Tuesday, September 11, 2012

30-4-1975 NHỮNG TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG CỦA QLVNCH (Phần 2)

5.4.1975: Thủ Tướng Khiêm Từ Chức


Ngày 5 tháng 4/1975, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Quốc phòng đã nộp đơn lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xin từ chức. Tổng thống đã chấp thuận và cử ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ Viện, thành lập nội các (Ngày 14/4/1975, nội các của ông Nguyễn Bá Cẩn mới hoàn tất thành phần nhân sự và trình diện Tổng thống). Trong thời gian chờ chính phủ mới hình thành, nội các của Đại tướng Trần Thiện Khiêm tiếp tục hoạt động dưới hình thức xử lý thường vụ. (Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, và hồi ký của Trung tướng Trần Văn Đôn)

* Phối trí lực lượng tại mặt trận Ninh Thuận.
Theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 (Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Tiền phương), đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với bộ Tư lệnh Sưđoàn 6 Không quân. Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Lực lượng chính để bảo vệphòng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù (Lữ đoàn này về Sài Gòn vào ngày 7/4/1975, sau khi có Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra thay thế).Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân. Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.

6.4.1975: Trận Chiến Bình Thuận


* 1 sư đoàn CSBV tiến về gần Phan Thiết, tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận.
Theo phân tích của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khi đã chiếm Nha Trang, Cam Ranh và các quận tỉnh Khánh Hòa, do bị thiệt hại nặng tại mặt trận Khánh Dương, Cộng quân cần phải bổ sung quân số, chưa đủ lực lượng để mở đợt tấn công lớn vào Ninh Thuận. Các tin tức tình báo nhận được cho biết sư đoàn 7 CSBV sau khi mở các cuộc tấn công vào Cao nguyên đã được điều động về hoạt động tỉnh Bình Thuận. Ngày 6 tháng 4/2005, sư đoàn 7 CSBV này đã khai triển lực lượng hoạt động tại phiá Tây Phan Thiết. Trong khi đó sư đoàn 3 CSBV và một vài đơn vị của sư đoàn 10 CSBV đóng cách Cam Ranh khoảng 50 km về hướng TâyBắc.
*Lữ đoàn 2 Nhảy Dù thay thế Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại phòng tuyến Phan Rang.
Ngày 6 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu điều động Lư đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang bằng không vận để thay thế cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. (Một ngày sau, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trở về Sài Gòn sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang). Cùng với cuộc chuyển quân của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, còn có các toán thám sát của Nha Kỹ Thuật đến hoạt động tại khu vực Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang.
Tháng 4-1975, Tại Tiểu Khu Bình Thuận
Bình Thuận nằm về cực nam của miền Trung nước Việt, đông là biển với những đồi cát mông mênh chạy dài từ Cà Ná tới tận Cù My, qua những làng chài , xóm lưới Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Hàm Tân. Nhiều nơi trước năm 1975, không hề có bước chân của người Phố Thị, ngoài lính tráng. Miền tây của tỉnh, cũng là phần đất cuối cùng của rặng Nam Trường Sơn, nên có nhiều núi cao sông rộng, tuy nhiên người Phan Thiết , dù là ai chăng nửa cũng không bao giờ quên được hai địa danh Tà Dôn-Tà Cú, nằm sát trên con đường quan lộ số 1, trước đây không bao giờ thiếu mìn chông, bom đạn. Ngoài khơi có đảo Phú Quý, đông đúc, nhiều thắng cảnh đẹp, dân chúng giàu có nhờ ngư nghiệp.
Trước năm 1975, Bình Thuận có chừng 25 vạn người, với đủ sắc dân, Kinh, Chàm, Nùng, Hoa, Thượng, sống chung đụng khắp nơi trong tỉnh. Riêng Thị xã Phan Thiết có 50.000 người. Ngay từ thời Pháp thuộc, Bình Thuận nổi tiếng khắp nước, là chốn ” Rừng tiền, biển bạc” và là vựa cá mắm của Đông Dương, còn thóc gạo đủ nuôi sống dân trong tỉnh, nên trong trận đói năm Ất Dậu 1945, địa phương vẫn không bị ảnh hưởng.
Về chiến thuật, Bình Thuận nằm án ngữ, trên con đường sắt xuyên việt Hà Nội-Sài Gòn và quốc lội số 1. Là phân nhánh của đường mòn HCM, từ Đà Lạt, Lâm Đồng , tới các mật khu Nam Sơn, Lê Hồng Phong, Ba Hòn, Cà Ná, Vĩnh Hảo..vào tới Rừng Lá, Cù Mi xuống tận các cửa ngỏ tiếp tế từ biển của VC tại La Gàn, Hòn Rơm, Mũi Điện. Do các yếu tố trên, từ khi Quốc Tế Cọng Sản xâm nhập VN vào thập niên 30, cho tới ngày kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1945-1975), luôn nuôi mộng cưỡng chiếm cho bằng được vùng đất thép của Chính Phủ Quốc Gia, mà giặc luôn gọi là thành đồng cách mạng, ngang cỡ Củ Chi, Mõ Cầy, Ba Tơ, Dầu Tiếng. Nhưng người Bình Thuận tuy hiền hòa, chỉ biết lam lũ làm ăn nhưng đa số là con cháu của dân Ngũ Quảng, vốn có bản chất lời ngay nói thật. Bởi vậy ngoài một số trí thức khoa bảng no cơm ấm cật, thụ hưởng tiền bạc của tổ tiến, nên không biết làm gì, ngoài việ chạy theo gót giặc để được nổi tiếng xấu, hay có một số đồng bào sống trong vùng xôi đậu, bắt buộc phải theo VC, còn hầu hết dân bản địa, có cơm ăn áo mặc và hít thở được không khí tự do, đều tin tưởng vào Quốc Gia. Cho nên sự kiện, tỉnh Bình Thuận bị VC tấn công ba lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968 nhưng vẫn giữ vẹn thành phố. Ngoài ra, đây cũng là tỉnh duy nhất ở Trung Phần, vào những ngày cuối tháng 4-1975, đã quyết tâm, ngăn chống giặc Bắc xâm lăng, cho tới khi không còn chịu nổi, trước sự tấn công biển người, với xe tăng, đại pháo, mới đành bỏ quê hương mà đi trong ngấn lệ.
