4. Bi hài kịch của một cuộc trả giá
Nếu cái bi kịch đói chỉ có một kịch sĩ duy nhất và chỉ là màn độc
thoại đang ngang qua những câm nín đầy bi thương, thì những cuộc mặc cả
mà tôi kèn cựa để bán những tài sản riêng có thể bán được đã xảy ra như
một màn bi hài kịch mà nụ cười cứ xen lẫn cùng nước mắt. Người bán, kẻ
đang cố nuốt giòng nước mắt, khóc thầm cho nỗi khổ đau và niềm tủi nhục
mà cái đói là nguyên do chính, lại phải nở nụ cười cho cái dối trá và
điệu bộ của người mua đang cố cò kè cắt xén bớt số tiền phải trả để mua
một món hàng thật sự quí và có giá trị với cái giá thấp tột cùng.
Những gì chúng tôi bán trước tiên là những bộ trang phục mà vợ chồng
tôi hay mặc lúc còn thời vàng son để dự những buổi chiêu đãi hay lễ lộc
được mời, trước khi Cách Mạng về làm đảo lộn mọi trật tự của xã hội, kéo
người dân ra khỏi những truyền thống và thói quen đã có từ hàng ngàn
năm mà cái thần thánh của các lãnh đạo và cái phong cách sống trong sáng
của họ phải là mẫu mực mới cho xã hội! Tất cả nữ trang bằng vàng chúng
tôi đã bán hết trong thời Kháng Chiến để giúp gia đình cầm cự qua ngày
và trụ lại trong hàng ngũ kháng chiến. Nhưng sau khi về lại Hà Nội, cha
mẹ tôi và bạn bè đã cho chúng tôi vô số quần áo đắt tiền: áo lụa, sa
tanh, gấm thêu, vải nhung từ Trung Quốc, những bộ quần áo mà vợ tôi từ
nay không còn dịp để mặc. Về phần tôi, tôi đã mang về, sau những chuyến
công tác ở Bắc Kinh, Vienna, Lục Xâm Bảo những bộ âu phục may đo bởi
những người thợ may bậc thầy chuyên cung cấp quần áo cho nhân viên các
sứ quán.
Nay thì nhiều tập quán thói quen đã thay đổi. Tất cả phụ nữ phải phô
trương diễn hành với những bộ đồng phục mà các cán bộ nữ quyết định:
quần đen, áo trắng. Tất cả các ông đều mặc đồng phục kiểu Stalin hay
Mao, sau đó là kiểu dáng do quí ông lãnh đạo cộng sản và các cán bộ
quyết định: áo cổ đứng, quần rộng. Áo dài, quần trắng của phụ nữ, áo sơ
mi và cà vạt của đàn ông thì bị cái khắc khổ của những người cộng sản
kết án là những tàn tích của tư sản. Người ta có thể cười hay khóc vì
đó. Người ta có thể cười khi thấy cả dân chúng trong những bộ đồng phục
rõ ràng là đơn giản và rẻ tiền, nhưng vô danh, giết đi tính cá biệt của
con người, giết đi nhân cách riêng của họ, và giết đi những tính cách
riêng của mỗi người là những cái cho phép người ta có thể hiểu, gây thân
thiện và ngay cả để giao tiếp, chia sẽ thông cảm với họ. Một người nước
ngoài, hay ngay cả người bản xứ cũng không thể dễ dàng phân biệt thiên
hạ, giữa người này người kia. Có người cười cho rằng đó là điều giả dối,
nhưng người ta vẫn thấy đó là điều vĩ đại. Cả dân tộc đã trở thành nô
lệ cho ý muốn của lãnh đạo, nô lệ tới mức vâng lời cả những ý tưởng bất
chợt và kỳ quặc của họ, trở thành một khối đồng nhất với một kích cỡ quá
lớn. Đó là một điều vĩ đại không thể chối bỏ nhưng nó cũng là một nguy
hiểm cho an ninh của các dân tộc và cho hoà bình thế giới. Một Hitler ở
Đức, một Moussolini ở Ý, chỉ có quân đội và thanh niên là mang đồng
phục, thế mà cái tội ác của chủ nghĩa phát xit đến nay vẫn còn làm nhân
loại kinh hoàng, lợm giọng. Làm sao có thể lường trước được những tai
hoạ kinh hoàng gây bởi cả một dân tộc đang dậm những bước chân lính trận
dưới lệnh của những ông chủ mà quyền hành là quá lớn, không giới hạn,
không kềm chế, nảy sinh những ý tưởng hoang đường điên rồ có thể gây ra
những thảm hoạ ở tầm thế giới.
Người ta cười, khóc. Nhưng, tệ hơn nữa, người ta đang cảm thấy thật
đáng tiếc cho một dân tộc đang bị kết án phải mang một thân phận tôi tớ
về tư tưởng, một sự tự sát về tâm hồn và con tim.
Vì thế, tôi hiểu rằng không thể có gì nhiều trong việc đi bán những
quần áo đắt tiền ở một thủ đô mà chuyện ăn mặc khắc khổ đã được cộng sản
quản lý chặt chẽ. Không có một cửa hàng bán đồ cũ nào ở Hà Nội. Đồng
phục nam, nữ đều dùng những loại vải rẻ tiền, làm trong nước, không được
bền, khi người ta muốn bỏ thì chỉ có việc vứt vào thùng rác như những
miếng giẻ rách.
Tôi đến những tổ hợp may mặc. Họ lịch sự từ chối: “Chúng tôi biết
những quần áo của ông thuộc loại đắt tiền. Nhưng chúng tôi biết bán cho
ai bây giờ trong khi không còn ai mặc những thứ ấy? Chúng tôi đành phải
làm mỗi một việc là cắt nhỏ nó ra để may quần áo cho trẻ con. Nhưng đấy
cũng lại là một điều đáng tiếc nữa. Những cán bộ bình thường thì đâu có
tiền, mà dẫu có tiền họ cũng không dám mua cho con vì sợ bị các đồng chí
khác phê bình, khám phá ra những kẻ này còn mang những mầm mống của chủ
nghĩa tư bản! Con cái những ông lớn thì ăn mặc như những hoàng tử, công
chúa với những bộ quần áo do những cán bộ trong ngành ngoại giao hay
ngoại thương mang về biếu sau những chuyến đi công tác ra nước ngoài để
cầu mong những đặc ân và che chở.
Nhiều ngày tôi đã đi quanh những con đường, lê theo mình gói quần áo,
từ phố Huế qua phố Hàng Lụa, từ phố Hàng Đường quanh qua phố Hàng Gai.
