, làm mềm đi hệ thần kinh, làm chậm
dòng sinh khí, làm nhu nhược hoàn toàn thể chất và tâm lý của tôi, biến
tôi thành một thứ giẻ rách chỉ xứng đáng để ném vào sọt rác. Cái khổ đau
này, nó như cơn thuỷ triều đang dâng, tràn ngập và nhấn chìm tôi trong
một tình trạng suy nhược và tê liệt, chỉ để lại trong tôi một mảnh ý
thức rời rạc đủ để tôi nhận ra cái sức nặng của một khoảng trống rỗng
không. Trước đây cuộc sống của tôi thật sống động, cho những bài giảng ở
Đại Học, tranh cãi trước Toà Án, viết những bài tham luận, khảo cứu văn
chương. Tôi thường có một cảm giác sung mãn, nóng bỏng muốn hành động
và biểu lộ ra ngoài. Ngày nay tôi trở nên gật gù trong trạng thái lừ đừ
yếu đuối, tưởng như đang trôi dạt trên một biển cả không bờ không bến và
bị tan biến trong cái vùng nước mênh mông không động đậy. Ngày xưa,
thời gian đối với tôi là một kho tàng quí giá nhất, nó trôi qua quá
nhanh ngược lại ý mình, đã làm tôi tuyệt vọng; ngày nay nó chỉ là một
chiếc khung hình hoàn toàn không có gì trong đó, hiện ra một khoảng
trống không màu sắc, chỉ để làm hư tầm nhìn và tiêu diệt cả ý chí. Tôi
căng óc lấp đầy cái hư ảo này với những cảm xúc nghe, nhìn. Tôi phải tìm
nhìn chăm chăm vào từng chiếc lá trên cây bên đường, chú mục vào từng
kẻ đang bước trên phố, từng cái xe chạy, tôi như một người mù vừa mới
tìm được lại ánh sáng, vừa xem xét chăm bẳm từng thực tiễn của cuộc
sống, vừa ngạc nhiên trước những điều mới lạ. Nhưng mọi cố gắng đều trở
nên vô ích, và sự kiêu hãnh của họ đã ném tôi vào một niềm thất vọng
không thể chịu đựng được. Cả thời gian đó, dù tôi đã cố gắng quên mình
trong những chuyện tầm phào, nó vẫn tiếp tục làm cho tôi hoang mang lẫn
lộn, nó vẫn quấy phá tôi bằng cái rỗng tuếch của nó.
Tôi nảy ra ý nghĩ một mình lang thang khắp phố, tập trung với tất cả
chú tâm nhìn ngắm những sinh vật, tất cả các căn nhà, tất cả những hoạt
cảnh đang chuyển động, những thứ kết hợp thành bao nhiêu là chuỗi phim
tài liệu về đời sống ở thủ đô. Không có một du khách nào đã đẩy trí tò
mò của mình đi xa như tôi như thế. Nhưng tất cả những bận bịu, mà tôi
hiểu rõ hơn ai hết đó là chuyện vô ích, cũng không cho phép tôi lấp đầy
hết khung thời gian của tôi. Tất cả những việc làm vô hồn đó không thể
nào thoả mãn một tâm hồn đang khát bỏng những ước vọng chưa thoả, với
những nhiệt tình nhất định. Tôi tự so sánh mình với người lữ hành đang
băng qua sa mạc, nặng chĩu trên vai một gói vàng và không cầu xin gì hơn
là được trao tất cả số vàng kia để đổi lấy một cốc nước.
Tôi lang thang trôi dạt đến khu Ba Đình, nơi mà xưa kia tôi hay đến
chơi tennis trong những lúc rỗi rảnh. Vẫn chưa đến giờ tan sở, trên sân
vẫn vắng bóng người chơi. Đang ngồi cạnh sân, bỗng nhiên tôi hết sức
ngạc nhiên thấy như một cục gì đang lăn tròn dưới chân tôi mà lúc đầu
tôi cứ tưởng là một cục len. Đó là một con mèo bé tí chắc mới đẻ vài
ngày trườc đây, chắc là mẹ nó, theo thói quen, đã quyết tâm bỏ đi để nó
tự một mình khám phá thế giới. Tôi bế nó lên trong lòng bàn tay, dịu
dàng vuốt ve nó và tôi cảm thấy nó thật tội nghiệp. Nó và tôi là hai kẻ
lạc loài đang trôi dạt bơ vơ trong cuộc đời, cả hai cùng chung cái đói,
nạn nhân cùng bị cô lập và sầu não chung một số phận. Sau khi đi một
vòng trong khu nhà hỏi xem ai là chủ nó, câu trả lời luôn là không biết,
tôi cám ơn sự may mắn hay Đấng Cứu Thế nào đó đã trao cho tôi một người
bạn đồng hành bất hạnh và khốn khó để tôi có thể thì thầm chuyện vãn
hầu lấp đầy cái khoảng thời gian trống vắng, để cho tôi có một kết nối
tình cảm mà tôi không dám đòi hỏi nơi vợ con vì sợ rằng sẽ đào sâu thêm
nỗi khổ đau của họ. Giữa tôi và vợ con, sự im lặng là cái hùng biện hơn
là những lời nói và nó không làm tuôn thêm những dòng nước mắt. Câu
chuyện giống như tôi và con mèo con kia: chỉ cần nhìn nhau trong ánh mắt
là quá đủ cho những trao đổi tình cảm.
Trở về nhà, tôi chia cho nó chén cơm trắng của tôi. Tôi rất vui khi
thấy nó bằng lòng một chút cơm như thế và nó lên cân khá nhanh. Mỗi khi
tôi ngồi thiền hay ngồi mơ mộng bên cạnh cửa sổ, nó leo lên ngồi trên
đùi tôi, về đêm nó đến nằm kề bên cạnh. Nhờ đó, tôi bắt đầu bước những
bước đầu tiên, bước ra khỏi con đường hầm vô tận của cô đơn, tự cho mình
một lý lẽ để sống bằng cách lấp đầy những khoảng trống trong sự hiện
hữu của tôi. Tôi không thể đi dạo một mình ngoài đường vì lúc nào cũng
có bọn chó săn bám gót phía sau. Tôi không thể ghi danh vào câu lạc bộ
tennis Ba Đình vì giá vợt, banh và giày vải để chơi là quá cao với một
giá thật điên khùng và tôi không thể nào vươn tới. Nhưng điều làm tôi
đau lòng nhất là thấy biến mất những bạn cùng chơi ngày xưa nay kiếm
cách tránh và chạy mặt tôi. Sự bỏ chạy của họ như là những cú dao đâm
vào tim tôi, tôi không thể nào đóng vai một kẻ vô gia cư hay cùi hủi.