Tháng 8-2004, John Pilger một nhà làm phim người Úc, đã thực hiện bộ phim ” trận đánh cuối cùng”, nói về chiến tranh VN, theo óc tưởng tượng Tây Phương , cùng đơn đặt hàng của Hollywood và VC. Ai cũng biết, lịch sử nào cũng đẫm máu và nước mắt, chứ không phải chỉ riêng có lịch sử chiến tranh VN. Điều đáng chú ý là con người, không thể nào sống ngoài lịch sử của nước mình, cho nên dẩu ta có là nạn nhân của lịch sử, cũng phải biết quên khổ đau của chính mình, để chia chung niềm tự hào của những anh hùng dân tộc, đã xem nhẹ cái chết vào những giờ phút tử thần. Ngoài ra,ai cũng biết lịch sử của cọng sản, là toàn cảnh chủ nghĩa hiếu chiến và đấu tranh giai cấp, nên đừng có lạ khi được xem qua bộ phim trên, với nội dung ” kẻ nào không đứng chung với ta đưới một màu cờ, đều là kẻ thù thua trận “. Tóm lại, lịch sử không phải là văn chương, nên không thể ngồi một chỗ để hư cấu, mà là những trang kể về các anh hùng và tiểu nhân có thật, được viết bằng máu và nước mắt của chính nhân vật trong cuộc, để chấp nhận phê phán theo quan niệm đạo lý cùng với chính nghĩa. Nhưng văn chương, xét cho cùng từ khởi thủy cho tới chung cuộc, vẫn là tiếng rên nghẹn của thân phận con người. Còn lịch sử thì trái lại muôn đời không dời đổi, giống như chuyện dài về các đế quốc, triều đại xưa nay, trong đó có đế quốc Việt Cộng
Chắc chắn người Bình Thuận dù ở trong thế hệ nào chăng nữa, qua hơn 300 thành lập, cũng đều tự hào về những trang sử vẻ vang của quê hương mình, từ lúc khởi đầu, cho đến những ngày cuối cùng tháng 4-1975, đẫm đầy máu lệ, càng đọc càng thắm thiết và trân trọng, cho tất cả những quân dân đã một thời bỏ mình vì nước..
1- Phan Thiết, Những Ngày cuối Tháng 4-1975
Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lãnh tài danh của Đàng Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đã chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu tiên, tiến vào miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành mất vào năm Quý Dậu 1693. Đoàn quân khi qua sông Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vào vùng gió cát ven biển lúc đó, hầu như không có bao nhiêu làng xóm, sự sống, mà chỉ có hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông Bình Thuận , từ Cà Ná chạy vào tới Phù My, giáp ranh với Bà Rịa. Cuộc hành quân đường bộ dài trên 150km, đã góp phần tạo nên những thị trấn trù phú sau này như Long Vĩnh trong vịnh Ròn, Phan Rí ở cửa biển Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai và Hamulithít (Phan Thiết). Cũng ở vùng này, từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương triều Panduranga I, đã hoàn thành nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị thần thánh Ấn Độ giáo, trên đồi Bà Nài cách Phan Thiết về phía nam chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông Bình Thuận như Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Phú Hài và La Gi.. càng lúc càng trở nên trú phú và quan trọng, dù từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ đã dời từ Hòa Đa về Phan Thiết, chỉ là một Xóm Biển, nằm ngay trên cửa sông Mường Mán, chẳng mấy chốc, đã chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ qua. Trước năm 1975, Mũi Né là thủ phủ của quận Hải Long, giống như La Gàn,Ba Hòn, Cù Mi..những cửa ngõ để Hà Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường biển cho bộ đội Bắc Việt, trong mật khu Lê Hồng Phong. Vùng này chạy từ Hòn Hồng,Bãi Xếp, Ốc,Ghềnh, Dơi thuộc Bình Nhơn,Hòa Thắng đối diện với Hòn Nghệ ngoài biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo các sử gia trong và ngoài nước cận đại, thì Bình Thuận là tỉnh duy nhất của miền Trung,từ lính cho tới công chức, kể cả dân chúng, không bỏ chạy và họ đã chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngày cuối cùng vào sáng 19-4-1975, cũng như đã thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toàn bằng đường bộ lẫn đường biển. Riêng tại mặt trận miền đông Phan Thiết, trong vùng chiến thuật thuộc chi khu Hải Long, bao gồm quận lỵ Mũi Né, các phân chi khu Thện Nghiệp, Thiện Khánh,An Hải,Phước Thiệu Xuân và Thanh Hải..theo báo chí VC, mãi tới 5 giờ sáng ngày 19-4-1975, khi QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh Bình Thuật,mới có một đại đội thuộc C/482 VC, tới tiếp thu Hải Long đã bỏ ngỏ. Sau này nhân có một vài cấp sĩ quan tại Bình Thuận đã rời chức vụ trước khi giặc tới như Thiếu Tá Lê Văn Thông, quận trưởngThiện Giáo, hay Thiếu Tá Võ Đạm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Đoàn Manh Hoạch, bỏ chạy về Sài Gòn từ đầu tháng 4-1975,tạo cớ cho một vài người, mặc dù mang tiếng là lính, nhưng chưa hề phục vụ tại TK.Bình Thuận, qua đây viết báo, chỉ trích về một trận đánh nào đo, không tên tuổi,ù vào giờ thứ 25 của chiến cuộc, là không có đại bàng, lúc mà các trụ đèn vì không có chân và những tù nhân đang bị giam, nên không thể chạy. Còn hầu như mọi người kể cả một vài tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp, công chức, sư ni cha cố, đại trí thức, ca sĩ, đĩ điếm,me Mẽo, thương gia cho tới hàng mệnh phụ, tiểu thư đã dám thí cái trinh tiết ngàn vàng cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật thì tới lúc đó, các đại bàng lớn nhỏ gần như đều có mặt, và có một vài đơn vị Nghĩa Quân đóng tại Xã Phước Thiệu Xuân, Kim Ngọc, dù được lệnh di tản, vẫn nhất định ở lại. Chính Họ đã bắn cháy vài chiếc T54 của Bắc Việt trên QL1, nên Cọng Sản phải chia làm hai cánh quân, một tiến theo đường công hương qua Phú Hài về Phan Thiết. Toán kia theo QL1. Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử , nhất là các thẩm quyền lúc đó của Tiểu Khu, như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Phó TT. Phạm Ngọc Cửu và những Sĩ Quan chỉ huy chiến trường như Thiếu Tá Dụng Văn Đối,Thiếu Tá Lê Văn Trung, Thiếu Tá Phạm Minh, Thiếu Tá Phan Sang, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, Đại Uý Huỳnh văn Hoàng, Đại Uý Lê Bá Hùng, Đại Uý Bác Sĩ Lê Bá Dũng, Đại Uý Đặng Vũ Đàng, Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT. Lê Minh Giang, Thiếu Úy Lê văn Thắng….sau nhiềunăm tù tại Miền Bắc, đều có mặt ở Hoa Kỳ qua diện HO. Chính họ mới là nhân chứng thật sự, có tư cách , để xác nhận củng như phê phán trước quân sử VNCH, rằng cho tới trọn ngày 19-4-1975, các mặt trận tại Bình Thuận, gần như có đại bàng và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển máu địa ngục, giữa tuyệt vọng vì phải đối mặt với hằng chục ngàn quân xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo và sự tiếp tay của lũ ăn chén đá bát, cùng bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ và đất nước mãi đắm chìm trong nhục nhã đói nghèo giữa thiên đàng xã nghĩa, được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tiên hậu hỹ suốt 20 năm tại VNCH…
2-Tiểu Khu Bình Thuận, Trước Tháng 4-1975 :
Ngày 20-12-1960 theo tinh thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại Hà Nội, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dài của Quốc Tế Cọng Sản ra đời, mở màn cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại Bình Thuận, bọn nằm vùng như Nguyễn quý Đôn, Nguyễn Như, Năm Trà, Song Mã,Hồ ngọc Lầu, Nguyễn Thị Kim Liên, Trần Thiện Bật, Ngô Đình Cường, Nguyễn Phong Đạm..vẫn bám trụ trong nội thành và không ngớt bày binh bố trận, từ khủng bố bằng quân sự cho tới việc xuí dục các học sinh trung học trong tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lành của người dân hiền hòa miền biển mặn. Sau ngày binh biến 1-11-1963, tình hình chiến sự tại miền nam VN trở nên tồi tệ vì ba năm xáo trộn chính trị do bọn kiêu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi sinh và phá hoại dữ dội khắp nơi. Bình Thuận cũng không tránh khỏi nạn kiếp trên, một mặt thì học sinh biểu tình, tuyệt thực,do chính Nguyễn Văn Minh, bí thư của Chi Bộ Cọng Sản tại Trường TH.Phan Bội Châu, năm 1966 (đã chết trước năm 1975), vạch ngực lấy máu..bắt chính quyền phải hoà hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền. Mặc khác đêm 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cùng lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven biên thị xã Phan Thiết, mở màn cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, nguyên Trưởng Phòng 2/Quân Đoàn II về nhậm chức tỉnh trưởng vào mùa thu năm 1969, mới vãn hồi được an ninh khắp tỉnh và thị xã Phan Thiết , cho tới ngày tàn cuộc 19-4-1975. Tại Tiểu khu Bình Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh văn Đệ, khoá 1 sĩ quan trừ bị Nam Định, về sau là dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ chủ tịch uỷ ban QP.Ha viện vào năm 1969, nhưng lại là một điệp viên của Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, thì thiếu tá Trần văn Chà làm tiểu khu phó kiêm Phó TT.Nội An., về sau TT.Chà lên Trung Tá và làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53/SD23BB. Đại Úy Lê Trung Hưng làm Tham Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người PT, một sĩ quan tài giỏi và can trường, từ SD23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng phòng 2.TK. Cũng năm đó, trưởng phòng 3/TK là trung úy Nguyễn văn Trị. Riêng đại uý Lê văn Trạch là quận trưởng Hàm Thuận, đại uý Trọng QT.Thiện Giáo, đại uý Kiều văn Út QT.Hải Long, thiếu tá Woàng sắn Cảnh, QT.Hải Ninh, đại uý Lương Vặng,QT.Phan Lý Chàm, đại uý Nguyễn quang Mẫn,QT.Hòa Đa, Thiếu tá Bùi quang Huỳnh QT.Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại đội DPQ là đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung tâm HL.DPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm chỉ huy trưởng, còn Thiếu tá Woàng văn Thông thì làm CHT/BCH bắc BT bao gồm 4 quận HD,TP,PLC và HN. Riêng CHT/DPQ-NQ tỉnh là thiếu tá Lê văn Thông, đóng chung với Quân vụ thi trấn và đồn quân cảnh trong TK củ đối diện với vườn hoa và Ty ngân khố, cạnh trường nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23 của Thiếu tá Xứng bao vùng khắp lãnh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn khắc Tuân thuộc tổng cục quân huấn/BTTM về làm tỉnh trưởng BT thay trung tá Đinh văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tù và chết tại Bắc Việt.