Không ai muốn những đồ cũ của tôi. Cuối cùng khi tôi qua phố Hàng Buồm,
một người đàn bà tốt bụng khi nhìn thấy dáng bộ thiểu não của tôi bèn
hỏi thăm cớ sự. Chính bà ấy đã cứu tôi khi cho tôi địa chỉ một nhóm kịch
may ra họ có thể mua đồ của tôi để các nam nữ diễn viên có trang phục
mà diễn trên sân khấu. Tôi nghe theo lời khuyên và xoay sở lần chót để
thanh toán gói đồ.
Chuyện xảy ra làm cho tôi mang nhiều suy nghĩ. Không biết là có phải
áo cà sa làm nên ông sư không, nhưng những bộ quần áo tôi mặc trong thời
mà tôi còn chút tự do thật sự là một phần trong cách ăn ở của tôi,
không thể lộn ngược bề để may thành bộ áo riêng cho những người hầu
trong nhà. Và khi tôi không có phương tiện và khả năng để đóng một vai
diễn phụ hay một tài tử chính, chẳng thà để những bộ quần áo này cho
những diễn viên nhà nghề mà cuộc sống là hai mặt: một ở ban ngày ngoài
xã hội và một về đêm trên sân khấu, giữa cái thực và cái tưởng tượng.
Chính đó là cái logic của sự đời.
Tôi cũng được biết qua người phụ trách trang phục cho Nhà Hát, cũng
là người đã mua quần áo của tôi, kể cho tôi nghe rằng hiện tại một cô
gái có địa vị đang chuẩn bị lễ cưới và muốn kiếm một bộ đồ đẹp nhưng
không thể thực hiện vì thiếu tiền. Cô gái ấy bèn đến Nhà Hát hỏi thuê
một bộ đồ để có dáng một nàng công chúa huyền thoại hay con của một đại
đế nào đó. Người con gái nào cũng chỉ một lần trong đời làm đám cưới. Cô
ấy có thể được tha thứ vì đã làm một chuyện giả dối ngây thơ, cũng chỉ
để tránh né trong một vài giờ cái thực tế hiện ra như một bài văn nhạt
phèo và chán ngắt, để trốn chạy vào những vần thơ mơ mộng, để xoá tan đi
cái ham muốn không được thoả mãn và cho phép con người tự lừa dối lấy
mình. Tất cả xã hội trên thế giới đều có đầy nhan nhản những bà Emma
Bovary [1] với con tim chứa đầy những cơn thèm khát không được thoả mãn,
họ mỏi mòn chống chọi những khổ đau mà chờ đợi ảo ảnh của một “nơi nào
đó” có niềm vui và tự do lấp lánh. Ở Việt Nam, mỗi người đều phải sống
hai mặt trong kiếp sống người máy. Bề ngoài, họ chơi trò xưng tụng giáo
điều để tránh không bị tập thể trừng phạt, khẳng định cái tính láu cá
ranh mãnh của một kịch sĩ. Bên trong họ cố dồn ép những đòi hỏi của hy
vọng vào bóng tối và im lặng, đẩy những thèm khát không được thoả mãn,
những khát vọng cháy bỏng vào những vùng đất trời huyền bí mà không một
thần linh chính trị nào có thể khám phá được.
Trong một đất nước bị sống trong khắc khổ và nghèo nàn, tất cả những
ham muốn dù chính đáng dường như đều bị đông lạnh, cho nên số quần áo
cũ, dù rất đắt tiền, được mang ra bán đổ bán tháo với giá rẻ mạt cũng
không nuôi gia đình tôi được lâu. Ăn uống tiết kiệm đến mức cao nhất
giúp chúng tôi khỏi chết đói nhưng với điều kiện là chúng tôi phải chịu
đựng cảnh mắt mờ, chân bước muốn không nổi và những cơn co giật đau quặn
của cái bao tử phải bóp cái trống không. Những bữa ăn mà rau muống là
món chính đã làm da chúng tôi trở nên thâm tái. Bà con tưởng chúng tôi
mắc bệnh sốt rét. Chẳng thà để họ nghĩ như thế để tránh cái xấu hổ vì bị
đói.
Sau quần áo cũ, đến phiên chăn màn, chén kiểu và những dao nĩa bằng
bạc. Tôi gói dễ dàng 24 cái khăn ăn cùng với hai khăn trải bàn màu mè
thêu rồng, lân. Hai gói mỗi gói gồm 12 bộ đồ dùng theo cách ăn Á Đông có
tô chén, đũa ngà và bộ kia cho bữa ăn kiểu Tây gồm dao, nĩa và muỗng
bằng bạc chạm trổ, mâm và ly pha lê hiệu Bohemia, chúng tôi để kín cả
mặt bàn. Những tia nắng còn sót lại của buổi chiều quét lên một góc của
những món đồ sứ và bạc làm chúng trở nên rực rỡ lộng lẫy. Bộ chén đĩa,
những đồ dùng bằng bạc toả nét lung linh trắng như tuyết bên cạnh những
chiếc ly thuỷ tinh lấp lánh như những đốm lửa. Chúng tôi bị choá mắt
trong một lúc. Dường như đối với tôi, giữa cuộc hành trình trong sa mạc,
một cảnh tượng đẹp đẽ như thế đã gợi lại trong tôi kỷ niệm những ngày
huy hoàng trong quá khứ. Tôi chao đảo những bước đi đầy buồn tủi và cay
đắng, chẳng còn mấy chốc tôi sẽ ngã quỵ xuống đất dưới cú sốc của cái
khổ sai hiện tại so với cái huy hoàng của năm xưa. Một trang sử đời tôi
đã sang trang, tôi buông mình bật khóc cho nửa đời người còn lại, con
người của tôi năm xưa và con người của tôi hôm nay đã thật sự chết rồi.