Tôi hiểu thái độ những người bạn chơi tennis kia, tất cả đều là những
chức sắc cao cấp trong chính quyền, dĩ nhiên là những người của Đảng, là
những người luôn luôn lo lắng hơn ai hết về tương lai quan chức và
chính trị của mình. Vì thế họ sẽ bị kinh hoàng khi phải bắt tay một kẻ
đang bị bệnh dịch và phải chơi một trận tennis với kẻ này. Họ cũng chỉ
là con người, với những tâm hồn yếu kém, tôi không thể nào mong họ bớt
mất tư cách hơn, bớt hèn hạ, bớt mất phẩm giá hơn.
Con mèo lớn nhanh và nó được tôi dành cho nhiều săn sóc. Nó giúp tôi
hoà giải lại với cuộc đời, nó làm nẩy nở trong tôi cái thú vui được có
lại những sinh hoạt trí thức, những sinh hoạt ngày xưa đã đem lại cho
tôi những niềm vui thanh khiết. Tôi phải làm cách nào để khởi động lại
cái máy trí thức của tôi đây? Tôi lượt xét lại tất cả từ năm 1932, năm
mà tôi trình luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương và Tiến Sĩ Luật.
Trong lúc chọn đề tài khảo cứu, tôi dành phần như nhau giữa phương Tây
và phương Đông, giữa nước Pháp và Việt Nam. Luận án chính của tôi về văn
chương viết về Musset, luận án về Luật viết về cá nhân trong xã hội xưa
dưới các triều đình An Nam (Bộ Luật nhà Lê). Riêng về cái luận án bổ
túc về Văn Chương, nó nhằm giới thiệu đến công chúng Pháp một tác giả
người Pháp đã viết về đề tài “Việt Nam vào cuối thế kỷ 19” tên Jean
Boissière. Niềm ưu tư về sự cân bằng và giao hoà giữa hai thế giới đã
gây cảm hứng cho tôi trong bốn cuốn sách viết vào khoảng năm 1940. Cuốn
thứ nhất, Nụ cười và nước mắt của tuổi trẻ, trình bày cái tâm lý và
những sinh hoạt trí thức và xã hội của một cô gái trẻ người Việt, được
đào tạo ở Pháp, có trách nhiệm phải xây dựng phương Đông của ngày mai.
Chính cái “xây dựng phương Đông của ngày mai” lại là cái cảm hứng để tôi
viết hai cuốn sách, một cuốn dành riêng viết về những giá trị của Pháp:
Những viên ngọc của nước Pháp và cái khác với những giá trị vùng Địa
Trung Hải (Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp), một cuốn là Bước đầu của Địa Trung
Hải. Tác phẩm thứ tư là một vở kịch mang lên sân khấu cái xung đột, trên
khía cạnh tình cảm, giữa một kẻ du hành hiện thân cho phương Tây với
những nhu cầu hay di động và thay đổi, và một cô gái tiêu biểu cho tình
cảm qua sự trung thành và bền vững: “Cuộc hành trình và tình cảm”.
Từ năm 1940 đến 1945, nhiều xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng đã xảy ra
trên thế giới và ở Việt Nam: từ nay, nước Pháp không còn tập trung vào
những hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nơi mà Cách Mạng cộng sản đã
thắng thế từ năm 1945 và đang điều hành nhân dân. Từ 1945 đến1956, tôi
và gia đình bỏ vào bưng cùng tham gia Kháng Chiến chống thực dân. Khi
trở về Hà Nội, tôi trở lại đi dạy Văn Chương ở Đại Học và mở lại văn
phòng Luật Sư ở Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm, nhờ Đảng ban ân huệ và cũng
chẳng phải do tôi xin, ngồi trên ghế của Uỷ Ban Trung Ương của mười tổ
chức quần chúng. Từ năm 1958, vì đứng ra bảo vệ cho dân chủ, tôi đã bị
tước bỏ mọi nhiệm vụ; tôi đã nhắc lại những diễn biến này trong phần đầu
của cuốn sách này.
Đó là những sinh hoạt trí thức của tôi từ 1932 cho đến ngày hôm nay.
Giờ đây tôi sẽ phải bám víu vào thế giới nào đây? Đó là một điều cực kỳ
quan trọng. Cái vấn đề chính yếu mà tôi đã dựa vào để làm căn cơ cho cả
cuộc đời trí thức của tôi là điểm gặp nhau giữa Đông và Tây, ngược với
luận đề của Rudyard Kipling là chối bỏ cái khả năng đó. Tôi tự cho mình
cái công việc là lo giúp sự hiệp thông qua lại của hai thế giới, trên cơ
sở đó hai bên có thể thực hiện cuộc gặp gỡ. Mỗi thế giới đều có một
thang giá trị riêng, đôi khi kình chống lẫn nhau. Sự gặp gỡ, trên cơ sở
của sự thông cảm lẫn nhau, sẽ kéo theo việc bên này giúp đỡ bên kia để
bổ sung lẫn nhau và cùng đào luyện để mang những lợi ích chung cho nhân
loại. Chính theo hướng đó mà tôi đã đặt hết suy tư để hoàn tất tác phẩm
của cuộc đời tôi.
