Lời Dịch Giả
Cuốn tự truyện Kẻ bị rút phép thông công được cụ Nguyễn Mạnh
Tường hoàn tất năm 1991 viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Anh
năm 2008 [*]. Đã gần hai mươi năm trôi qua, nhiều người trong nước vẫn
chưa có dịp đọc tác phẩm này, lý do đơn giản là chưa ai dịch nó ra tiếng
Việt và phổ biến. Tôi mạnh dạn trong khả năng giới hạn của mình cố gắng
dịch cuốn sách, không biết có lột được hết những ý của cụ Tường một
cách chính xác hay không, nên rất mong người đọc chỉ cho những chỗ dịch
chưa được thoát. Mong muốn lớn nhất của người dịch là bản dịch này sẽ
được hai giới quan tâm:
- Thứ nhất là nhân dân Việt Nam hiểu rõ cụ Nguyễn Mạnh Tường là một
người con tài ba, chí tình yêu nước thương dân, cả đời hy sinh cho Dân
Tộc, đã bị đoạ đầy hơn ba mươi năm chỉ vì đã dám nêu lên những sai lầm
của đảng Cộng Sản đặc biệt là trong vụ Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng ở
miền Bắc trong những năm 1954 – 56 và đã dám cổ vũ, chứ chưa nói đến đấu
tranh, cho dân chủ.
- Thứ hai là những người cộng sản Việt Nam, những người vẫn còn lấy
lời thề vì dân vì nước làm trọng. Họ nên đọc và nghiền ngẫm những gì mà
giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã viết. Rất nhiều điều vẫn còn là sự thật,
rất nhiều điều giáo sư NMT đã báo động từ những năm đầu giành Độc Lập
hiện nay vẫn đang tiếp tục xảy ra và còn trầm trọng hơn.
Vì trung chính, yêu nước thương dân, dám phê phán lãnh đạo mà giáo sư
NMT và vợ con phải chịu nhiều đau khổ bởi sự tàn bạo của những người
cộng sản.
Người cộng sản hô hào giải phóng “nô lệ thế gian” nhưng hơn ai hết,
những người cộng sản Việt Nam chính là những người nô lệ tự nguyện, nô
lệ được trùm che dưới hai chữ “anh em” với Tàu, Liên Xô. Anh bảo em
nghe, nghe đến độ thằng anh bảo gì làm nấy, kể cả việc mất đất, mất đảo,
nhận cả một đội quân thứ 5 của Tàu vào cao nguyên, và nhiều nơi khác.
Họ đã bị cái vòng kim cô 16 chữ vàng cộng thêm vàng thật chúng cho mang
về đầy túi, để rồi họ làm tất cả để vừa lòng người anh, kẻ thù truyền
kiếp.
Cuối cuốn tự truyện, giáo sư đã đặt hai câu hỏi cho người cộng sản Việt Nam:
1. Vì sao các ông lại sợ hãi dân chủ?
2. Giữa quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Tổ Quốc, các ông chọn phía nào?
Những người cộng sản thuộc thế hệ Điện Biên đã ra đi kháng chiến, một
lòng vì Tổ Quốc Việt Nam thân yêu mà hy sinh cả cuộc đời để đánh đuổi
Thực Dân Pháp giành lại Độc Lập cho dân tộc. Thế hệ trong sáng đó nay
không còn mấy người. Rất mong, tuy không nhiều hy vọng, là những con em,
những kẻ kế thừa của những người cộng sản Điện Biên kia nhớ đến cha ông
mà giữ mình sao cho xứng đáng. Rất mong những người lãnh đạo chóp bu
ngày nay còn biết giữ mình trước hai chữ Chiêu Thống, dấn thân vào con
đường “dân bầu, dân biết, dân làm, dân kiểm tra”. Dù ai có nói đông tây,
dù đa nguyên đa đảng, nếu các anh làm được những chuyện tốt lành cho
dân tộc, dân sẽ bầu cho các anh. Nếu các anh cứ tiếp tục tham lam, tham
quyền cố vị, dùng bạo lực đàn áp nhân dân, các anh là những người biện
chứng chắc phải hiểu chuyện gì sẽ xảy ra.
Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009
Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009
(c) Thông Luận 2009
________________
________________
[*] Bản dịch tiếng Anh của Gs. Phó Bá Long hoàn tất năm 2008, nhưng hiện chưa ấn hành và phổ biến rộng.
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ GIÁO SƯ, LUẬT SƯ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Giaso
Sư, Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) là một luật sư, nhà giáo dục,
nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932), ông đỗ liên tiếp
hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, được khen ngợi là một tài năng hiếm có.
Thân thế và sự nghiệp
Luật
sư Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà
Nội, nhưng quê quán ông lại là làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà nội. Cha
ông là Nguyễn Căn Cát, công chức.