Giữa năm 1968, Đại Tá Đàng thiện Ngôn về làm tỉnh trưởng BT thay thế Trung Tá Tuân, còn Thiếu tá Hồ ứng Phùng làm tiểu khu phò và đại uý Lê văn Anh làm Tham mưu trưởng. Mùa thu năm 1969, DT Nghĩa thay DT Ngôn làm TT, Trung Tá Vương Đăng Phong, TKP và Trung Tá Mai Lang Luông TMT. Các phòng sở cũng được thay đổi như sau : Phó Tỉnh Trưởng HC. Phạm Ngọc Cửu, Chánh Văn Phòng Cát Ngọc Giao. ThT Nguyễn văn Mầng (K17SQTD), trưởng phòng Tổng Quản Trị. Đại Uý Nguyễn văn Hiển (K19SQTD) trường phòng 1. Đại Uý Đặng Vũ Đàn (K19SQ/DPQ) trưởng phòng 2. ThT Nguyễn Văn Trị, trưởng phòng 3. ThT Trần Hoạt (chết tại Honolulu), trưởng phòng 4. ThT Phạm Minh (K16VBDL) Trung tâm trưởng TTTV. ThT Trực,trưởng phòng Truyền Tin.Trung Tá Phan Trần Bảo, Trưởng Ty CSQG. Từ năm 1970 về sau, trong đà cải tiến QLVNCH, cơ cấu BCH.TK thay đổi, TrungTá Trí, TKP kiêm TMT, Trung Tá Mai Lang Luông, TTT Bình Định phát triển nông thôn nhưng Lê Minh Giang vẫn Tỉnh Đoàn Trưởng TD.XDNT. Thiếu Tá Nguyễn văn Trí, Trưởng Ty ANQD. ThT Nguyễn Văn Hồng, trưởng khối CTCT. Trung Tá Nguyễn Hòa, chủ tịch Hội Đồng Tỉnh.
Các Quận Trưởng cũng được hoán chuyển từ cuối năm 1974 : Quận Tuy Phong, ThT Hà Văn Thành, Hòa Đa Trung Tá Kiều Văn Út, Phan Lý Chàm ThT Đặng Chánh Anh, Hải Ninh Trung Tá Diêp Sắng Cảnh, Thiện Giáo ThT Lê Văn Thông, Hàm Thuận ThT Dụng Văn Đối, Hải Long ThT Hàng Phong Cao, Xã Trưởng Phan Thiết ThT Nguyễn Thanh Hải, Yếu Khu Châu Thành ThT Cư và CHT.QYV Đoàn Mạnh Hoạch, ThT bác sĩ Võ Đạm.
DD/DPQ được nâng cấp, có 8 Tiểu Đoàn, một Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhiều DD/Biệt Lập, được phối trí như sau : – DD206/DPQ Trinh sát , do DU Lê văn Trò (khóa 19.SQ/DPQ) làm DDT. DD290 Biệt lập của DU Sâm, đóng tại Hải Long. DD283 biệt lập của DU Nguyễn văn Ba, đóng tại Tuỳ Hòa,Thiện Giáo, kiêm Yếu Khu trưởng Phú Long. Ở Hàm Thuận có 2 DD/DPQ biệt lập 127 và 887.
Tại Bắc Bình Thuận có TD248/DPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong, sau là ThT Xuân làm TDT., TD212DPQ của Thiếu tá Quân cọi Lương Sơn, Sông Lũy.TD 229/DPQ của ThT Tiến, đóng tại Phan Rí. Sau khi Bắc BT thất thủ, TD này về giữ mặt nam Thị Xã Phan Thiết.
Nam Bình Thuận có 5 TD/DPQ : TD249 DPQ của Thiếu tá Phan Sang, BCH đóng tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Hòa Vinh,Tuỳ Hòa., những ngày cuối cùng do DY.Huỳnh văn Quý làm TDT thế ThT Sang. TD202DPQ của Thiếu Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo,Long Thạnh., sau DU.Huỳnh văn Hòang XLTV.TDT thế ThT Bính. TD275 /DPQ của Thiếu tá Nguyễn Tư, có 1 DD của Trung Uý Lợi, đóng trên núi Tà Dôn, bảo vệ Khẩu đội Pháo Binh., một DD của DU.Nguyễn Đình Úy đóng tại Hòa Vinh, thành phần còn lại của TD đóng ở Kim Ngọc. TD230DPQ của Thiếu tá Thổ Thêm, hoạt động tại Thiện Giáo, sau giao cho DU Mai Vi Thành XLTV.TDT và DU Trần Đăng Thiệt TDP. TD274DPQ của Thiếu tá Trịnh văn Bình hoạt động tại Bầu Gia,Phú Hội., Thiếu Tá Bình chết tại trại tù ở Bắc Việt.