Tôi hiểu rằng tôi không nên gõ cửa nhà các ông lớn: họ thường tổ chức
yến tiệc trong nhà để chiêu đãi những nhân vật chính trị, kinh tế, văn
hoá đến viếng thăm Hà Nội từ các nước cộng sản. Hơn nữa, mặc dù trong
túi lúc nào cũng đầy ngập vàng, nhưng các ông lớn không để mình sơ suất
làm lộ ra cái giàu sang vì nó sẽ là sẽ là đề tài cho những tin đồn làm
cho họ bị mất uy tín dưới mắt của Đảng. Tôi không thể mang những đồ sành
sứ, chỉ cuốn bộ khăn ăn và khăn trải bàn vào một gói và để nó vào cái
giỏ sau cái xe đạp. Tôi biết mình phải đi đâu. Tôi bước vào sảnh của một
khách sạn lớn nhất Hà Nội dành riêng cho những khách viếng người nước
ngoài giàu sang qua đấy. Tôi mở gói đồ và giới thiệu nó cho người trách
nhiệm của khách sạn và mời ông ta đến nhà để xem những đồ sứ và bạc. Hắn
kênh kiệu và làm duyên như một con mụ lố bịch trước một kẻ bảnh bao như
muốn cầu cạnh một ân huệ nào đó. Hắn thú nhận: “Đây là những món hàng
rất đẹp. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng ông muốn tôi làm gì với
chúng? Khách đến từ các nước anh em cũng nghèo kiết xác. Họ chưa bao giờ
gọi gì thêm, luôn luôn bám vào tờ thực đơn thường ngày, không bao giờ
uống rượu mạnh và khi phải cho tiền phục vụ thì họ tỏ ra rất dè xẻn.
Thật ra, nói họ là dân keo kiệt thì cũng không công bằng lắm, vì tôi
nghe nói ở các nước anh em, cũng như Việt Nam mình, lương bổng công nhân
viên bị tiết giảm đến mức tối thiểu, hay có khi còn ít hơn thế! Tôi
thấy ông đã lớn tuổi chắc ông đã qua một thời kỳ khá dễ thở.”
Người đối thoại với tôi, sau khi đảo mắt nhìn quanh để biết chắc là
không có ai đang nghe lén, rồi trả lời cho tôi: “Mấy cán bộ công sản dạy
chúng tôi rằng dân chúng trước đây phải lê cuộc sống đầy đau khổ vì
phải chịu áp bức bởi phong kiến và thực dân. Tôi không biết ở những nơi
khác thì như thế nào, chứ ở nơi tôi ở, thiên hạ không hề vui sướng hạnh
phúc như họ nói. Dĩ nhiên là thời ấy vẫn có người giàu kẻ nghèo nhưng ai
nấy đều có cái mà ăn và nếu quần áo có phải vá, họ cũng có áo quần để
mặc! thực dân Pháp cũng không ra mặt một cách dễ dàng trông thấy. Họ nằm
ở đâu trên giai cấp cao, và nếu có đàn áp và bóc lột, thì họ làm qua
một giai cấp trung gian nào đó”.
- Thông qua trung gian một cái gọi là nền hành chánh bản xứ mà đứng đầu là tầng lớp quan lại.
- Nhưng, thực tế phải công tâm mà nói, những ông quan lại nói trên là
những người tốt nghiệp từ Trường Luật Hà Nội, họ biết rõ những chuyện
gì sẽ xảy ra cho mình nếu bị lọt vào tay những anh cộng sản đỏ. Dĩ
nhiên, họ ngồi trên những chiếc ô tô và sống cuộc đời xa hoa giàu có.
Nhưng họ tham nhũng một cách vừa phải, và nếu tôi có thể nói thêm là họ
còn có nhân đạo. Luật Hình Sự mà họ biết rõ là một hàng rào an toàn buộc
họ giữ mình không đi ra ngoài chấn song của pháp luật. Bên cạnh đó, tờ
báo châm biếm Phong Hoá, những bài viết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn bằng
cách liên tục chế nhạo các quan lại đã dựng nên một rào cản xã hội ngăn
chận những bóc lột vô chừng mực của họ. Kết quả là ngay ở những làng
quê, nhà riêng dù bằng tranh vẫn còn tồn tại, và nông dân vẫn chưa bao
giờ biểu tình phản đối hay yêu sách. Ít ra là theo như tôi biết.
- Nhưng ở phố thì tình hình ra sao?
- Dân thành phố thì sống tốt hơn nhờ những việc trong chính quyền,
trong những xí nghiệp thương mại hay công nghiệp lớn, hay trong những
ngành buôn bán nhỏ. Đường xá sạch sẽ, lòng đường cũng như lề đường. Tất
cả những vi phạm về vệ sinh công cộng đều bị phạt tiền. Không còn trộm
cướp, ngoại trừ một vài bọn móc túi hoạt động ở các chợ, nhưng ở phố yên
tĩnh và an ninh là rất tốt. Tôi không phải là một giáo sư để phân tích
nghị luận, tôi chỉ nói theo những gì tôi thấy mà tôi cũng không tìm hiểu
nguyên do hay đưa ra những lời bình luận. Vì còn nợ mái tóc bạc của
mình nên tôi phải tôn trọng sự thật, giữ danh dự và nhân cách của tôi.
- Ông có nghĩ đến việc rút lui về nghỉ ngơi cho khoẻ không?
- Tôi đã nghĩ đến chuyện đó và đã nạp đơn xin về nhưng lãnh đạo buộc
tôi phải ở lại để huấn luyện cho bọn trẻ mới vào làm. Tôi làm bếp trưởng
đã hai chục năm nay. Vào những ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, thiên hạ nhảy
đầm, còn tôi thì phải phục vụ rượu săm banh cho họ. Trong những bữa ăn
lớn, mấy món nhậu kiểu Na Uy và món thịt dăm bông trộn vỏ bánh mì là món
rất được ưa chuộng của một số khách không keo kiệt tí nào về phần tiền
phục vụ. Tôi như con cá vẫy vùng trong nước.
- Và bây giờ thì sao?
- Thời thế đã thay đổi. Tất cả tiếp viên là những công an hay là
những người quen của họ. Họ theo dõi khách hàng, lục lọi hành lý, nghe
ngóng xem họ nói gì để đi báo cáo cho những “nơi trách nhiệm”. Tôi cũng
nằm trong hệ thống giám sát của họ. Thật chán hết sức. Cạnh đó, nếu họ
chỉ làm công việc của họ thì tôi cũng nhắm mắt để cho họ làm những
chuyện bên lề đó. Nhưng ở đây họ lại phá hoại bao nhiêu là thứ: nhà cầu,
vòi nước, máy hút bụi, máy giặc, chén đĩa sành sứ. Nhưng khốn nạn thay,
chuyện như thế đó, tôi chẳng làm gì được.
- Vui chuyện với ông làm tôi quên mất mục đích tôi đến đây: liệu ông có thể mua cho tôi mấy bộ bát đĩa và khăn ăn này không?
- Chắc chắn chúng tôi sẽ cần chúng cho những buổi tiệc lớn và những
buổi hội hè. Tôi chỉ là kẻ vô tích sự thôi. Có lẽ ông nên nói chuyện với
ông uỷ viên chính trị. Chính ông ta là người quyết định mọi chuyện.