Đi học, đỗ hai bằng Tiến sĩ ở Pháp
Ông học tiếng Pháp từ nhỏ, trước học trường Paul Bert, sau học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
Năm
1926, ông đỗ Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu, được học bổng sang
Pháp học Luật và Văn chương tại Trường đại học Tổng hợp Montpellier
(1927). Năm 1929, ông đỗ Cử nhân văn chương, và năm sau đỗ Cử nhân Luật
(1930).
Tiếp theo, ông dự định thi tuyển Thạc sĩ (concours
d'Agrégé) để dạy học, nhưng vì quốc tịch Việt Nam nên không được thi.
Sau đó, ông sửa soạn làm luận án Tiến sĩ quốc gia (doctorat d'état).
Trong thời gian làm luận án, ông thực tập luật sư tại toà Phúc thẩm
Montpellier.
Tháng 5 năm 1932, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật,
với luận án chính: L'Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân
trong xã hội Việt Nam cổ) và luận án bổ túc: Essai de synthèse sur le
Code de Lê (Tổng luận về luật đời Lê). Tháng 6 năm 1932, ông bảo vệ luận
án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique
du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A.
Musset) và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française, Jules
Boissières (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières.
Ca
ngợi thành tựu kiệt xuất này, ngày 29 tháng 5 năm 1932, nhật báo Le
petit Meridional xuất bản ở thành phố Montpellier đã đăng bài diễn văn
của Chủ tịch Hội đồng giám khảo trường Đại học của thành phố, nhận xét
về luận án của một nghiên cứu sinh Việt Nam, trong đó có câu mang tính
ngoại lệ: "Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là
một tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững
vàng và không hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán
lạn... Công trình nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học
hoàn chỉnh"....
Sau này, trong Từ điển văn học (bộ mới), GS.
Nguyễn Huệ Chi cũng đã viết rằng: "Việc ông đỗ hai bằng Tiến sĩ trong
cùng một năm được báo chí Pháp lúc bấy giờ rất ca ngợi, vì ngay đến
người Pháp kể từ khi có học vị này cũng chưa một ai mới ở tuổi 23 đã
giật được “lưỡng khoa Tiến sĩ”.
Tháng 9 năm 1932, ông về nước
nhưng không nhận một chức vụ gì của chính quyền thuộc địa, vì vậy nên họ
tìm cách gây khó khăn cho ông.
Ở nhà được khoảng ba tháng, ông
trở lại Pháp. Mấy năm sau đó, ông đi du lịch và nghiên cứu các nước châu
Âu: Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập,...Trong khoảng thời
gian này ông viết được bốn cuốn sách bằng tiếng Pháp.
Về nước, hoạt động
Từ 1936 đến 1954
Năm
1936, về nước, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn chương Pháp ở trường Bảo hộ
(Lycée du Prétectorat, tức trường Bưởi, sau này là Chu Văn An) và trường
Cao đẳng Công Chánh ((Ecole Supérieure des Travaux Publics). Theo lời
ông kể thì đây “là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi”.Ngoài ra,
theo Thụy Khuê, trong khoảng thời gian này, ông học thêm chữ nho và văn
chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm (với nhóm
Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim), hợp tác làm Việt Nam tự điển (với nhóm Khai Trí
Tiến Đức), và còn làm phụ tá cho Thị trưởng Hà Nội.
Năm 1940,
Pháp thua trận, Nhật Bản đưa quân vào Đông Dương, lập ra một Hội đồng,
do Phạm Lê Bổng đứng đầu, vận động nông dân bán lúa gạo cho Nhật. Họ
muốn ông Tường tham gia nhưng ông từ chối, nên bị họ gây khó khăn. Sau
đó, ông nộp đơn xin từ chức, ra mở văn phòng luật sư ở phố Gambetta (nay
là phố Trần Hưng Đạo), Hà Nội).
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Trường Đại học Văn Khoa được thành lập, ông được cử dạy Khoa Văn chương Phương Tây.
Tháng
4 năm 1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phái đoàn Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt. Kết thúc Hội nghị,
trở lại Hà Nội, bỗng râm ran tin đồn là ông “phản bội”. Luật sư Nguyễn
Mạnh Tường kể:
"Sau Hội nghị, D’Argenlieu có tổ chức tiệc trà
tiễn đoàn. Một sĩ quan hầu cận Pháp đến nói: Thủy Sư Đô đốc muốn gặp
riêng Ngài. Tôi nói: Tôi chưa hân hạnh được quen biết Ngài Thủy Sư Đô
đốc. Có anh em nói: Nó mời thì anh cứ đi, tôi đi xuyên qua phòng họp,
đông khoảng một trăm người, đến gặp nó, chỉ toàn nói chuyện xã giao vớ
vẩn. Thế mà khi về Hà Nội, có dư luận nói: “Tường là tay trong của Pháp,
Tường phản quốc”. Hoàng Xuân Hãn tức, đến gặp Võ Nguyên Giáp, dư luận
mới được dập tắt."