Tại Bắc BT, BCH quân sự bãi bỏ nhưng thay vào đó là BCH.Liên đoàn DPQ do Đại Tá Lại văn Khuy, nguyên Trung đoàn Trưởng TRD42/SD22BB về làm CHT. BCH Liên đoàn đóng tại xã Lương Sơn, đối diện với mật khu Lê Hồng Phong, gồm 2 TD229 và 212 DPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975, Bình Thuận không còn Trung Đoàn 44/SD23 và Chi đoàn 3/8/Thiết kỵ tăng phái, vì những đơn vị chủ lực quân này đã di chuyển hết lên cao nguyên năm 1972. Để bảo vệ an ninh cho thị xã Phan Thiết, từ năm 1970 lập thêm Yếu khu châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá Nguyễn văn Cư làm CHT. Phía Nam Phi Trường Phan Thiết, có Liên Đội DPQ.Đặc Nhiệm Công Trường Sao Đỏ, do DU Huỳnh văn Quý chỉ huy, hoạt động tới Phú Khánh-Ba Hòn. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn là Bộ chỉ huy MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức, tức là PBC củ trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ trình đường bộ trên QL1, từ Hòa Vinh tới Phan Rí, ngang qua mật khu Lê Hồng Phong dối diện vói các xạ Long Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Hòa….cơ quan MACV đã phối hợp với TK.Bình Thuận, thành lập lực lượng Dân Sự Chiến Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xã Lương Sơn, trại Phi Mã ở xã Phan Rí Thành cạnh Chi khu Hòa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xã Chợ Lầu, đồn Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có bãi đáp trực thăng, còn các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN và SQ-HSQ /LLDB Hoa Kỳ làm cố vấn., chính họ đã vô hiệu hóa cái gọi là mật khu thành cây vách cát Lê Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoàn địa phương 482 và 840 VC, cũng như Trung đoàn chính quy 812 Bắc Việt của quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại Bình Thuận đóng cửa nên Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thành lập các DD/DPQ., các cấp chỉ huy được mang quân hàm Thiếu úy, còn danh hiệu là DD700,710,720,730/ DPQ/BT, sau đó nhập chung thành Liên Đội 2/32/DPQ/BT do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vùng tư Lương Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ lại cải danh thành tiểu đoàn 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc tàn cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyên Đòan 28 Hải thuyền, hoạt động bảo vệ vùng duyên hải Bình Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong, vào tới Mũi Đèn Nam Bình Thuận, chỉ huy Duyên Đoàn từ đầu có Thiếu úy hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đã chết trong lúc di tản. Duyên đoàn trưởng cuói cùng là HQ.Thiếu tá Việt và Duyên đoàn phó, Đại Uý HQ.Cat. Ngoài ra còn có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đòan quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp P2,3/TK bay quan sát bao vùng hành quân, mở đường và hướng dẫn pháo binh tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoàn 2 và 3/8 thuộc SD23 tăng phái.. Tết Mậu Thân 1968 trung úy Hàng phong Cao làm chi đoàn trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về làm Quận Trưởng Hàm Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa. Riêng Chi Đoan 2/8 giao cho Đại Uý Đệ, nguyên DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Hòa và Phú Long. Đại đội này về sau di chuyển ra Hòa Đa và giao cho Đại uý .Mai xuân Cúc, nguyên trưởng ban 2/ quận Hòa Đa của Quận Đối làm Đại Đội Trưởng và những ngày cuối cùng là đơn vị đóng trong thị xã Phan Thiết cho tới sáng 19-4-1975, Bình Thuận hoàn toàn thất thủ, mới xuống tàu HQ tại Kim Hải, di tản về Bà Rịa-Vũng Tàu.
3- Những Ngày Chiến Đấu Cuối Cùng
Của TK.Bình Thuận, Vào Cuối Tháng 4-1975 :
Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương trình bình định của Đại Tá Nghĩa, đã khiến các cơ sở nằm vùng cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vào tình trạng gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do mìn Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo là Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, VC Bình Thuận bắt đầu ngoi lên và phá hoại khắp, nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát Đức Long. Từ ngày 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật trên Liên tỉnh lộ 8 .Nhân dịp này, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông và Chi khu phó là DU.Lê văn Tuân, đã trốn về Sài Gòn nhưng TD.230/DPQ của DU Mai Vi Thành và Các DD/DPQ biệt lập của Quận, vẫn không rã ngủ. Phan Thiết, Hải Long lúc đó gần như tràn ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi phương tiện, đường bộ, tàu thuyền..và được Ty Xã Hội trợ cấp giúp đở tận tình. Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xã, từ ngày 13-4-1975 Tỉnh cho thành lập tại Thiện Khánh và Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời dưới các rặng dừa và sân vận động, để chờ tàu HQ vào di tản họ tới Vũng Tàu. Do trên tình hình tại Hải Long thêm phức tạp, một phần từ những phần tử xấu như đào binh, đặc công trà trộn gây rối loạn, cũng như công khai cướp bốc tài sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm vùng thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng bìm đã leo khắp nơi với sự ra đời của cái gọi là ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..và các đội tự vệ võ trang em bé quàng khăn đỏ.. Từ ngày 15-4-1975, tình hình Hải Long càng thêm nặng nề vì có nhiều đơn vi từ QD1 và 2 ngoài Trung đến đây bằng đường biển. Riêng các xóm đạo của người Bắc di cư, tại Thanh Hải, Cầu Ké, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú đã kéo tàu thuyền chạy về Long Hải, Vũng Tàu. Tuy nhiên, tình hình mặt trận miền đông và Phan Thiết, vẫn chưa có gì nguy ngập, tới ngày 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loan và tất cả các đại bàng kể cả quận trưởng Hàng phong Cao vẫn có mặt , trong các vị trí phòng thủ gần như 24/24.
A- TỬ THỦ PHÚ LONG :
Ngày 16-4-1975 phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công của mấy sư đoàn Bắc Việt, với xe tăng, đại pháo tối tân của Liên Xô, Trung Cộng cà cả khối cọng sản quốc tế. Trong lúc VNCH gần như kiệt quệ về nhân lực cũng như trang bị, vì người Mỹ phản bội, thất hứa. Gần hết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn III, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, cũng như Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ là Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Lữ Đoàn Trưởng LD2/ND là Đại Tá Nguyễn Thu Lương và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác, đều lọt vào tay giặc tại Phan Rang.
