S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
“Cái này tôi vừa mua hôm qua, còn mới nguyên, vậy mà hôm nay đã… hỏng. Mà loại không người lái đấy nhá. Cứ phải lắc lắc, đến mỏi cả tay, cái kim giây cũng chỉ nhúc nhích vài nấc rồi đứng.”
Ông thợ chỉ mới nghe chứ chưa nhìn, đã lắc lắc đầu quầy quậy:
“Chịu thôi!”
“Cố giúp cho đi, bao nhiêu là năm lương của tôi đấy, không phải ít đâu. Đây là món quà mà bố tôi vẫn ao ước mãi…”
Sự chân thật và vẻ khẩn khoản của anh, có lẽ, đã khiến người đối diện mủi lòng:
“Anh mua nhằm đồ rởm rồi. Đồng hồ giả làm sao sửa được, cha nội?”
“Giả à?”
“Tui ngó qua là biết liền mà.”
“Thôi chết! Thế bây giờ phải làm sao?”
“Dục bà nó đi chớ còn làm gì được nữa.”
Anh lính trẻ ngớ ra một chút, rồi thẫn thờ quay bước, mặt buồn thiu. Người thợ sửa đồng hồ (ái ngại) nhìn theo, trông cũng buồn không kém. Còn tôi, tôi cũng… buồn luôn!
Rõ ràng, tôi thuộc diện… buồn theo. Không những chỉ buồn theo, tôi còn (dám) là người buồn nhất. Và nỗi buồn này cứ ở mãi trong tôi cho đến mãi chiều nay.
Nhiều năm sau, có hôm, tôi được nghe ông Phùng Quán – sinh thời – kể chuyện “Đầu năm xông đất nhà thơ Tố Hữu”. Trong buổi tương phùng muộn màng này, Tố Hữu cao hứng đọc một bài thơ tứ tuyệt (mới nhất) của ông:
Lời thưa đầu: Bài viết sau đây – với nhiều dữ kiện liên
quan đến vụ án của bà Phạm Thanh Nghiên và ông Nguyễn Xuân
Nghĩa – đã được đăng tải lần đâu tiên tại diễn đàn talawas
vào ngày 17 tháng 9 năm 2008, một ngày trước khi hai nhân vật
này bị bắt giam và kết án nhiều năm tù, với tội danh “tuyên
truyền chống phá nhà nước.”
Bà Phạm Thanh Nghiên đã được trả tự do vào ngày 18 tháng 9 vừa qua, và đã tuyên bố như sau trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFA: “Không có lý do gì không tiếp tục tranh đấu.”
Chúng tôi xin đăng tải lại trên diễn đàn này với hy
vọng làm sáng tỏ thêm, phần nào, lý do “tiếp tục tranh đấu”
của người phụ nữ bất đồng chính kiến can trường và trẻ tuổi
này.
Trân trọng
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi bỗng trở thành một thằng vô cùng
rảnh rỗi. Như phần lớn những người dân miền Nam khác – những kẻ không
cảm thấy yên tâm gì cho lắm khi nhìn thấy bóng dáng đoàn quân giải
phóng, và cũng không có chỗ đứng (hay ngồi) trong lòng “cách mạng” – tôi
không có gì để làm, và cũng không biết rồi ra sẽ làm gì với cuộc đời
mình.Rảnh, tôi hay đi lang thang cho nó qua ngày. Có chiều, tôi thấy một
anh bộ đội vội vã bước vào một tiệm sửa đồng hồ, với vẻ khẩn trương:“Cái này tôi vừa mua hôm qua, còn mới nguyên, vậy mà hôm nay đã… hỏng. Mà loại không người lái đấy nhá. Cứ phải lắc lắc, đến mỏi cả tay, cái kim giây cũng chỉ nhúc nhích vài nấc rồi đứng.”
Ông thợ chỉ mới nghe chứ chưa nhìn, đã lắc lắc đầu quầy quậy:
“Chịu thôi!”
“Cố giúp cho đi, bao nhiêu là năm lương của tôi đấy, không phải ít đâu. Đây là món quà mà bố tôi vẫn ao ước mãi…”
Sự chân thật và vẻ khẩn khoản của anh, có lẽ, đã khiến người đối diện mủi lòng:
“Anh mua nhằm đồ rởm rồi. Đồng hồ giả làm sao sửa được, cha nội?”
“Giả à?”
“Tui ngó qua là biết liền mà.”
“Thôi chết! Thế bây giờ phải làm sao?”