Năm 1946, ông đang biện hộ cho thân chủ ở Hải
Phòng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Sau đó, ông lên Việt khu Việt
Bắc, rồi vào Liên khu III và IV, được cử làm Luật sư tại các Tòa án quân
sự, Tòa án đại hình và là thành viên Ban Giám đốc Trường dự bị đại học .
Năm
1952, ông được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á - Thái Bình
Dương ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế
giới ở Vienne (Áo).
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên
Phủ thắng lợi, ông về lại Hà Nội, tiếp quản trường Đại học Luật và Đại
học Sư phạm, rồi được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học
Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Cũng trong
khoảng thời gian này, ông được phong Giáo sư, và tham gia giảng dạy tại
các Trường đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp Hà Nội....
Từ 1954 đến khi mất
Vào
những năm 1953-1956, miền Bắc Việt Nam tiến hành Cải cách ruộng đất.
Theo ông, kể từ "1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi". Luật sư
Nguyễn Mạnh Tường kể:
"Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà
Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng
Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tự phê bình về các
sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua
những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ
góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế
độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự."Đi Hội nghị về,
Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn (của
Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm). Tôi như thành một người “phạm pháp quả
tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa. Từ
1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời
gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có cuốn Lý luận giáo dục châu
Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh
đạo có thể đọc được"....
Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông được
chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện
nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là
cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục.
Năm 1989, ông được phép
sang Pháp, và lưu lại ở đó 4 tháng. Tại đây, ông cho xuất bản cuốn hồi
ký bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Một người bị rút phép thông công) viết
về những điều trải nghiệm trong những năm ông đã sống và và viết kể từ
sau 1945 .
Ngày 13 tháng 6 năm 1997, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua đời vì bệnh già tại nhà số 34 phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội, thọ 88 tuổi.
Tác phẩm
Theo thống kê chưa đầy đủ, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã để lại một số tác phẩm sau:
Tiếng Pháp
Trừ bản dịch Orestia, số còn lại đều do ông soạn (4 tác phẩm đầu là Luận án Tiến sĩ):
-1/
L'Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân trong xã hội Việt Nam
thời cổ). Essai de synthèse sur le Code de Lê (Tổng luận về luật đời
Lê).-2/ Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset
(Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset).-3/ L'Annam dans la
littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong văn chương Pháp,
tác phẩm của Jules Boissières).-4/ Sourires et larmes d'une jeunesse
(Nụ cười và nước mắt tuổi trẻ), Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937.-5/
Construction de l'Orient-Pierres de France (Xây dựng Đông phương-Nền
tảng Pháp), Revue Indochinoise, 1937.-6/ Construction de l'Orient -
Apprentissage de la Méditerranée (Xây dựng Đông phương-Kinh nghiệm Địa
Trung Hải), Collection Tendances, Hà Nội, 1939.-7/ Le voyage et le
sentiment (Du hành và cảm xúc), kịch ba màn, Collection Tendances, Hà
Nội, 1943.-8/ Một cuộc hành trình, Minh Đức, Hà Nội, 1954.-9/ Un
princesse née dans une chaumière (Nàng công chúa sinh ra trong túp lều
tranh), tiểu thuyết, 1978, chưa in.-10/ Larmes et sourires d'une
vieillesse (Nụ cười và nước mắt tuổi già), tự truyện, ba cuốn, chưa
in.-11/ Triptyque (Bức họa ba tấm), chưa in.-12/ Un excommunié (Kẻ bị
khai trừ, hay là Một người bị rút phép thông công), Quê Mẹ, Paris,
1992.-13/ Malgré lui, malgré elle (Mặc hắn, mặc nàng), chưa in.-14/
Partir, est ce mourir? (Đi là chết?), chưa in.-15/ Une voix dans la nuit
(Tiếng vọng trong đêm), tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990, chưa
in.-16/ Palinodies (Phủ nhận), chưa in.-17/ Lý luận giáo dục của châu Âu
từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII (Nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1994,
Nxb Giáo dục tái bản, 1995),...
Tiếng Việt
-1/ Lý luận
giáo dục Âu châu thế kỷ XVI, XVII, XVIII, từ Erasme tới Rousseau (tên
Pháp: Doctrines pédagogiques de l'Europe du XVI au XVIIIe siècle,
d'Erasme à Rousseau), Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994.-2/ Eschyle và
bi kịch cổ đại Hy Lạp (tên Pháp: Eschyle et la tragédie grecque), Nxb
Giáo Dục, Hà Nội, 1996.-3/ Oresteia, bộ ba vở kịch cổ đại Hy Lạp (dịch,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997).-4/ Virgile và anh hùng ca La tinh (tên
Pháp: Virgile et l'épopée latine), Nxb Khoa Học Xã Hội, 1996...
Gia đình
Năm
1937, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kết hôn với bà Tống Lệ Dung, và sau đó
có ba con (một trai, hai gái): Nguyễn Tường Hưng, Nguyễn Dung Nghi và
Nguyễn Dung Trang.
No comments:
Post a Comment