Cũng trong ngày đó, các lộ quân Bắc Việt, từ Nha Trang, Đà Lạt, ồ ạt theo QL1 tiến vào Bình Thuận. Cho nên trách sao được bốn chi khu Tuy Phong Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Hải Ninh với quân số chưa tới 3 Tiểu Đoàn, mà chỉ toàn DPQ + NQ, thì lấy chi chọi với tăng pháo và biển người.. Cũng nhờ có nhiều chiến hạm của BTL. Vùng 2 Duyên Hải , đã bất chấp pháo địch, ghé sát bờ , vớt được nhiều đơn vị đã tham chiến tại Phan Rang, cũng như các Chi Khu của bốn quận miền Bắc. Nói chung tất cả quân các cảnh tại đây, kể luôn Tiểu Đoàn 274 DPQ của ThT Xuân, lúc đó đang đóng tại cầu Đá Chẹt, giáp ranh với Cà Ná, cũng di tản được tới Vũng Tàu bằng ghe đánh cá , tại Long Hương và Phan Rí Cửa.
Như vậy từ đó, ranh giới của tỉnh Bình Thuận với giặc Hồ là thị trấn Phú Long, trên QL1, cách Phan Thiết khoảng 10 km, về phía bắc. Ở mặt trận miền đông, Chi Khu Hải Long vẫn còn và BCH.Tiền phương của TK.Bình Thuận, do Đại Tá Tỉnh Truởng , Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, vẫn đóng trên Lầu Ông Hoàng. Trong thị xã, còn có 2 BCH khác, một do Trung Tá Trí, TMT/TK kiêm CHT/DPQ+NQ, đóng tại Căn Cứ của Duyên Đoàn 28 tại của biển Thương Chánh. Còn BCH.Hành Chánh Tỉnh thì do Phó TT là Phạm Ngọc Cửu, cùng với các Trung Tá Hòa, Luông, ThT Huỳnh văn Việt (Trưởng Ty CCB/BT) chỉ huy, đóng ngay trong Tòa Hành Chánh, lúc đó coi như lãnh đạn pháo kích của VC hằng giờ.
Chiều ngày 12/4/1974, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, lúc đó đang là Liên Đội Trưởng Liên Đội Đặc Biệt, đang bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, ở phía nam phi trường Phan Thiết, thuộc Ấp Bình Tú, xã Kim Bình, quận Hàm Thuận, nơi có mấy ngàn Viêt Kiều hồi hương từ Kampuchia về. Ông được chỉ đinh làm Tiểu Đoàn Trưởng , TĐ 249 DPQ, lúc đó do ThT.Phan Sang chỉ huy. Việc bàn giao đơn vị được thực hiện ngay lúc 7 giờ tối cùng ngày, với nhiệm vụ TD249 phải tái chiếm lại Phú Long, đã mất từ mấy ngày qua. Vì quân số quá hao hụt, nên TK biệt phái thêm cho TD, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại Uý Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan LLDB rất gan dạ và tài giỏi. Ngoài ra Đại Uý Nguyễn Văn Hạnh, cũng được chỉ định làm TDPhó/249 thay DU Huỳnh Đắc Hoá. Ngày 13-4, sau khi hết nhiệm vụ, ThT Phan Sang được TK.Bình Thuận, trả về đơn vị gốc là SD21BB. Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-75, xe chở TD249 và DD283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân thì đổ quân và tái chiếm Phú Long bằng ba cánh : – 1 do DD283 tăng phái của DU Ba và DD3/249 của Trung Uý Thời, đánh từ Lò Vôi tới Chợ và Cầu Phú Long. Cánh 2, do DD4/249 của Trung Uý Thành và Trung Đội Thám Sát của TD, đánh từ Lò Vôi tới Trụ Sở Xã Phú Long. Cánh 3, do DD1/249 của DU.Đáp, tấn công hướng đông. Riêng DD2/249 của Đại Uý Nguyễn Chánh Trúc, làm lực lượng trừ bị cho TD. Trận chiến rất khốc liệt, kể cả TrD6/SD2BB biệt phái, mấy ngày trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, vì hỏa lực của giặc rất mạnh, lại chiếm được nhiều cao ốc trên QL1, đặt súng Đại bác 57 ly và B40 bắn từ trên cao xuống. Thêm vào đó là pháo 105 ly, mà giặc đã chiếm được , bắn liên tục từ Bình An sang, làm thương vong nhiều người, trong đó có TrU Thời (DDT) và TrY Nhàn (DDP) của DD2/249, tại Ấp Phú Trường. Vì vậy tới ngày 14-4-75, TD phải đánh cận chiến bằng lưu đạn, cũng như tranh giành từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại được xã Phú Long, ngoại trừ các ngôi chùa, không dám đụng tới vì sợ hư hại chốn tôn nghiêm, kể cả sự yểm trợ của Không Quân và Pháo Binh tác xạ.
Coi như TD249 và DD283 biệt lập cố thủ tại Phú Long, cho tới ngày 18-4-1975, thì nhận được lệnh của TK/BT báo, là sẽ có Đơn Vị khác lên thay thế, cho TD đã quá mệt mỏi và tổn thương nhiều, trong mấy ngày tử chiến.