Nhưng phương Đông, đặc biệt là Việt Nam lại va phải một số khó khăn
trong việc đi tìm những giải pháp cho những vấn đề cấp bách và quan
trọng. Thí dụ như vấn đề đào tạo con người mới. Ở Việt Nam nhiều lần cải
cách về giáo dục vẫn chưa mang được gì thoả đáng. Có lẽ nên cần thiết
hoàn toàn xoá bỏ và làm lại tất cả những quan niệm chính trị, nhưng đảng
cộng sản Việt Nam sẽ nhìn với con mắt rất xấu những ai nêu lên cách đó
như một giải pháp cho việc cải tổ giáo dục. Có lẽ phải làm cho các vị
lãnh đạo nghiền ngẫm về những tư duy về sư phạm của Pháp, chỉ trong hai
thế kỳ, từ Érasme đến Rousseau, đã thành công đào tạo con người, nói
đúng hơn, con người trí thức hiện đại, thiếu họ cuộc cách mạng Khoa Học
Kỹ thuật không thể nào thành công. Công việc nghiên cứu của tôi là nhắm
vào điểm này.
Một vấn nạn có tầm cỡ khác là giới trí thức Viet Nam phải giải quyết
thế nào về cái quan hệ giữa chính trị và văn học. Rất nhiều văn nghệ sĩ
không thể chấp nhận cho chính trị quản lý chi phối những sáng tác văn
học. Đảng đã tuyên cáo rằng chính trị phải đứng ra quản lý văn chương và
mục đích của văn chương là phải phục vụ chính trị trong những đường lối
chung và những đường lối riêng của Đảng. Tất cả những nhà văn vâng theo
nguyên tắc này đều nhận được công danh và bổng lộc, cho mình và cho cả
những người trong gia đình. Nhưng đa số những người khác thì nhăn nhó mà
theo hướng này. Như vậy vấn đề cũng quan trọng như việc đào tạo con
người. Như vậy, rất cần thiết cho tôi được đưa ra những suy nghĩ về vấn
đề kia. Không phải để nhắm làm thay đổi những kẻ ương ngạnh đã dính luận
cương của Đảng, tôi cảm thấy có điều ích lợi để trình bày cho độc giả
về vấn đề đã được giải quyết thế nào dưới thời Cổ Đại Hy Lạp và thời Cổ
Đại La Tinh.
Hy Lạp thời cổ đại đã đưa ra mẫu mực của Eschyle (Aiskhylos), một
trong những bậc thầy về bi kìch Hy Lap, mà những tác phẩm đều được chính
quyền và nhân dân ngưỡng mộ và trọng nể. Thật không có gì quan trọng
khi chính trị thích nghi với văn chương hay ngược lại. Cái hiển nhiên là
tác phầm của Eschyle là đượm mùi thơm của chính trị, là niềm vinh quang
của nhân dân đã đánh thắng giặc ngoại xâm. Người đọc Việt Nam ta sẽ tìm
thấy trong đó tiếng vọng của niềm vinh quang của chính chúng ta.
Một hình ảnh tương tự được thấy trong tác phẩm Virgile (Vergilius).
Đường lối chính trị của Auguste là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp; như
thế vai trò nhà thơ là ca tụng vẻ đẹp của nông thôn, viết nên những vầng
thơ của nông nghiệp. Auguste còn đưa ra một đường lối chính trị hoà hợp
và đoàn kết để củng cố nền tảng của vương quốc sau khi gầy dựng nên nó.
Việt Nam ta có lẽ có cùng hoàn cảnh như thế, trong những vinh danh tán
dương về nền nông nghiệp cũng như trong đường lối chính trị của mặt trận
dân tộc cho Tổ Quốc.
Cuối cùng là tuyệt phẩm của Eschyle: vở kịch bộ ba Oresteia cũng đáng cho Việt Nam quan tâm, vì tác giả đã nêu lên chuyện trả thù cá nhân được chuyển biến thành chuyện trừng phạt bằng pháp lý của Nhà Nước, và, một mặt khác, từ những nhóm trùm buôn nô lệ tiến đến một nền dân chủ có nô lệ. Nền dân chủ bắt đầu thăng hoa và nhận sự giúp đỡ của thần Hoà Bình, những Erinyes, thần Báo Thù, tất cả được biến hình thành những Euménides là những thiên thần của dịu ngọt và lòng nhân.
Cuối cùng là tuyệt phẩm của Eschyle: vở kịch bộ ba Oresteia cũng đáng cho Việt Nam quan tâm, vì tác giả đã nêu lên chuyện trả thù cá nhân được chuyển biến thành chuyện trừng phạt bằng pháp lý của Nhà Nước, và, một mặt khác, từ những nhóm trùm buôn nô lệ tiến đến một nền dân chủ có nô lệ. Nền dân chủ bắt đầu thăng hoa và nhận sự giúp đỡ của thần Hoà Bình, những Erinyes, thần Báo Thù, tất cả được biến hình thành những Euménides là những thiên thần của dịu ngọt và lòng nhân.
Để giúp mình vượt qua những dằn vật của sự trống trải đã thấm nhập
vào con người tôi làm tôi trở nên tê liệt trong bạc nhược và rầu rĩ. Cái
suy nghĩ cả ngày lẫn đêm dẫn tới việc tôi định ra một chương trình làm
việc mà theo tôi ước tính là có thể kéo dài đến hai mươi năm.
Như vậy, trong cái khung suy niệm về chỗ gặp gỡ giữa Đông và Tây, để
theo đuổi chủ tâm của tôi là làm sao cung cấp vật liệu của phương Tây
cho một công trường phương Đông, tôi nhấn mạnh đến những cống hiến của
nền văn minh Cổ Đại của Hy Lạp và La Tinh. Những cống hiến này có thể là
rất bao la, nên tôi chỉ chọn những gì có liên hệ trực tiếp đến thời sự
Việt Nam, và chính xác hơn là những đóng góp đặt ra cho trí thức và giới
nhà văn. Và cũng như, trong những năm dài trong mật khu, người ta đã đề
nghị chúng tôi học tập về chủ nghĩa Marx, với tôi đấy là cơ hội ngàn
năm một thuở để đưa vào áp dụng những gì trong chủ nghĩa Marx để giúp
tôi hiểu nhiều hơn sự tiến triển của xã hội và sự xuất hiện của những
biến cố lịch sử.
Sau rốt, vì các nhà lãnh đạo Việt Nam là những người đầu tiên quan
tâm đến những nghiên cứu của tôi nên chúng được tôi viết bằng tiếng Việt
chứ không bằng tiếng Pháp.