Người đàn ông già đời trong nghề đã hết sức trong công việc để làm
người có ích, nhưng lại không có chút tiếng nói nào trên các vấn đề. Đó
là cách mà mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới cộng sản.
Cái Tết đầu tiên xảy ra trong phiền não và nước mắt. Chúng tôi phải
nhịn bốn bữa ăn để có thể dành ra tiền để trang hoàng bàn thờ của tổ
tiên với một nải chuối xanh, bó nhang, vài nắm hoa và một cái bánh
chưng. Chúng tôi thật hạnh phúc dù đang trong cảnh thiếu thốn vẫn có
những món truyền thống trên bàn thờ của gia đình dù không phải là những
món có giá trị cao như chúng tôi muốn, nhưng cũng xem là khá đầy đủ.
Trong khi chờ nén nhang cháy hết, nỗi thống khổ làm chúng tôi thật đau
lòng, cố nén dòng nước mắt chực trào dâng trên khoé mắt. Ngày mai rồi
ngày kia, chúng tôi sẽ làm sao đây khi chúng tôi không còn gì để bán? Dĩ
nhiên là chúng tôi có thể kéo rê thêm nhiều ngày nhiều tháng, nhưng
chừng nào chúng tôi mới ra khỏi con đường hầm? Câu hỏi cứ theo chúng tôi
ngày đêm làm chúng tôi mất ngủ.
Bây giờ là đến lúc những cuốn sách và những băng nhạc bước vào đường
của bóng tối và cõi chết. Tôi làm một danh sách khoảng ngàn cuốn sách và
cả trăm cuốn băng mà tôi mua sắm qua bao nhiêu năm, và lấy đó làm niềm
vui thú. Tôi ngây thơ tin rằng cái gia tài văn hoá quí giá và duy nhất ở
Việt Nam kia sẽ được chào đón nồng nhiệt và giúp tôi có chút gì để ăn
trong nhiều năm sắp đến. Nhưng than ôi, không phải thế.
Tôi tìm đến Cục Lưu Trữ và Thư Viện Trung Ương và đề nghị với họ một
bản sao của tất cả các tác phẩm của tôi, bắt đầu là những luận án Tiến
Sĩ của tôi và toàn bộ những tác phẩm mà tôi đã phát hành tiếp theo sau
đó.
Tôi chờ đợi được người ta long trọng đón tiếp. Người giám đốc Thư
Viện Trung Ương xưa kia là một công chức ngành quản thủ thư viện của
thực dân và đã học được nghề qua công việc, như người ta thường nói. Ông
ta không phải qua trường Pháp-Điển Văn Khố chuyên về quản thủ Văn Khố
(Ecole des Charles). Người tốt nghiệp xuất thân từ trường Văn Khố là ông
Ngô Đinh Nhu, nhưng vì công việc ở đó không thích hợp với mình, ông Nhu
quay ra làm chính trị nhưng lại trúng loại chính trị tệ hại nhất vì bị
cả nhân dân và cộng sản kết án. Với bản án kép xếp như một án tử hình.
Sớm hay muộn, ông ta cũng sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của số mệnh.
Như thế, ông giám đốc Thư Viện Trung Ương của tôi ngày xưa đã làm một
chọn lựa đúng. Ông ta được gia nhập Đảng và khi trở về Hà Nội, bỗng
nhiên được đề bạt lên chức Giám Đốc của cái Sở mà xưa kia ông ta là một
nhân viên. Cái chi tiết nhỏ này giúp chúng ta hiểu cái giọng lưỡi của
ông ta khi ông ta chính thức từ chối mua bộ sách riêng của tôi:
- Đồng chí, tôi vẫn tiếp tục gọi ông với hai tiếng “đồng chí” vì
chúng tôi, những người cộng sản, vẫn hy vọng là ông sẽ ra khỏi những sai
lầm bắt nguồn từ nền văn hoá Tây Phương mà ông hãnh diện đang khoe
khoang, nhưng chúng tôi thì ghê tởm. Ông không tự cho mình là kẻ chống
cộng, ông huênh hoang cho mình là người thực tiễn bởi vì ông dựa trên
thực tế để đúc kết thành những phê phán, và ông tự cho mình là công lý
khi vạch trần những thành công bên cạnh những thất bại. Ông cho rằng khi
ông tuân thủ cái logic mà chúng tôi coi như đã lỗi thời, tệ hại, là ông
vẫn còn trung thành vào cái thiên hướng của người trí thức là không
muốn phản bội. Một nước tư bản như Pháp, kiêu hãnh với chủ nghĩa tự do
của họ, chấp nhận thái độ đó. Nhưng về phía chúng tôi, chúng tôi kết án
nó. Chúng tôi kết án thái độ đó, nhân danh chủ nghĩa cộng sản mà chúng
tôi tin đó là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật, và kẻ đã dạy cho chúng tôi
rẳng người dân khôn ngoan là phải biết tôn trọng và tuân hành nhà chức
trách. Nhà chức trách thấy xa và thấy rõ hơn chúng ta. Họ là hiện thân
của sự tốt đẹp, và nếu các ông không đứng về phía họ thì phải biết rằng
cái xấu đang chờ đợi các ông với những thói hư và kinh hoàng của nó.
Giữa chúng ta, cho tôi hỏi ông: có phải Đảng đã dành cho ông biết bao
nhiêu là ưu đãi hay không? Mười uỷ ban chấp hành trong các tổ chức quần
chúng, còn có trí thức nào đạt kỷ lục như thế? Và người ta đã đòi hỏi
ông những gì? Chỉ cần ông nhắm mắt làm ngơ trên một số sai lầm mà tất cả
ai trong chúng ta cũng đều biết. Chúng tôi muốn che khuất nó đi, chỉ
làm toả hương những chiến thắng mà những tràn vỗ tay phải kích động và
cao hơn lúc thất bại rất nhiều. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông hoàn toàn im
lặng trước về phần hư hại của thực tiễn, không cần ông phải dối trá với
lương tâm của mình bằng cách phát minh ra những thắng lợi tưởng tượng.
Một thái độ sống như thế sẽ rất có lợi cho Đảng và cho chính cả ông. Tại
sao ông không làm như một số trí thức khác? Họ chỉ thề trung thành với
Đảng là đã nhận được bao nhiêu là lợi lộc cho bản thân họ và cho gia
đình? Ngược lại, cứ khư khư bám vào cái văn hoá Tây kia, cứ giữ cái nhận
thức khách quan và tự tin kia về công lý, về thực tiễn, ông đã phạm tội
phá hoại mà ngày nay ông phải gánh chịu những hậu quả tai hại.