Vì Miền Bắc BT bỏ ngỏ từ khi Phan Rang thất thủ, nên Binh Đoàn Bắc Việt tiến vào Phan Thiết rất nhanh và sáng ngày 18-4-75, đã tới Tà Dôn. Bởi vậy Đại Uý Quý., xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường cho TD249, Chi Đoàn Thiết Giáp của SD2BB, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với TrD 6/SD2BB nhưng TK không đáp ứng, vì các Đơn Vị tăng phái này, đang chuẩn bị rút về Nam, khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. Khoảng 6 giờ chiều ngày 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Uý Quý, biết BCH. Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đã rút ra bờ biển, theo đường Phú Hài về Phan Thiết. Dù nhận lệnh cố thủ Phú Long, nhưng Quý không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị,kể cả Thiết Giáp đã rút. Lúc đó, coi như TD249 và DD283/DPQ là đơn vị đoạn hậu. Tuy nhiên cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đã tới Xã Tuỳ Hòa, vào lúc 7 giờ tối. Theo kế hoạch, DD4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. Còn DD2/249 là thành phần trừ bị, nên rút sau cùng. Vì nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại , nên DU Quý không cho phá Cầu Phú Long, ngang sông Cả, trên QL1, như lệnh của TK/BT, mà chỉ gọi Hải pháo . Trong lúc TD249 rút quân, thì máy của Thiết Giáp/SD2BB, liên lạc ngăn chận, bảo chờ gở mìn. Thật sự , Đơn Vị này đã rút , nhưng muốn gạt DPQ ở lại đoạn hậu,cho an toàn. Tại Lầu Ông Hoàng, lúc đó còn có DD1/275DPQ của Đại Uý Nguyễn Đình Uý, từ Tà Dôn rút về. Còn DD290/DPQ biệt lập của DU Sâm, thì từ lâu ở đó, để bảo vệ BCH nhẹ của TK và Khẩu Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây. Cuối cùng trong đêm 18-4-1975, TD 249 và DD283 rút về Rạng và được thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng DD1/275 của DU. Uý và DD290 của DU.Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng VC tấn công . Tại QL số 1, dù SD2/BB cũng như các TD249/DPQ và TD275/DPQ rút về Phan Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, dù có lệnh di tản. Chính Họ đã bắn cháy một T54 , trước Nhà Thờ Kim Ngọc, trong khi Mặt Trận Không Có Đại Bàng, không phải vì Đại Bàng khiếp nhược bỏ chạy, mà vì ” Thời Thế Thế Thời Thời Phải Thế “.
** Thiếu Uý Lê Văn Thắng, Ban 3/TD/249DPQ/BT viết lại trân Phú Long :
Nhớ lại “những ngày tái chiếm và tử thủ Phú Long ” Thiếu Uý Lê văn Thắng, Phụ Tá Trưởng Ban 3/TD249/DPQ, hiện tạm cư tại Úc, cũng viết gần giống sử liệu :
Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển về Bình Thuận, tháng 12/1974 .Tôi về lại Bình Thuận thân thương, nhìn lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn bè năm nào trong vui sướng. Tuy nhiên, về lại Bình Thuận lần này, tôi được đưa về Tiểu Đoàn 249/ ĐPQ của Thiếu Tá Phan Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng lưng chừng núi Tà Dôn, cũng như ở Bình An và Bình Lâm, trên Liên Tỉnh Lộ 8 (Phan Thiết-Ma Lâm). Vì vết thương còn nhiều mủ, nên được làm phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba. Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết., ngoài những sĩ quan trong tiểu đoàn, như Trung Úy Thời (người Lại An), Đại Uý Tập (Mũi Né), Thiếu Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Đoàn).. Điều tôi thấy sung sướng là cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hào về Bình Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đêm ông anh em về nghỉ, và luân phiên hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực lên nhậu chơi. Tinh thần này đã khác biệt hoàn toàn với những đơn vị của tôi tại Bạc Liêu. Tình huynh đệ chi binh, tình chiến hữu thật là đậm đà.
Khi còn đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần Tùy Hòa. Ngày khai quang cuối cùng, màn đêm buông xuống. Hai anh Công Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy về nhờ Tiểu Đoàn cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Đoàn, vừa bước xuống xe thì hay tin hai anh Công Binh khi nãy đã bị VC bắn lật xe chết rồi. Thế là tôi thoát chết trong gang tất.
Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, “tàn quân” chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ nghe kể là chết chóc nhiều trên đường chạy loạn. Người giết người để cướp vàng, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..Về đến Phan Thiết, những người này đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ Phan Thiết … Sự thật thì tôi không nắm vững vì luôn luôn có mặt tại trận tuyến. Chúng tôi không lãnh lương trọn hai tháng 3 và 4/1975.
Đến đầu tháng 4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quý thay thế Thiếu Tá Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng và tái chiếm Phú Long. Thị trấn này đã bị VC chiếm hai bên đường Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân, cách VC đang cố thủ tại Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ thật nặng nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tài sản và nhà cửa dân.
Đối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được qua phim ảnh, gnười Mỹ đã dùng lựu đạn và vũ khí để chiếm lại từng căn nhà. Khi chiếm được khu vực nào thì nhà cửa của khu vực đó coi như thê thảm. QLVNCH thì nghèo nàn hơn, không thể dùng số lượng đạn dược như vậy cho chiến tranh trong thành phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tài sản dân.
Lúc này, dân Phú Long đã di tản hết. Tiểu Đoàn chúng tôi tiến từng bước một, chậm, vì VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi mình di chuyển trên hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng quân nới nào thì chỉ trong vòng 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Đại Úy Quý đã đơn thân độc mã ra quan sát chiến trường. VC bắn vào áo giáp của ông mà đầu đạn vẫn còn trong áo.
Sau vài ngày, chúng tôi cũng đã giải tỏa được khu vực bên này Quốc Lộ 1, tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long.
Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Đại tá Nghĩa đã dời BCH từ Lầu Ông Hoàng ở Phú Hài, tới Bải Thương Chánh để chỉ huy và sẵn sàng rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào.
Trong tình trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đi với một người xạ thủ súng cối 81ly, đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi làm bảng tác xạ, để kịp thời yểm trợ các vị trí khi được thông báothông báo, bằng khẩu súng cối 81 ly, khá chính xác.