“Dục bà nó đi chớ còn làm gì được nữa.”
Anh lính trẻ ngớ ra một chút, rồi thẫn thờ quay bước, mặt buồn thiu. Người thợ sửa đồng hồ (ái ngại) nhìn theo, trông cũng buồn không kém. Còn tôi, tôi cũng… buồn luôn!
Rõ ràng, tôi thuộc diện… buồn theo. Không những chỉ buồn theo, tôi còn (dám) là người buồn nhất. Và nỗi buồn này cứ ở mãi trong tôi cho đến mãi chiều nay.
Nhiều năm sau, có hôm, tôi được nghe ông Phùng Quán – sinh thời – kể chuyện “Đầu năm xông đất nhà thơ Tố Hữu”. Trong buổi tương phùng muộn màng này, Tố Hữu cao hứng đọc một bài thơ tứ tuyệt (mới nhất) của ông:
Có anh bộ đội mua đồng hồ
Thiệt giả không rành anh cứ lo
Đành hỏi cô nàng, cô tủm tỉm:
“Giả mà như thiệt khó chi mô!”
Thiệt giả không rành anh cứ lo
Đành hỏi cô nàng, cô tủm tỉm:
“Giả mà như thiệt khó chi mô!”
Theo nguyên văn lời của Phùng Quán: “Nhà thơ đọc lại lần thứ hai,
nhấn mạnh từng từ một. Khách khứa nghe cũng đều cười tủm tỉm, nhưng
không ai bình luận gì hết. Tôi thì đoán họ đều như bị hẫng. Vì giọng thơ
khác lạ biết bao so với giọng thơ quen thuộc của nhà thơ trước đây.”Tất
nhiên, tôi cũng bị hẫng luôn. Vẫn nói theo ngôn ngữ đương đại thì tôi
thuộc diện… hẫng theo. Và nói tình ngay thì tôi hẫng lắm. Không chừng,
tôi lại (dám) là người… hẫng nhất.
Tôi bỗng nhớ đến cái cảm giác hụt hẫng mà mình đã trải qua, vào một buổi chiều tháng 5 năm 1975, khi nhìn nét mặt buồn rười rượi của anh lính trẻ, thất thểu bước ra khỏi tiệm sửa đồng hồ. Lúc ấy, tôi mới chỉ mơ hồ cảm nhận được là có cái gì không ổn trong cuộc chiến khốc liệt (vừa tàn) trên đất nước mình. Sao chung cuộc, kẻ chiến thắng (nếu còn sống sót) chỉ nhận được những chiến lợi phẩm, trông rất nhỏ nhoi – chỉ là mấy cái đồng – như thế? Đã thế, dân chúng ở vùng địch tạm chiếm lại còn trao tay cho những chiến sĩ giải phóng quân toàn là… của giả!
Sau khi nghe Tố Hữu đọc thơ, và hình dung ra nụ cười “tủm tỉm” của cô hàng (cùng nét mặt láu cá của tác giả) tôi chợt nghĩ thêm rằng: chả riêng gì cuộc chiến giải phóng miền Nam, tất cả những gì thuộc về (cái gọi là) “cách mạng” ở Việt Nam – vào thế kỷ qua – đều có cái gì đó rất là không ổn, hay nói rõ hơn là… không thật!
Và sự thật (nghĩa là sự giả trá) được phơi bầy rõ ràng, qua một vụ kiện, đang xẩy ra ở xứ sở này như sau:
Ngày 14 tháng 6 năm 2008, ba công dân Việt Nam – Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận – làm đơn gửi Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, xin phép được biểu tình. Lý do: “cho những người buôn bán nhỏ, làm xe ôm, phu hồ, phu khuân vác, thợ cắt tóc, trẻ đánh giầy, người bán hàng rong… những kẻ chỉ được thụ hưởng rất ít các kết quả tăng trưởng trong khi chính họ gần như phải lãnh trọn những hậu quả do lạm phát đang diễn ra… có địa điểm để tập trung bày tỏ ý kiến.”
Sau khi đơn từ gửi đi thì tư thất của những người đứng đơn (bỗng) biến thành… lao thất. Họ bị cấm ra khỏi nhà, bị sách nhiễu, đe doạ… Riêng cô Phạm Thanh Nghiên – theo tường thuật của RFA, nghe được vào hôm 6 tháng 7 năm 2008 – còn bị “đánh đập tàn tệ giữa đường phố.”