Bốn tác phẩm đã hoàn tất sau những cố gắng của tôi:
1) Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII (Erasme đến Rousseau);
2) Eschyle và bi kich của Hy Lạp;
3) Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu;
4) Virgile và sử thi Hy Lap.
2) Eschyle và bi kich của Hy Lạp;
3) Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu;
4) Virgile và sử thi Hy Lap.
Mỗi tác phẩm gồm chừng 500 trang máy đánh chữ. Tôi đã gửi một bản sao
cho các Uỷ Ban của Trung Ương Đảng (Uỷ Ban Giáo Dục và Uỷ Ban Văn Hoá
Nghệ Thuật); tôi đã nhận được những lời khen ngợi và được giấy phép ấn
hành. Rủi thay, những cơ quan ấn hành, nơi mà tôi giao các bản thảo, đều
từ chối vi họ không có ngân sách để in chúng. Tôi đành chịu thua. Thât
là cộng sản.
Tôi đã lên kế hoạch là sẽ làm việc một thời gian dài, chẳng cần bận
tâm muốn biết là tôi có thể hoàn tất nó trước khi tôi chêt hay không.
Hai mươi năm nữa thì tôi đã sáu mươi lăm. Biết tôi còn sống đủ lâu để
đạt tới mục đích của tôi không? Chẳng quan trọng, cái thiết yếu của tôi
là làm sao phá vỡ cái khoảng không vô tận đang níu chặt lấy tôi, thoát
ra khỏi cái chán nản làm suy nhược con người mà tôi đang bị dính nhựa,
tiêu pha thời gian ngâm mình trong những dòng nước cứu giúp của một sinh
hoạt có ích và say mê. Nỗi khổ đau dai dẳng của tôi xem như chấm dứt,
và chắc chắn là tôi đã lấy lại nét mặt vui tươi vì vợ và con gái tôi
không còn khóc khi nhìn chăm vào mặt tôi. Góp vào cái âu yếm của vợ con
là cái nũng nịu của con mèo nay đã lớn trông thấy, khoanh mình nằm trên
đầu gối tôi khi tôi đang ngồi làm việc và cọ sát cái đầu nó vào chân tôi
khi tôi đứng dậy. Con vật thật đáng thương! Nó thiếu tất cả các thứ mà
những con mèo đang vênh vang trong phòng khách của các ông lớn ngập đầy:
mẩu thịt, chút sữa hay chút canh gà. Tôi thì thầm vào tai nó rằng nó đã
được sinh ra dưới một ngôi sao xấu vì nó đã rơi vào nhà của một kẻ bị
mất phép thông công, ông ta cũng thế, keo kiệt từng miếng cơm, lấy cớ là
để giữ gìn “đường nét” như một cô gái đẹp có lẽ đang cố gắng cho lần
chinh phục sắp đến. Tôi đã ép con mèo phải tự chăm lo đường nét của nó,
đề gìn giữ cái dáng vẻ thanh tao của giống mèo, khi nó phơi bộ xương
sườn ốm nhách trên tấm chiếu, đặt dưới sàn nhà, nơi mà nó dùng như bàn
ăn. Như một nhà thơ đã kêu gào: “Ôi lao động, cái luật thanh thản của
thế giới!”, chính sự làm việc đã cứu tôi: tôi như được sống trong môi
trường của mình, tôi như con cá được vẫy vùng trong nước. Tôi làm sống
lại niềm vui sống và niềm vui này sẽ không bao giờ ra khỏi tôi, dù chỉ
trong chốc lát, cho tôi được hít thở không khí của trời đất và thời
gian.
Việc bán tài sản của tôi hết món này đến món khác đã giúp chúng tôi
một ít tiền bạc, cái ít ỏi mà nhờ đó chúng tôi có những bữa ăn đạm bạc
hằng ngày. Số chén cơm cho cả ba chúng tôi, bữa trưa và buổi tối, đã
được nâng lên con số 12 và phần rau cũng được nâng lên. Thật là một bữa
tiệc cho chúng tôi ngày Chủ Nhật, khi tự cho phép mình mỗi người một
trái chuối! Tình trạng bị cô lập chúng tôi vẫn thế: không ai trong dòng
họ dám gõ cửa nhà tôi và không một người bạn nào thoáng qua cửa sổ. Tất
cả họ đều đi vòng để tránh phải đi qua con đường chúng tôi ở. Tôi không
ra khỏi nhà nữa, cũng không ra khỏi cái bàn làm việc của tôi để loại cho
những người quen một cuộc gặp gỡ mà họ sợ còn hơn là sợ ngọn lửa của
địa ngục.
Dù thế, tôi không biết họ làm cách nào, những người bạn xa gần vẫn
không quên tôi. Nhiều lần, khi tôi mở cửa nhà buổi sáng, tôi chợt thấy
nhét dưới cánh cửa là một phong thư nhồi đầy giấy bạc. Chúng tôi khóc vì
xúc động và chúng tôi tuyệt vọng vì không biết làm cách nào để tỏ lòng
biết ơn những ngưới đầy lòng tốt mà chúng tôi không hề biết tên! Nhiều
lúc, khi màn đêm buông xuống, vào lúc trời còn nhá nhem, có những lần
tôi làm vài bước đi dạo ngoài đường. Bọn cú vọ lẽo đẽo một khoảng cách
phía sau, nhưng rất khó cho chúng nhận ra mặt của những người, đạp xe
ngang qua rất nhanh, vội vàng nhét vào tay tôi một phong thư hay một gói
nhỏ. Chả thấy, chả biết! Tất cả những thao tác ấy xảy ra chớp nhoáng:
mấy tay công an chỉ kịp thấy ánh đèn xe đạp nhấp nháy!