- Đồng chí, tôi rất cám ơn ông đã giúp những ý kiến tốt. Nếu ông là
một mỹ nhân ngư, tôi đã phải nhờ các thuỷ thủ cột tôi vào cột buồm như
Uylisses, người đang mê mẩn tiếng hát của người cá nhưng vẫn cố thoát ra
khỏi hai cánh tay đẹp đẽ của nàng. Ông làm cho tôi nghĩ đến chuyện con
rắn trên vườn Địa Đàng đã rót những tiếng nói độc hại vào tai Eva để làm
cho nàng vào bẫy. May mắn thay, tôi không phải là đàn bà, và ngày nào
đó bên cạnh trái táo sẽ còn có nhiều thứ trái cây ngon lành khác để cho
người ta chọn. Dầu thế nào, tôi cũng phải công nhận là cái tinh quái xảo
trá mà ông đang thừa hưởng nó thật là hùng hồn thuyết phục. Cho phép
tôi được trả lời cho lý lẽ của ông. Cái văn hoá Pháp mà ông đang kết án,
nó đã thấm nhập và đang chảy trong dòng máu con người tôi. Nó đã tạo ra
con người tôi như bây giờ, luôn luôn đi tìm công lý, quan tâm một cách
đam mê đến khách quan và thực tế nhưng rất tin vào con người, yêu mến
con người và chấp nhận tranh đấu cho con người tránh khỏi sự tàn ác và
tuỳ tiện của những kẻ độc tài độc đoán. Ông khuyên tôi phải tuân phục
nhà cầm quyền, được thôi, nhất là khi tôi chỉ muốn không gì khác hơn là
trật tự và yên bình. Nhưng chuyện tuân phục nhà chức trách và tuân phục
uy quyền cũng không có nghĩa là không được mở mắt nhìn những sai quấy và
lỗi lầm của họ. Nếu tôi giữ yên lặng thì dĩ nhiên chuyện đó sẽ được dàn
xếp giữa chính quyền và nhân dân, nhưng nó sẽ tự làm cho mình mất uy
tín và lòng tin của quần chúng. Vì vậy, đây là vấn đề là phải biết thái
độ nào là thích hợp nhất trong những trường hợp như thế: hoặc không nói
gì hết để ngồi hưởng những ban phát của nhà cầm quyền, đứng ra đồng ý
với họ và như thế sẽ tránh bị họ đánh, hoặc đứng ra làm một hành động
đúng đắn để tôn trọng ý muốn của nhân dân, mở mắt cho những ai đang cầm
quyền và chấm dứt những nỗi bất hạnh đang làm hao mòn niềm tin của họ
đối với lãnh đạo. Như thế với một hòn đá ta ném trúng hai con chim: làm
cho nhân dân và nhà nước hoà thuận với nhau, cả hai cùng nhịp bước hưóng
về một tương lai huy hoàng và hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Tôi tuân
phục nhà cầm quyền nhưng tôi mở to hai mắt, minh mẫn đầu óc và sẵn sàng
cây bút. Tôi nghĩ đây là thái độ đúng đắn nhất của một người trí thức
có lòng tự trọng, có tình yêu dân tộc, biết lo lắng cho hạnh phúc của
nhân dân trong khi vẫn mong muốn không chuyện gì hại cho Đảng. Nếu ông
nghĩ rằng những điều tôi nói là đúng thì đó cũng là nhờ tôi hưởng một
nền văn hoá của Pháp và vùng Địa Trung Hải.
- Tôi đành phải nói với mình rằng quan điểm của ông và của tôi là
không thể đi chung với nhau. Tôi rất tiếc, tôi không thể mua những bộ
sách của ông, dù tôi biết đó là những cuốn sách rất có giá trị. Hiện
nay, tôi không có ngân khoản đề mua những thứ đó. Hơn nữa tôi cũng không
thấy điều gì ích lợi từ những cuốn sách về những nền văn hoá đã có từ
ngàn năm hay từ nhiều thế kỷ nay mà tư tưởng đã có từ những thời kỳ nô
lệ, phong kiến của phương Tây và của chủ nghĩa Tư bản, chúng không thể
được dùng để đào tạo những người cộng sản Việt Nam.
Trên đường về, tôi như bị hụt hẫng vì cái khía cạnh đần độn của một
lối lý luận phát sinh từ một thứ chủ nghĩa cuồng tín chính trị, nó làm
tim tôi tan nát. Tôi tự trách mình đã quên lời dạy của Phúc Âm, đừng bao
giờ mang những viên ngọc trai mà cho heo mang, margaritas ante porcos,
mất cả buổi sáng tôi mới gượng quên đi chuyện bực mình vừa xảy ra.
Cái sự thực tàn nhẫn làm tôi khóc thét lên vì giận điên người là
không thể chờ đợi chi nhiều từ những người trí thức được nhận vào Đảng.
Mặc dù là thế, nhưng cũng có một vài trí thức, quá mệt mỏi sau bao năm
sống tự dối mình, tự nén mình vào những lúc nổi dậy của lương tâm, đã để
cái chất trí thức của mình nổ ra thành những biểu lộ diễn tả sự coi
khinh Đảng và những hà khắc của nó. Lợi dụng những chuyến công tác ra
nước ngoài họ đã dứt áo ra đi và không bao giờ quay lại. Và khi qua được
với Thế Giới Tự Do họ không còn gìn giữ hay giới hạn những lời công
kích kịch liệt. Nếu họ còn ở lại trong nước họ sẽ bị kết án tù chung
thân và chỉ được khênh ra ra khỏi nơi giam cầm trong tư thế nằm với đôi
chân ra trước. Nhưng phần lớn các trí thức lầm lẫn gia nhập vào hàng ngũ
của Đảng chỉ còn biết từ bỏ nhân cách của mình, biến thành những tên
nịnh bợ mà lòng tận tâm chỉ làm thiên hạ cười và khinh bỉ.
Bài học đau đớn mà tôi đã học từ người đối thoại trên là từ nay tôi
phải tránh nói chuyện về văn hoá với những ông bà trí thức đã thành
người cộng sản. Nhưng, tôi cũng phải làm gì để có cái ăn trong những
ngày tháng sắp đến, tôi cũng phải kiếm cho ra người mua dù phải bán với
giá rẻ cho bộ sưu tầm băng cát sét và những bộ sách của tôi. May mắn là
vẫn còn những kẻ yêu nhạc, dù là những người nằm trong Đảng, vẫn còn thú
nghe nhạc và có một đầu óc phóng khoáng, biết đánh giá cao những tác
phẩm của những nhà soạn nhạc lớn của Âu Châu. Sau một vài liên lạc, tôi
may mắn thanh toán được cái máy nghe băng và các băng nhạc cổ điển.