Đến ngày 26 tháng 6, được Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội ra thông báo cho biết không được phép tổ chức biểu tình. Lý do: “vi phạm Khoản 2, Khoản 6 Điều 5 Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ nhằm qui định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.”
Sau đó, cô Phạm Thanh Nghiên và ông Nguyễn Xuân Nghĩa làm đơn khiếu nại về thông báo “bác đơn xin biểu tình” của họ. Đơn này không được trả lời cho đến khi cô Phạm Thanh Nghiên (nhờ luật sư Lê Trần Luật) nộp đơn khởi kiện các cấp hành chính đã bác đơn xin biểu tình, và gửi lên toà án hành chính cùng cấp.
Kết quả, được ông Nguyễn Xuân Nghĩa tường thuật như sau:
Tôi bỗng nhớ đến cái cảm giác hụt hẫng mà mình đã trải qua, vào một buổi chiều tháng 5 năm 1975, khi nhìn nét mặt buồn rười rượi của anh lính trẻ, thất thểu bước ra khỏi tiệm sửa đồng hồ. Lúc ấy, tôi mới chỉ mơ hồ cảm nhận được là có cái gì không ổn trong cuộc chiến khốc liệt (vừa tàn) trên đất nước mình. Sao chung cuộc, kẻ chiến thắng (nếu còn sống sót) chỉ nhận được những chiến lợi phẩm, trông rất nhỏ nhoi – chỉ là mấy cái đồng – như thế? Đã thế, dân chúng ở vùng địch tạm chiếm lại còn trao tay cho những chiến sĩ giải phóng quân toàn là… của giả!
Sau khi nghe Tố Hữu đọc thơ, và hình dung ra nụ cười “tủm tỉm” của cô hàng (cùng nét mặt láu cá của tác giả) tôi chợt nghĩ thêm rằng: chả riêng gì cuộc chiến giải phóng miền Nam, tất cả những gì thuộc về (cái gọi là) “cách mạng” ở Việt Nam – vào thế kỷ qua – đều có cái gì đó rất là không ổn, hay nói rõ hơn là… không thật!
Và sự thật (nghĩa là sự giả trá) được phơi bầy rõ ràng, qua một vụ kiện, đang xẩy ra ở xứ sở này như sau:
Ngày 14 tháng 6 năm 2008, ba công dân Việt Nam – Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Cao Quận – làm đơn gửi Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, xin phép được biểu tình. Lý do: “cho những người buôn bán nhỏ, làm xe ôm, phu hồ, phu khuân vác, thợ cắt tóc, trẻ đánh giầy, người bán hàng rong… những kẻ chỉ được thụ hưởng rất ít các kết quả tăng trưởng trong khi chính họ gần như phải lãnh trọn những hậu quả do lạm phát đang diễn ra… có địa điểm để tập trung bày tỏ ý kiến.”
Sau khi đơn từ gửi đi thì tư thất của những người đứng đơn (bỗng) biến thành… lao thất. Họ bị cấm ra khỏi nhà, bị sách nhiễu, đe doạ… Riêng cô Phạm Thanh Nghiên – theo tường thuật của RFA, nghe được vào hôm 6 tháng 7 năm 2008 – còn bị “đánh đập tàn tệ giữa đường phố.”
Đến ngày 26 tháng 6, được Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội ra thông báo cho biết không được phép tổ chức biểu tình. Lý do: “vi phạm Khoản 2, Khoản 6 Điều 5 Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ nhằm qui định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.”
Sau đó, cô Phạm Thanh Nghiên và ông Nguyễn Xuân Nghĩa làm đơn khiếu nại về thông báo “bác đơn xin biểu tình” của họ. Đơn này không được trả lời cho đến khi cô Phạm Thanh Nghiên (nhờ luật sư Lê Trần Luật) nộp đơn khởi kiện các cấp hành chính đã bác đơn xin biểu tình, và gửi lên toà án hành chính cùng cấp.