Tất cả những cử chỉ hào phóng mà tôi là kẻ được hưởng làm tôi suy
nghĩ. Tôi nhận thấy cái bất lực của nhà cầm quyền trong việc ngăn những
tin tức được truyền đi. Họ đã quyết định tước bỏ vĩnh viễn quyền công
dân của tôi, ngăn cấm mọi liên lạc của tôi với thế giới bên ngoài. Trong
nước, cái sợ hãi bị trừng phạt, trực tiếp hay xa gần, đã đánh gục những
kẻ ngây thơ hay bạo gan dám liên lạc với một loại «bị bệnh dịch» như
tôi, xoá sạch những tấm lòng đầy thiện ý. Dường như với tôi, bị cô lập
cả trong và ngoài nước, cái chết tự nhiên sẽ tiếp nối không sớm thì muộn
cái chết dân sự kia. Nhưng cái hy vọng đó xem ra là vô ích. Những tin
tức dù bí mật nhất rồi cũng sẽ thoát ra ngoài xã hội, chúng lan truyền
với tốc đô chóng mặt, nhờ những phương tiện truyền thông hiện đại và bởi
cái tác động của tính tò mò mà mọi người đang cháy bỏng muốn biết những
gi đang xảy ra ngầm trong hậu trường chính trị.
Tôi sẽ vén lên cái bất lực thứ hai của nhà nước: Có thể chăng họ
không muốn cái chết của tôi, một cái chết mà họ không muốn bị bẩn tay và
cẩn thận tránh không bị nhân dân quy trách nhiệm, nhưng họ sẽ không
được nhìn cảnh tượng biến mất của tôi bằng cặp mắt thiếu thiện cảm. Họ
đã dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ một trong những giống trí thức tồi tệ
này: bằng cách chối bỏ bất cứ phương tiện kiếm sống nào của người này.
Tôi và gia đình không chết vì đói: chúng tôi quá khổ đau vì đói, mất
hàng kí thịt trong cơ thể, trên mặt chúng tôi là những vết tích của cái
bụng lõm sâu và cái bao tử trống không, nhưng chúng tôi chịu đựng được!
Tiền thu được của những lần bán liên tiếp các tài sản giúp chúng tôi kéo
dài những ngày dật dờ trong nhiều năm nhưng chúng tôi không cho phép
những kẻ căm ghét chúng tôi được vui khi hay tin chúng tôi chết. Và, vào
những khi chúng tôi cạn kiệt tiền bạc thì lòng hào hiệp của những người
bạn trong nước hay đang ở nước ngoài ném cho chúng tôi những chiếc phao
cứu hộ giúp cho chúng tôi nổi trên mặt nước thay vì phải chìm sâu đến
tận đáy sâu của hư không. Nhiều người bạn trong nước cũng như ở Pháp,
sau bốn mươi năm bặt tin, cứ tưởng rằng tôi đã bị gạt tên khỏi danh sách
của những người còn sống. Nhưng tôi đã trả lời cho họ: “Tôi là một loài
cỏ dại. Người ta có thể bước lên nó, đạp bẹp nó nhưng một khi có một
giọt sương mai, giọt nước mưa hay một dòng nước mắt rớt xuống, nó lại
bừng dậy mỉm cười trước ánh sáng mặt trời”. Nguồn sống của chúng tôi,
bắt đầu khô cạn sau khoảng chục năm, lại được đong đầy bởi những dòng
thác sôi sục của lòng hào hiệp của những người bạn, những người quen
trong nước và trên thế giới. Họ là những kẻ không tên, không biết mặt
nhưng không phải là không thận trọng, đã sáng tạo ra những phương cách
tài tình chế nhạo tất cả những kẻ cầm quyền trên thế giới, bất kể cái
hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã chung tay làm
nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của lòng
trắc ẩn và sự tử tế, để đưa bàn tay cứu giúp những nạn nhân của bọn độc
tài khát máu. Cái nhiệt tình của họ sinh động là nhờ lòng vị tha và lòng
vô tư đã gạt qua tất cả những toan tính của ích kỷ. Cái mục tiêu mà họ
muốn đạt đến có hai khuôn mặt: một mặt là tinh thần nhân đạo và tình anh
em giữa những người trí thức, mặt kia là cái kinh hoàng của những kẻ
bạo ngược và sự tàn bạo. Cuộc chiến đấu của trí thức tiến công chống lại
cái độc tài mù quáng và vô nhân đạo, bởi lẽ kẻ độc tài đã ra tay đoạ
đầy người trí thức kia! Một trí thức, trong cái liêm chính của con người
và với cái minh mẫn trong tinh thần, là một người lính chống lại sự
chuyên chế chuyên lập đi lập lại những lời hứa hão huyền và sự bất lực
đã phải cầu cứu đến đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng cua
họ.
Sau hai mươi năm, tôi đã hoàn tất công trình mà tôi tự đặt cho mình.
Nhờ sự đồng hành của Montaigne, Rousseau, Eschyle và Virgile, tôi đã
thoát ra khỏi sự cô lập và nỗi cô đơn của tôi, tôi như nở hoa trước ánh
nắng của sáng tạo và dưới ánh mặt trời của tự do trong lòng tôi. Từ 1958
cho đến nay, gần bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách
tồi tệ nhất mà người ta có thể gán cho một trí thức, một con người.
Nhưng đó lại là những năm tuyệt vời mà tôi biết được. Tôi như được thăng
hoa, sung sướng là đã thắng những nghịch cảnh mà người ta đã đưa ra để
chận con đường sống của tôi, đã điều khiển những sinh hoạt của mình
hướng theo sở thích và sự chọn lựa của mình và cống hiến những khả năng
khiêm nhường của tôi cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng những tâm địa
độc ác và đồi bại của những kẻ đã thề phải hạ gục được tôi. Nhưng tôi
vẫn tha thứ cho họ bằng cách lập lại câu nói bất hủ: «Chúng cũng không
biết chúng đang làm gì!». Người ta sẽ quên đi Cinna, nhưng sẽ nhớ mãi
August [1] và lòng khoan dung quảng đại của ông ta.
Năm 1989, vào tuổi tám mươi của tôi, những người bạn Việt Nam và Pháp
mời tôi làm một chuyến viếng thăm Pháp. Sau Đại Hội VI Trung Ương Đảng
Cộng Sản Việt Nam, lần đầu tiên trong lich sử của họ, đã tuyên bố chấp
nhận chủ nghĩa tự do còn hôi sữa, tôi lợi dụng cơ hội xin chiếu khán đi
Pháp. Tôi cũng không mong mỏi đơn xin của tôi sẽ được chấp thuận, nhất
là đối với một người mà hồ sơ chính trị lại dầy cộm như của tôi. Thật là
bất ngờ đến sửng sốt, sau đâu chừng hai tháng chờ đợi, tôi nhận được cả
hộ chiếu lẫn chiếu khán để đi Pháp. Rủi thay, chính phủ Pháp đã kéo
nhiều tháng dài mới cấp chiếu khán nhập cảnh cho tôi. Thiệt tình! Thế
giới đã bị lộn ngược.