Nhưng khối sách về văn hoá nước ngoài thì khó tìm được người mua. Đương
nhiên, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp không còn được dùng ở Viết Nam,
không thể bán được bộ sách Bude. Mặc dù tiếng Pháp đã bị mất chỗ cho
tiếng Nga, tiếng Anh bắt đầu trở lại, vẫn có một số thầy giáo có nhu cầu
đọc tiếng Pháp nên tôi đã bán được một số ít. Cuốn Odyssé do V. Berard
dịch, bản dịch cuốn Eneide của A.Bellesort thì có được người mua, nhưng
những tác giả Pháp thời Trung Cổ, thế kỷ 16, 17, 18 và ngay một số vào
đầu thế kỷ 19 thì không ai muốn. Với những tác giả thời cận đại, tôi bán
được một số tiểu thuyết của Maurois va Mauriac, những cuốn sách khó như
của Valéry, Gide và Caudel thì chỉ gặp sự lạnh lùng của khách hàng.
Nhưng cái đói thì không thể làm lơ được, tôi phải mỗi ngày lượn quanh
các con phố để tìm gặp những tay bán sách cũ chuyên bán hay cho những
người chơi sách tài tử thuê vài cuốn sách của các tác giả lớn.
Cuối cùng tôi cũng phải hiểu ra là mình không nên đắm mình trong cái
ảo tưởng về số phận của những cuốn sách không bán được của tôi. Tôi đành
phải cân ký bán cho những người thu mua giấy vụn về bán lại cho nhà máy
làm bột giấy. Những cuốn sách được mang lên trên cái cân hiệu Roberval.
Tôi được trả tiền theo số cân đo được. Tim tôi đập loạn lên mỗi khi tôi
phải chất những cuốn sách vào cái giỏ sau của chiếc xe đạp để đem đi
bán giấy vụn. Không, nó không phải là giấy, nó là những thịt da của tôi
đang bị xé ra từng mảnh. Khi những người mua ném chúng vào góc nhà, tôi
phải quay mặt đi nơi khác cố giấu giọt nước mắt đang trào ra! Không có
người cha nào còn dám nhìn con mình đang bị ném vào lửa bởi bọn đao phủ!
Cái tra tấn đó cứ tái hiện mỗi lần đi bán sách làm giấy vụn, tôi như bị
một mũi tên bắn xuyên qua tim mình. Nhiều lần, tôi phải nhờ vợ hay con
tôi làm chuyện đó vì tránh cho tôi phải chịu nỗi đau mỗi lần. Một lần
trên đường về nhà, cái đau lòng khi phải nhìn thấy bao giá trị quí giá
tan biến trong gió thoảng, nhất là trong thùng giấy vụn, những giá trị
mà tôi đã dày công sức và thời gian để có, những giá trị đã xây nên con
người và đã đi vào máu tôi, cái đói thiếu những chất cần thiết trong cơ
thể làm chân tôi trở nên mềm như bún và run lên. Không biết vì cái đau
kia hay cái đói triền miên hay cả hai, đã làm ý chí và sức lực tôi bay
biến. Cách nhà khoảng một trăm thước, tôi đã té xe đạp và không thể đứng
dậy. Tôi phải gượng dậy ngồi bên lề đường, giương mắt nhìn sự vật quay
tròn, tôi rán lấy lại hơi thở, sau khoảng hơn mười phút mới đứng dậy nổi
và cố dắt chiếc xe về nhà.
Trong lúc tôi phải lượn quanh để bán những cuốn sách thì vợ tôi cũng
muốn giúp tôi bằng cách mang những đồ lót và các phụ tùng trang điểm,
những chai nước hoa hiệu Chanel, Patou còn được giữ nguyên trong hộp và
còn gói trong giấy hoa màu vàng kim tuyến thắt nơ nhung rao bán cho các
bà trong giới chức quyền. Không may cho vợ tôi, bà gặp toàn là những bà
vừa mới từ quê ra tỉnh, nhiều bà còn bộ răng nhuộm đen thời xưa. Mấy bà
tròn xoe mắt, lần đầu thấy những món hàng mà họ chưa bao giờ thấy hoặc
nghe nói đến trước đây. Mấy quan, mấy xếp cưới mấy bà trong thời bí mật
kháng chiến vì hai lý do: thứ nhất, để đi đúng đường lối chính trị với
lý luận rằng quần chúng vô sản ở thành thị và nông thôn đều bị áp bức và
bóc lột bởi phong kiến và thực dân, thứ hai là do những phong tục đơn
giản còn lại trong nếp sống chưa bị vẩn đục, chưa bị lây nhiễm bởi những
thói hư tật xấu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, những phụ nữ nhà quê
kia với niềm tin và sự kiên trì đã thay thế cho việc trau dồi sắc đẹp,
đã sống cô đơn một mình trong nhiều năm dài chờ đợi những người chồng đã
từ lâu đi làm chiến tranh cách mạng và chỉ trở về khi cần để đánh lạc
hướng hay cắt đuôi những tên gián điệp hay để được nghĩ ngơi một thời
gian ngắn trước khi lên đường tiếp tục cuộc chiến dành thắng lợi cho
giai cấp vô sản.
Bây giờ, Cách Mạng thắng lợi, được đặt vào những vị trí cao nhất của
quyền lực, họ mang một nửa kia lên Hà Nội để hưởng những vinh hoa của
chủ nghĩa cộng sản, những vinh hoa mà không có cách nào để phân biệt với
thứ vinh hoa tư bản chủ nghĩa. Cũng những toà biệt thự đó, với những
con chó dữ tợn và đám người hầu thận trọng, cũng những chiếc ô tô bóng
lộn, cũng một nếp sống gia đình theo lối đó. Cái khác biệt duy nhất so
với những quý tộc tư sản là, những thứ xa xỉ đó giờ đây hoàn toàn do Nhà
Nước chi trả, phải cắn răng chi tiêu một số lớn ngân sách lẽ ra phải để
dành cho những chuyện cần, thiết yếu. Một điều khác biệt nữa là vợ các
ông lớn không nắm giữ chức vụ nào và không xuất hiện chung với chồng
trong những dịp lễ chính thức hay những buổi chiêu đãi tiếp tân. Loại
logic đó thật là khó hiểu khi mà người ta cứ mãi nêu cao cái nguyên tắc
nam nữ bình đẳng, ít ra là trong xã hội. Cũng có thể là các vị hiểu rằng
cái nữa kia của mình chưa quen với cái hào nhoáng của giai cấp thượng
lưu, không biết cười hay ăn nói sao cho đúng, không biết dùng dao nĩa
làm quí ông bị mất mặt. Quí ông chỉ còn biết để vợ ở nhà ngồi chơi trên
ghế như những di vật linh thiêng để trên bàn thờ sơn son thiếp vàng.