Kết quả, được ông Nguyễn Xuân Nghĩa tường thuật như sau:
“Đơn khởi kiện của cô Phạm Thanh Nghiên bị toà trả lại với lý do:
Chiếu theo điều a, b, c… trong A, B, C…, toà không có chức năng thụ
lý…”“Trả lời giới truyền thông độc lập, luật sư Lê Trần Luật nói: ‘Toà
án lập ra là để giải quyết các xung đột xã hội. Không có toà án, công
dân, nhà nước giải quyết xung đột bằng luật rừng.’ Và ông hình tượng
hoá: “Ta coi vụ kiện này như một trận banh, đội banh A gồm cô Nghiên,
ông Nghĩa…; đội banh B là đơn vị hành chính đã bác đơn. Trọng tài ở đây
chính là toà án phải có trên sân cỏ và thực thi nghĩa vụ là xử lý các
hành vi không đúng luật của cả hai bên. Vậy mà trận banh này không có
trọng tài, trọng tài không làm nhiệm vụ; dẫn đến cuộc chơi này không
theo luật. Như các cầu thủ, một bên là cô Nghiên, ông Nghĩa; bên kia là
Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội rồi sẽ ‘cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau,
nhổ nước bọt vào mặt nhau’ và ai dùng luật rừng sẽ thắng.”
“Son phấn ơi, hãy tự bỏ nhiệm sở giả dối của mi đi! “
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa không phải là người đầu tiên đề cập đến tính chất “phấn son” của hiến pháp (làm) ở Việt Nam. Trước đây khá lâu, một công dân khác – ông Lê Chí Quang – cũng đã có nhận định tương tự:
“Ở Việt Nam có hai bản hiến pháp. Một bản để trình ra thế giới, nhưng không được thi hành. Còn một bản thì nhà nước thực thi ngầm trong dân chúng. Trong bản hiến pháp thứ hai này, công dân chẳng có quyền tự do nào cả.”
“Son phấn ơi, hãy tự bỏ nhiệm sở giả dối của mi đi! “
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa không phải là người đầu tiên đề cập đến tính chất “phấn son” của hiến pháp (làm) ở Việt Nam. Trước đây khá lâu, một công dân khác – ông Lê Chí Quang – cũng đã có nhận định tương tự:
“Ở Việt Nam có hai bản hiến pháp. Một bản để trình ra thế giới, nhưng không được thi hành. Còn một bản thì nhà nước thực thi ngầm trong dân chúng. Trong bản hiến pháp thứ hai này, công dân chẳng có quyền tự do nào cả.”
Khẩu thuyết vô bằng. Ông Lê Chí Quang không chứng minh được cách
“thực thi ngầm của bản hiếp pháp thứ hai trong dân chúng” nên đã bị bỏ
tù, với tội danh là “bôi xấu chế độ” và “tuyên truyền xuyên tạc chính
sách nhà nước…”Cô Phạm Thanh Nghiên, xem chừng, may mắn hơn chút xíu. Cô
có bằng chứng rõ ràng, và đã trưng dẫn ra cho công luận thấy được, cách
“thực thi ngầm của bản hiến pháp thứ hai” của những người đang cầm
quyền – ở Việt Nam.
Tuy thế, không có gì bảo đảm là số phận của cô – cũng như của những
nhân vật đồng hội đồng thuyền – sẽ đỡ vất vả hơn những người đi trước.
Trước đây, khi có dịp trình bầy với Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang
về bọn làm bạc giả, kẻ viết những dòng chữ này đã (mạo muội) thưa với
bậc trưởng thượng rằng: “Sống trong một đất nước mà những kẻ tổ chức làm
bạc giả đang ở địa vị cầm quyền, khi khám phá ra những đồng tiền giả –
lẽ ra – ông không nên tri hô (ầm ĩ) lên như vậy. Có ai lại thiếu “tế
nhị” đến thế, hả giời?”
Lời “khuyên nhủ” chí tình này (tưởng) vẫn còn nguyên giá trị cho đến
hôm nay nên cũng xin (định) gửi đến cô Phạm Thanh Nghiên. Nhưng tưởng
vậy chớ không phải vậy. Tuởng thế là tưởng năng thối. Cô Phạm Thanh
Nghiên, rõ ràng, cũng không phải là một người… tế nhị!
Trong một cuộc phỏng vấn, dành cho ban biên tập Đàn Chim Việt, đọc được vào ngày 4 tháng 9 năm 2008, đương sự đã lớn tiếng… thoá mạ:
“Toà án là nơi giải quyết các tranh chấp pháp lý mà lại trả lời công dân rằng ‘không thuộc thẩm quyền của toà, vậy ai có thẩm quyền đây? Mục đích chính của chúng tôi là qua một vụ kiện đòi dân quyền cụ thể (quyền biểu tình) trong Hiến pháp, chúng tôi lột được mặt nạ dân chủ của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam…”
“Toà án là nơi giải quyết các tranh chấp pháp lý mà lại trả lời công dân rằng ‘không thuộc thẩm quyền của toà, vậy ai có thẩm quyền đây? Mục đích chính của chúng tôi là qua một vụ kiện đòi dân quyền cụ thể (quyền biểu tình) trong Hiến pháp, chúng tôi lột được mặt nạ dân chủ của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam…”
“Qua việc làm này, chúng tôi cũng muốn thể hiện quyết tâm, ý chí phản
kháng mạnh mẽ của những công dân yêu tự do, dân chủ rằng Đảng Cộng sản
đã đến lúc không phải thích làm gì thì làm, thích áp đặt điều gì cũng
được.”