Tôi xuống máy bay ở phi trường Orly vào một buổi chiều Tháng Mười.
Những người bạn Việt và Pháp đã dành cho tôi một cuộc đón tiếp thật cảm
động. Sau sáu mươi năm, tôi tìm lại tổ quốc của tri thức của tôi, cùng
lúc với một sự hiếu khách đầy tinh tế và ân cần của những trái tim vàng.
Cái cơ thể đã suy nhược bởi bốn mươi năm thiếu thốn về vật chất và khốn
khổ về tinh thần đã xỉu ngã quỵ ra sàn. Đây là lần thứ nhất trong đời, ở
tuổi tám mươi, tôi nhập viện vào một nhà thương của Pháp và nhận được
những chăm sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi liên lạc lại với bạn bè và
tiếp tục những sinh hoạt. Tôi được đài truyền hình TF1 phỏng vấn. Tôi đã
làm hai cuộc hội thảo, một ở Clermont l’Herault, gần thành phố
Monpelier, nơi mà ngày xưa tôi đến thu thập tài liệu về ông J. Bossière
cho đề tài của luận án bổ túc Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chuong của tôi; và
một Đại Học Sorbonne ở Paris VII. Tôi đã đến thăm thủ lãnh Luật Sư Đoàn
Paris.
Một biến cố quan trọng, vượt khỏi sự mong đợi của mọi người, đã bất
ngờ cuốn hút chú ý của tôi, là cuộc nổi dậy của nhân dân các nước Đông
Âu. Mỗi ngày, tôi theo dõi hàng giờ trên truyền hình và báo chí và cố
gắng tìm hiểu cái gì muốn nói lên khi quần chúng đang gào lên những khẩu
hiệu căm thù cộng sản và đã ném xuống chân ngai vàng những tên lãnh đạo
và chúa tể cùng một giuộc, những kẻ, vì sự ngu đần của đầu óc, vô nghĩa
trong nhân cách, thiếu vắng những khả năng để lèo lái đất nước, đã theo
bước chân của Stalin, và đã mòn gối quần quỳ lạy tung hô Lenin va
Stalin! Suy nghĩ thật kỹ, những ai đã quan sát và nghiên cứu về chủ
nghĩa cộng sản, qua những áp dụng thực tiễn của nó hơn là những gì trong
những bài học lý thuyết của nó, sẽ nhận thấy là sẽ rất khó cho các nhà
lãnh đạo còn giữ được vị trí của họ trong hệ thống hành chánh ở một
nước, trong chính phủ gọi là của nhân dân, bởi lẽ chính họ đã trâng tráo
phạm pháp ở những nơi này mà không bị hề hấn gì, những định luật của
kinh tế học và đã chà đạp hung bạo lên những nhu cầu hằng ngày, những
niềm tin gốc rễ của con người. Cứ theo chiều hướng đó, họ còn có thể
đứng vững bao lâu nữa trên một sự mất cân bằng cơ bản? Nhưng không ai có
thể ngờ rằng sự sụp đổ của nó đến nhanh như thế. Nhiều ký giả đến hỏi
thăm ý kiến của tôi về những biến cố có thể xảy ra ở Việt Nam. Họ hỏi
tôi: «Ông nghĩ bao giờ thì chế độ Việt Nam sẽ sụp?» Tôi trả lời họ: «Tôi
không làm nhà chiêm tinh và cũng không tham khảo mấy lá bài tây. Kiên
nhẫn, kiên nhẫn đang ở trên trời, mỗi hạt li ti của yên lặng là cơ hội
cho một trái cây chín tới!».
Đã sống đến tuổi tám mươi trong lòng tổ quốc, tôi bắt đầu nhận biết
nhân dân Việt Nam. Nhờ sống bốn mươi năm dưới địa ngục cộng sản, cuối
cùng tôi cũng hiểu đưọc những người đã thực hiện chủ thuyết đó. Tôi cho
là một cuộc cách mạng bằng bạo lực là không đúng lúc, không hiệu quả và
không nên có vì nó sẽ phát sinh ra những biến động phi thường, những hỗn
độn không thể dập tắt, mà cả dân tộc sẽ khóc ra máu.
Cái tiêu chuẩn hợp lý và lô gic là tài năng phải đi song hành với đạo
đức, vì lẽ nếu người trí thức tràn đầy tài năng mà đạo đức của họ vẫn
chưa gợi được sự tin cậy. Họ hư hỏng vi chủ nghĩa cơ hội, lòng ích kỷ và
tính kiêu ngạo của ho. Những kỹ nghệ gia và thương gia đã gặt hái được
tài sản và tích luỹ được kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh và kinh
tế, nhưng nhiều khi họ rất cận thị trong chính trị, thường hay thiếu sự
điềm tĩnh và khôn ngoan. Lòng yêu nước và tính trung thực là hai đức
tính được quý trọng nhất, nhưng tài sức phải được sinh ra từ một văn hoá
trí thức và khoa học. Có đảng phái chính trị nào mà không mong có trong
hàng ngũ của mình những người kết hợp được văn hoá trí thức và khoa học
cùng với lòng yêu nước và tính trung thực? Ngay cả khi vấn đề đa nguyên
đa đảng, chuyện đã làm tốn bao giấy mực và nước bọt, chuyện mà đảng
cộng sản phản đối kịch liệt với một sự bền bỉ không thể hiểu nổi, được
tuyên cáo và công nhận, người ta cũng chưa biết được đảng nào có thể đạt
được trong tức thời số lượng phiếu bầu phổ thông đủ để có thể thành lập
một chính phủ cho cả nước.