Vợ tôi trở về mệt mỏi sau những lần tiếp xúc với các bà trong giới mệnh phụ cộng sản. Bà phải cố gắng và kiên nhẫn rất nhiều để giải thích cái vui thú thanh tao mà người phụ nữ ở một tầng lớp cao của xã hội khi dùng những thứ hảo hạng, đến thẳng từ Paris, thủ đô của hoa lệ và ánh sáng. Vợ tôi xoay sở để đạt được mục đích và đã mang về một số tiền đủ để sống vài tháng.
Vợ tôi trở về mệt mỏi sau những lần tiếp xúc với các bà trong giới mệnh phụ cộng sản. Bà phải cố gắng và kiên nhẫn rất nhiều để giải thích cái vui thú thanh tao mà người phụ nữ ở một tầng lớp cao của xã hội khi dùng những thứ hảo hạng, đến thẳng từ Paris, thủ đô của hoa lệ và ánh sáng. Vợ tôi xoay sở để đạt được mục đích và đã mang về một số tiền đủ để sống vài tháng.
Nhưng với các bà mệnh phụ khác, bà nào cũng là hiện thân của Eva bị
mấy món xa hoa hấp dẫn, thật khiếp đảm. Tiền xài cho những món kia được
bí mật lấy từ công quỹ. Nếu họ không chùn tay lấy cắp công quỹ thì họ
cũng xoay sở để làm sao không gây tai tiếng và làm hư chuyện thăng quan
tiếng chức của chồng. Cũng dễ, vì họ không bao giờ chường mặt ra trước
công chúng, và chỉ phô trương đến chín tầng mây những quần áo lụa là,
những mùi dầu thơm đầy khoái lạc với chồng trong cảnh riêng tư chồng vợ.
Phần tôi, tôi cố mở những lớp dạy tiếng Pháp. Không thiếu sinh viên,
họ đều hiểu rằng biết biết thêm một ngoại ngữ, bên cạnh tiếng Nga dạy ở
các trường Trung và Đại Học, là một phương tiện tốt để kiếm việc sau
này. Một vài người muốn học tiếng Anh. Nhiều người cần học tiếng Pháp
đến gõ cửa nhà tôi. Những kẻ hăng hái nhất là những anh chị có tham vọng
được đi làm ở Madagascar hay Algérie vì ở đó người ta trả lương như một
ông hoàng. Mặc dù Nhà Nước đã lấy đi từ 70 đến 90 phần trăm tiền thù
lương và tiền thưởng, để trả nợ cho mình, với phần còn lại họ vẫn còn dư
để sống.
Nhưng để được phép đi đến những xứ giàu sang đó, họ chẳng những phải
cẩn thận bôi trơn bàn tay của các quan chức ở bộ Ngoại Giao và bộ Lao
Động, họ còn phải qua một cuộc xét nghiệm về tiếng Pháp tại sứ quán
Algérie hay Madagascar.
Một chân trời sáng sủa được mở ra trước niềm hy vọng của tôi. Nhưng
ngay trong buổi học đầu tiên được mở tại nhà tôi, một đám công an đã đột
ngột xuất hiện. Xếp của chúng là một gã béo lùn, đôi chân ngắn củn,
trán thấp, cặp mắt soi mói, hai lỗ mũi phập phồng như một con chó đang
đánh hơi một khúc xương ngon lành. Cả bọn chiếm cả phòng khách và tên
xếp, dù không được mời vẫn ngồi đến ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành.
Trước bộ mặt kinh ngạc của tôi, hắn gằn lên từng tiếng một như để nhấn
mạnh cái nghiệm trọng của vấn đề:
- Ông có biết tại sao chúng tôi vào nhà ông không?
Tôi đã học từ nhiều năm nay là không ngạc nhiên trườc bất cứ chuyện
gì: điều ngớ ngẩn nhất, điều bệnh hoạn nhất, điều đê tiện nhất đều có
thể xảy ra ở một nơi mà lòng tin và Luật Pháp không có, nơi mà những giá
trị, dù cao quí đến thế nào, đều có thể bị vứt vào đống rác, ngoại trừ
đó là những thứ của chủ nghĩa Cộng Sản và của những tôi tớ bệnh hoạn của
nó, với sự tôn sùng cá nhân được hàng ngày thực hiện và tệ sùng bái áp
đặt. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không biết. Hắn ngồi thoải mái trong chiếc ghế
bành, đôi chân ngắn gác chéo một cách trịnh trọng, xoa xoa hai tay và
giương cặp mắt long lên nhìn tôi giận dữ.
- Ông giả vờ làm người khờ không biết. Ông biết rõ ông là một tên trí
thức thối tha, mình chứa đầy những tư tưởng phản động. Ông dám ngẩng
đầu đòi hỏi dân chủ! Ông còn muốn gì hơn cái mà ta đang có? Ông không
thấy trước những công sở của chúng ta, trên những giấy tờ chính thức đều
có nêu rõ khẩu hiệu của Nhà Nước: Tự Do - Độc Lập - Hạnh Phúc? Tự do,
hạnh phúc là cho ai, nếu không phải là cho nhân dân? Đảng đã mang lại
cho chúng ta cái vinh quang của một thắng lợi cách mạng, một chiến thắng
không thể tượng tượng trên chủ nghĩa tư bản. Nếu chúng ta không tin vào
Đảng, vào lãnh tụ vô vàn kính yêu của chúng ta thì thử hỏi ta phải tin
vào ai?
- Cám ơn ông đã nhắc cho tôi bài học mà tôi đã thuộc nằm lòng. Có
phải ông đang đến viếng để cho tôi cái vinh dự được lập lại những điều
đó thêm một lần nữa chăng?
Hắn không trả lời ngay. Với cử chỉ của một ông giám mục, hắn đưa ngón
tay út lên ngoắc. Một trong những tay hầu cận vội chạy đến lấy ra từ
trong túi xách một cái phích nhỏ đựng đầy nước chè, đổ vào một cái tách
nhỏ rồi đưa cho ông chủ kèm theo một ống tre nhỏ, món mà ở nhà quê không
nhà nào là không có. Tôi quan sát cảnh tượng đang xảy ra. Nó xảy ra
đúng y như những gì đã xảy ra thuở trước, khi các quan lại di hành đâu
đó, mọi thứ là đây: một đám tuỳ tùng, một cái phích đựng trà, một ống
tre nhỏ để hút nước, và đặc biệt là cái ngoắc ra lệnh bằng ngón tay út
mà đám tôi tớ thấy là hiểu ngay phải làm gì. Hãy hy vọng là những tác
phong cổ xưa này sẽ chứa những tinh thần mới của cách mạng.