Ý trời đất quỉ thần ơi, con cái nhà ai mà ăn nói nghe (dữ dằn) thấy
ghê dữ vậy nè? Người ta mới tri hô lên là phát hiện được tiền giả mà đã
bị vào tù, bóc lịch thấy mẹ luôn. Còn đòi “lột mặt nạ” bọn làm bạc giả
nữa thì kể như là… hết thuốc. Cuộc đời của Phạm Thanh Nghiên, rồi ra, sợ
sẽ còn nhiều chuyện lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và (chắc) lôi thôi lớn.
Không tin cứ thử nhìn qua bên Tầu là có thể dự đoán được sự việc ở…
ta! Xưa nay, mọi quan chức Hà Nội vẫn thường xuyên theo dõi tin tức khí
tượng ở Bắc Kinh để chuẩn bị ô dù. Truyền thống này vẫn còn tiếp tục kéo
dài cho mãi đến bây giờ.
Thế bây giờ thì “thời tiết chính trị” ở Bắc Kinh ra sao? Nhật báo Viễn Đông, số ra ngày 20 tháng 8 năm 2008, có một mẩu tin ngắn thế này:
“BẮC KINH: Hôm thứ Tư, một thân nhân cho hãng tin AP biết, hai phụ nữ
cao niên Trung Quốc làm đơn xin phép biểu tình trong thời gian Thế vận
hội để kêu oan việc nhà cửa bị chiếm mất, đã bị kết án tù một năm trong
trại lao động khổ sai…”
“Theo lời ông Lý Tuyết Huy (Li Xuehui), con trai một cụ bà kể trên,…
công an không đưa ra một giải thích nào cho biết tại sao ra lệnh cầm tù
bà mẹ 79 tuổi của ông là cụ Ngô Điện Nguyên, và bà cụ bà hàng xóm Vương
Tú Anh, 77 tuổi. Qua cuộc phỏng vấn điện thoại, ông Lý cho biết về tình
hình sức khỏe bà hàng xóm: “Bà Vương Tú Anh hầu như mù loà và bại liệt.
Không biết loại lao động cải tạo nào dành cho bà đây?”
Phạm Thanh Nghiên mới bước vào tuổi đôi mươi, tuyệt đối không mù loà
cũng không bại liệt. Thời gian vào tù (e) sẽ rất… nhiều năm, chứ không
phải một.
Còn làm sao để (khi khổng khi không) đẩy một mạng vô tù thì kể như là
chuyện nhỏ, dù là Bắc Kinh hay Hà Nội. Ở cả hai nơi này, mọi công dân
(vốn) đều đã là những… tù nhân dự khuyết — kể từ lúc mới sinh!
Có thể vì bướng bỉnh, hoặc vì thiếu thông tin (như thế) nên Phạm
Thanh Nghiên đã quyết định đi đến cùng con đường mà cô đã chọn. Tôi nhìn
theo bóng dáng mỏng manh của cô em mà không khỏi sinh lòng ái ngại. Làm
sao Phạm Thanh Nghiên có thể tiếp tục đi được xa, mà không ngã, khi bên
cạnh chỉ có vài người bạn đồng hành đơn lẻ: một cụ già (đã sẵn sàng “gửi lại trước khi về cõi”),
một ông nhà văn (trói gà không chặt), và một ông luật sư xông xáo giữa
rừng luật (luật rừng) mà trang bị duy nhất chỉ là lòng quả cảm!
Giữa những nhân vật này là ba thế hệ người Việt liên tiếp đang sống
trong một chế độ, với một thứ hiến pháp (hoàn toàn) giả trá. Tình trạng
này khó mà chấm dứt ở một đất nước, có đến chín chục triệu con dân (nếu
tính luôn cả cái đám đang sống đời tha phương cầu thực) mà chỉ có mấy
người dám từ chối, không chịu sài đồ rởm.
No comments:
Post a Comment