Một lý do khác mà chúng ta phải ghi nhận. Dù có ghét hay thương cộng
sản, mình cũng phải công nhận rằng những người lãnh đạo nó đã phải chịu
đoạ đầy vì lòng yêu nước của họ. Những thế hệ kế tiếp và những người nối
nghiệp thì không thể tự hào là có cùng cái hào quang đó. Dù vậy, trong
số những kẻ kế thừa vẫn có những người mà lòng trung chính, dù thiếu khả
năng, vẫn xứng đáng để chúng ta ngả mũ chào, còn bao nhiêu kẻ khác
chẳng có chút khả năng nào lại thêm thiếu đạo đức nhưng hết mực bám vào
Đảng vì Đảng đã tổ chức và bảo vệ quyền lợi cá nhân của họ. Những tay
cộng sản đó hết sức quyết tâm chiến đấu đến chết cho Đảng. Cuối cùng,
trong quần chúng người ta thấy hàng trăm ngàn người như thế, trong quân
đội, trong nhà máy, trong tầng lớp nông dân, là những người đã hưởng một
sự giáo dục tư tưởng trong nhiều năm, nhưng lại không có văn hoá, thiếu
đầu óc phán xét và tinh thần phê bình và lại sa vào sự cuồng tín, có
niềm tin sắt đá vào những sự thực được dạy bởi Đảng và sẵn sàng đổ máu,
và nếu cần cả tính mạng để bảo vệ cái Đảng của Hồ Chí Minh, chống lại
mọi kẻ đối nghịch và kẻ thù nào muốn lật đổ họ hay tiêu diệt họ. Quân
đội một bên, một bên kia là hàng triệu kẻ cuồng nhiệt và kẻ cuồng tín,
hai thành trì cò thể tiêu diệt mọi đám người muốn đến giải phóng Việt
Nam. Họ phải ngưng tự ảo tưởng về mình, phải ngưng trò Don Quichotte.
Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán
đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi
hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp
quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước
liên hệ mà sự thịnh vượng, dù đã bị giới hạn, là rất cần thiết cho sự
thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền
của con người. Đối với những gì mà cộng sản đã tuyên truyền cho chủ
nghĩa Marx - Lenin, người ta cũng phài làm như thế để quảng bá dân chủ.
Muốn áp dụng dân chủ, chúng ta cần phải học những nguyên tắc và tổ chức
những định chế cho phép sự vận hành nó. Bản chất của dân chủ, trong ý
nghĩa sâu sắc và cái tác dụng toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm
không thể phân ly, cái này dính với cái kia: đó là nội hàm ‘Chính phủ do
dân’ và nội hàm ‘Chính phủ vì dân’. Thật là xấu hổ nếu cứ mưu mẹo lập
lờ trên chữ nghĩa và cho rằng ‘Chính phủ cho dân’ là đủ. Đó là điều bịp
bợm. Nếu nhân dân không hành động và kiểm soát thì không một ai có thể
thay thế vào chỗ của họ. Dưới danh nghĩa là làm CHO dân, họ đã phạm bao
nhiêu điều bỉ ổi và đã lấy những quyết định gây thiệt hại ít nhiều cho
quyền lợi của nhân dân.
Nhân dân có quyền đặt cho Nhà Nước vài câu hỏi: trước đợt thuỷ thiều
đang dâng của dân chủ và chủ nghĩa tự do, tại sao các ông cứ cứng đầu
chối bỏ cái hiện thực và các ông cứ bám chặt một cách tuyệt vọng vào cái
tôn chỉ đã lạc hậu không còn cứu vãn được gì nữa ? Giữa chủ thuyết của
các ông và quyền lợi của Tổ Quốc vá Nhân Dân, các ông nghiêng về phía
nào ? Những đoá hoa đang cắm ở bình, hoa mà các ông đã du nhập từ nước
ngoài vào, nay đã héo tàn. Cho đến bao giờ các ông không còn khư khư yêu
mến cái xác ướp không bao giờ còn có thể hồi sinh được nữa ? Và, nhất
là hãy giải thích cho nhân dân tại sao các ông lại căm ghét sự đa nguyên
đa đảng như thế! Thật xấu hổ khi thấy những kẻ cuồng tín gồm một phần
lớn là những người đã nhận sự giáo dục và lệnh của các ông, và số còn
lại là những con cừu thiếu văn hoá, không chút gì hiểu biết về thực tiễn
của thế giới, ù lì không thể thấm hiểu được những đổi mới, những thay
đổi. Tới nay thì các ông cũng buộc phải thú nhận cái thất bại tả tơi
trong xã hội và chính trị, nơi mà cái độc quyền chính trị đã cho phép
một sự phình to của quyền lực, mở cửa cho một sự bùng nổ của ích kỷ; đạo
đức của những người có quyền có thế càng ngày càng suy sụp và mức phạm
tội hình sự của họ càng ngày càng tăng với một tốc độ chóng mặt. Các ông
phải công nhận thêm rằng, trong lãnh vực kinh tế, các ông đã chịu một
thảm bại không thua gì cái thảm bại của trận Waterloo. Bởi cái ngu dốt
và thói con vẹt của các ông đã dẫn dắt các ông theo gương của những ông
anh, các ông đã khinh thường khoa học và thực tiễn, nói một cách gọn là
những định luật khoa học. Kết quả không cần phải chờ lâu: sự sụp đổ, đẩy
cả nền kinh tế duy y chí vào đổ nát, hàng triệu người lao động tay chân
và trí óc bị buộc phải thất nghiệp và khổ sở kinh hoàng và nền kinh tế
của cả nước với ước vọng là sẽ cất cánh, nhưng lên khỏi mặt đất là chỉ
những khu vực không đáng kể như công nghiệp nhỏ, thủ công mỹ nghệ và
nông nghiệp, và cho thấy không thể bay cách nào hơn là cứ la đà trên mặt
đất ! Nếu, những gì liên quan đến những gì về xã hội, chính trị và kinh
tế, là một sự sụp đổ hoàn toàn, thì thứ gì còn lại được an toàn vô sự
trong một đất nước mà những nền tảng đã sụp, và, mà sự phân rã không thể
che dấu được? Âm điệu rỗng tuếch của những lời tuyên bố và những lời
hứa làm tức tối những người đang bị dính vào nỗi khổ đau không dứt,
những người đang tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính họ điều mà
họ đã dạy «Một tội tự thú là một tội đã được giảm 50% án phạt». Làm thế
nào những người cộng sản để giài quyết tình trạng xung đột quyền lợi của
Đảng và quyền lợi của Dân Tộc và Tổ Quốc ? Quyết định của quý ông sẽ là
cơ sở để Dân Tộc và Lịch Sử dùng để phán xét các ông và Đảng của các
ông.