Quan cách mạng nhấp một ngụm trà và ngay tức khắc, người hầu đưa cho
ông ta cái điếu cày đã nhét đầy thuốc. Với cái bật lửa, người hầu đốt
một thanh gỗ nhỏ, ông chủ đưa chiếc điếu vào mồm, hít lên một hơi dài
rồi phun ra những vòng khói màu xanh. Sau đó, với cặp mắt khoái trá, nửa
nhắm nửa mở, cổ dựa vào đầu lưng ghế, với giọng nói chậm chạp và trang
trọng, hắn buông những lời ra khỏi đôi môi dầy thịt:
- Ông chả hiểu gì cả. Ông đã phạm một cái lỗi tày đình. Nhưng Đảng
vẫn cao thượng, cảm thấy tội nghiệp cho tính hấp tấp và cả tin của ông.
Đảng không bỏ tù ông, Đảng chỉ lấy lại những vinh dự đã dành cho ông. Để
tỏ ra biết ơn sự rộng lượng và tốt lành của Đảng, lẽ ra ông đã phải tự
giam mình nơi cô đơn tĩnh mịch để sám hối cho cái tội lỗi ghê gớm của
mình. Ngược lại, ông còn mở lớp dạy tiếng Pháp, quan hệ với những thanh
niên mà ông có thể đầu độc và làm họ xa rời Đảng. Vì lý do đó, tất cả
lớp dạy tư nhân đều bị cấm.
Với bộ dạng bệ vệ uy nghiêm, với bước đi của quan lớn, hắn bước ra
khỏi nhà, theo sau là bầy chó sói. Cái độ lượng của Đảng vừa chối từ một
cái phao cứu hộ cho kẻ đang bị chết đuối. Phúc đức thay cho thứ nhân
đạo không muốn làm kéo dài mạng sống của một sinh vật khốn khổ, nhưng
rất xứng đáng, đang lê lết trong sự đoạ đầy của cơn thuỷ triều cộng sản,
hoàn toàn bất lực cho mình và bất lực cả cho những người đang quản lý
nó.
Chuyện trả giá để bán những bàn ghế thì rất khó khăn và kéo dài. Đồ
đạc gồm toàn những thứ đáng giá: những chiếc ghế bành, chiếc trường kỷ,
tủ chưng những món lạ và đồ kỷ niệm, bàn giấy, tủ sách, thảm lót hiệu
Hàng Kênh, những bức tranh sơn mài của Coromandel, tất cả đều làm theo
kiểu xưa và toàn bằng gỗ gụ, những bình hoa lớn bằng sứ của Trung Quốc
đạt trên những cái đế ba chân, những bình đựng bông bằng pha lê, những
bức tranh của các hoạ sĩ danh tiếng đóng trong những cái khung mạ vàng…
Lê Phố là hoạ sĩ đã vẽ kiểu mấy cái tủ đựng bát đĩa, những cái ghế bành
gỗ và những món đồ gỗ khác từ những kiểu dáng xưa, nhưng tất cả đều do
nhà điêu khắc nổi tiếng Ngô Trâm chạm trổ. Trong thời tôi còn huy hoàng,
những món này là cả một gia tài, nhưng lúc còn làm luật sư, tôi chỉ có
việc mở vòi là tiền chảy vào như nước. Đời thật ngắn và chịu bao nỗi
thăng trầm. Nếu một người có thể tự cho mình các thứ mà vẫn nằm trong
khuôn khổ của xã hội, thích hợp với những ý thích của mình thì tại sao
không họ lại không được vui hưởng một cách thanh tao và thuần khiết
những cái đẹp và đường nét? Khi tương lai tôi vẫn chưa bị phủ mờ bởi
những hiểm nguy nhất định, tôi đã rất bằng lòng với cuộc sống mà không
hề cảm thấy có nhu cầu tự đặt cho mình câu hỏi liên quan đến chuyện mình
thích gì hay đam mê gì. Nhưng khi biết không sớm thì muộn tôi phải chia
tay vĩnh viễn những vật dụng đã cho tôi những niềm vui không tả và
không bao giờ quên được, tôi đã dành hết niềm vui để mở ra những đối
thoại với từng món trong bọn chúng để gợi nhớ cho tôi những kỷ niệm dính
liền với chỗ đó, và cũng là biểu lộ con người đạo đức và tâm linh của
tôi. Tôi cố tìm thấy tôi, nhận ra tôi qua những đồ vật mà tôi đã treo
móc vào chúng những thớ thịt và mẩu vụn của cuộc đời và quá khứ của tôi.
Tại sao ngày xưa tôi không mua sắm những món làm theo phong cách
phương Tây tiện dụng hơn mà những đường nét sắc sảo gọn gàng, cái đơn
giản về mầu sắc và cách bố trí hài hoà rất hợp với cái tính Cartesien
của tôi [2], hợp với cái tình yêu của tôi dành cho sự logic và sự sáng
tỏ? Tại sao giờ đây tôi phải chịu một ngọn lửa bất ngờ sôi sục kéo dài
cháy đốt tâm can cho những dấu vết của quá khứ đầy dân tộc và truyền
thống kia?
(Còn tiếp)
Nguyễn Mạnh Tường
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
Nguyễn Quốc Vĩ chuyển ngữ
___________________________
[1] Ý nói về câu chuyện về cuộc đời vô vị buồn chán của một bà tên
Emma, vợ của một ông bác sĩ tầm thường sống ở một vùng quê buồn bã…
(N.D.)
[2] René Descartes (1596 - 1650), nhà triết học, nhà toán học, nhà
vật lí học người Pháp. Descartes là nhà nhị nguyên luận. Trong học
thuyết về nguồn gốc của vũ trụ, trong vật lí học, Descartes là nhà duy
vật, coi "vật chất là thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại
và của nhận thức" (Mac). Descartes đưa ra giả thuyết về sự phát triển tự
nhiên của sự sống trên Trái Đất; theo quan niệm của Descartes, vũ trụ
là một cỗ máy khổng lồ, con người và cơ thể động vật là những cỗ máy
phức tạp, tất cả vận động theo các định luật cơ học. (N.D.)
No comments:
Post a Comment