Công luận nhận thấy các ông đã làm một bước tiến trên con đường «đổi
mới». Như thế là các ông bắt đầu thú nhận cái thất bại của các ông.
Nhưng các ông, cũng như nhân dân Việt Nam, có bằng lòng về giải pháp nửa
chừng chỉ có một số tác động điều trị trên một vài lãnh vực được chỉ
định, trong khi cơn bệnh đã tấn công toàn cơ thể của quốc gia và cơ cấu
của nó? Các kiêu hãnh về những hy sinh đáng kể trong đời mình mà với
chúng các ông tỏ lòng biết ơn Đảng. Chủ nghĩa anh hùng của các ông có
làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ của Tổ Quốc và
Nhân Dân? Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam đang chờ câu trả lời của các
ông.
Hà Nội ngày 13 tháng 5 năm 1991
Nguyễn Mạnh Tường [*]
Nguyễn Mạnh Tường [*]
____________________________
[1] Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la
Clémence d'Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe
lời người yêu là Émilie mà rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của
Émilie bị vua giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị
trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.
[*] Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội.
Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó
du học tại Đại học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới
22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp:
Ưu hạng Luật khoa (Luận án: L'individu dans la vieille cité annamite,
Code des Lê. D.E., Droit, Montpellier, Imp. de la Presse Montpellier
1932) và Tiến sĩ Quốc gia văn chương (với luận án L'Annam dans la
littérature française, D.E., Lettres, Montpellier 1932). Báo chí thời ấy
đã coi người thanh niên Việt Nam trong một năm đỗ 2 bằng tiến sĩ là
hiện tượng chưa từng có trong nền giáo dục đại học Pháp. Bạn tri âm của
ông là Nguyễn Văn Huyên, người cũng làm luận án Tiến sĩ Văn khoa tại
Pháp.
Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở trường
Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat), hay còn gọi là trường Bưởi (từ
1945 đổi tên thành trường Trung học Chu Văn An). Bất mãn với chính sách
kỳ thị của Pháp khiến ông bỏ dạy và mở văn phòng luật sư tại hai biệt
thự số 1 và số 2 phố Mai Xuân Thưởng. Về sau gia đình đã hiến tất cả cho
Nhà nước, làm trụ sở cơ quan tiếp dân của Thanh tra Chính phủ.
Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp ông làm luật sư và
dạy học tại Thanh Hoá và khu ba nói chung, giữ chức vụ Phó Giám đốc
Trường Sư phạm cao cấp liên khu Bốn. Đến khi hòa bình lập lại năm 1954,
ông trở về Hà Nội, là giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học
Quốc gia Hà Nội).
Sau 1954 ông giữ các chức vụ Trưởng khoa Đại học Luật Hà Nội, Phó chủ
tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Đoàn Luật sư, Phó Trưởng khoa Đại
học Sư phạm Hà Nội; thành viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, thành viên của Hội Hữu nghị Việt-Pháp, Hội Hữu nghị Việt-Xô và Uỷ
ban Bảo vệ Hoà bình Thế giới, sáng lập viên Câu lạc bộ Đoàn Kết, Phó
hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên nghiên cứu giáo
dục. Ông tham gia phái đoàn chính phủ dự hội nghị trù bị Đà Lạt, dự các
hội nghị hoà bình thế giới ở Bắc Kinh và Vienna.
Đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa Bình ở Vienne (1952): Người đứng giữa ôm cặp là Ls. Nguyễn Mạnh Tường
Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã
đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự
do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh
Tường. Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh
thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần
chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng
viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi
hành triệt để các tự do dân chủ.
b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất
nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần
xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học
Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi... nhưng cho đến số cuối cùng được
ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố
bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Ngày 30 tháng 10 năm 1956 luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách
thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc
họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của
Đảng và Nhà nước trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng tránh
mắc lại. Sau phát biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề
nghiệp.
Ông mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường có vợ là bà Tống Lệ Dung, có ba con, một
trai và hai gái. Người con trai cả (Nguyễn Tường Hưng nguyên Phó Vụ
trưởng Vụ Kế hoạch các Bộ: Mỏ và Than, Năng lượng và Công nghiệp) và
người em ngay sát ông đều đã nghỉ hưu. Con rể ông là nhạc sĩ, nhà lý
luận phê bình âm nhạc Hồ Quang Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Âm
nhạc Hà Nội.
Tác phẩm
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường để lại 14 tác phẩm bằng tiếng Pháp và 4 tác phẩm tiếng Việt.
• Văn Phạm Việt Nam (cùng Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim) (1941)
• Việt Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)
• Construction de l'Orient (1937)
• Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
• Pierres de France (1940)
• Apprentissage de la Méditerranée (1940)
• Le Voyage et le Sentiment (1940)
• Một Cuộc Hành Trình (1955)
• Un Excommunité-HàNội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Quê Mẹ Paris xb 1992)
• Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế kỷ XVI, XVII, XVIII (Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội – 1994, 530 trang)
• Aikhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (Nhà xuất bản Giáo dục 1996)
• Virgile - nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La mã cổ đại (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996, 342 trang)...
• Việt Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)
• Construction de l'Orient (1937)
• Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
• Pierres de France (1940)
• Apprentissage de la Méditerranée (1940)
• Le Voyage et le Sentiment (1940)
• Một Cuộc Hành Trình (1955)
• Un Excommunité-HàNội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Quê Mẹ Paris xb 1992)
• Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế kỷ XVI, XVII, XVIII (Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội – 1994, 530 trang)
• Aikhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (Nhà xuất bản Giáo dục 1996)
• Virgile - nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La mã cổ đại (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996, 342 trang)...
No comments:
Post a Comment