Thời gian không còn tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không còn biết đến ngày tháng nữa. Sau này, tôi chỉ dựa vào sách để biết ngày mất Phan Thiết chứ thật tình tôi không biết là ngày 18, 19 hay 20/4/75.
Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đài quan sát coi VC đi về hướng nào. Đài quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được gì. Đêm ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81, tôi được lệnh xếp càng súng, bỏ sẵn trên xe và đợi lệnh . Trung Úy Ba vừa cười vừa nói với tôi: ” Thắng, mày đừng có chạy trước nghen”. Tôi trả lời: ” Tôi sẽ chờ Tiểu Đoàn, có di thì cùng đi, có chết thì cùng chết”.
Tôi theo dõi tình hình qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán nhưng không bên nào nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Đoàn. Đại Úy Quý gọi về Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Đoàn chúng tôi về “Mã Trái Bí” chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Đoàn chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi.
Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quên tên đã nói rằng: “Tiểu Đoàn chạy kệ họ, mình phải tử thủ. Đứa nào chạy tao bắn bỏ mẹ”.
Chính câu nói này làm tôi vẫn còn thấy nhục nhã từ ngày cuối cùng của Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngày mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi, tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra, tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục chiến đấu. Tôi theo Tiểu Đoàn di chuyển về Mã Trái Bí (mật mã của Lầu Ông Hoàng), nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi liên lạc được với Tiểu Khu và được lệnh về tăng phái cho Thiếu Tá Hàng Phong Cao (Hải Long). Tiểu Đoàn di chuyển suốt đêm về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi nhưng không có lệnh nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng, gặp nhiều người lính bỏ ngủ, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải Long) đã ra tàu đi rồi. Vì Chi khu đả bỏ ngõ, nên Đại Uý Quý phải tìm thuyền đánh cá, để đưa TD249/DPQ về Vũng Tàu
B-TỬ CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ PHAN THIẾT:
Trong ngày 18-4-75, tình hình Phan Thiết đã bắt đầu hỗn loạn, dù giặc vẫn còn ở rất xa, bên kia phòng tuyến của các Đơn Vị DPQ/BT đang tử thủ tại Tường Phong, Đại Nẳm, Phú Hội, Phú Long và Quận Hải Long. Từ 7 giờ đêm 18-4, sau khi BCH Nhẹ của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, rút về Phan Thiết ra biển, thi TrD 6/SD2BB và Thiết Giáp, cùng các TD249/DPQ, TD275/DPQ, DD283 và 290/DPQ biệt lập cũng rút, cùng lúc với Chi Khu Hải Long. Trong Thị Xã Phan Thiết, lúc 9 giờ tối đêm 18-4, xe tăng và bộ binh của Bắc Việt, đã chiếm được Tòa Hành Chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn còn nhiều Đơn Vị DPQ /BT chống trả như DD206 Trinh Sát của Đại Uý Lê Văn Trò, ĐĐ954/DPQ của Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tiểu Đoàn 229/DPQ của ThT Tiến, Trung Tâm Yểm Trợ TV của ThT Phạm Minh, Yếu Khu Châu Thành của ThT Cư và Xã Châu Thành Phan Thiết của ThT Hải. Nói chung, khắp thành phố lửa đạn mịt mù, VC tuy vào được trong thành phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không dám bung ra trong đêm, vì chỗ nào cũng còn quân ta chiến đấu , chứ không tan hàng như các địa phương khác. Trong lúc đó, máy truyền tin của ba BCH.Bình Thuận vẫn hoạt động liên tục, ra lệnh cũng như hướng dẫn các đơn vị , tới các vị trí an toàn, chờ các chiến hạm của BTL.Vùng 2 Duyên Hải, vào vớt chở tới Vũng Tàu.. Trong đêm 18-4, Đại Tá Nghĩa, sau khi được một tàu đánh cá chở ra chiến hạm, liền được một trực thăng của QD3, chở ngay về Vũng Tàu, cùng với Đại Uý Đặng Vũ Đàng, Trưởng Phòng 2/TK, để chuẩn bị kế hoạch phương tiện, tiếp đón các Đơn Vị DPQ+NQ/BT , đang trên đường di tản tới. Có là nhân chứng sống thực trong giờ thứ 25 của VNCH, mới biết nào là thân phận của người lính Miền Nam.
Gần nửa đêm 18-4-75, Thiếu Tá Nguyễn Cư, Yếu Khu Trưởng YK Châu Thành, nhận lệnh trực tiếp của BCH.TK/BT ban lệnh cho tất cả các Đơn Vị DPQ đang chiến đấu, trong thành phố, cố gắng tập trung về Bến Tàu Kim Hải, phía sau Phi Trường và QYV. Đoàn Mạnh Hoạch Phan Thiết. Do đó, ngay trong đêm, DĐ954/DPQ của DU.Mai Xuân Cúc , chiến đấu tại Ấp Đại Hòa, đã phải vượt sông Cà Ti, tới Quận Đường Hàm Thuận ở Ngả Hai, rồi từ đó băng ngang qua Phú Khánh, đến điểm tập trung Kim Hải.
Kính phục nhất là tại QYV. Đoàn Mạnh Họach, trong lúc giặc gần như đã chiếm trọn thành phố, thì trong bệnh viện, ngoại trừ Chỉ Huy Trưởng, Thiếu Tá Bác Sĩ Võ Đạm (Hiện có phòng mạch tại Boston-Mỹ), khuân vác tất cả đồ đạc và cõng vợ con, trốn về Sài Gòn, để kịp qua Mỹ, trước khi giặc vào. Còn đơn vị, từ các Y,Nha, Dược Sĩ cho tới quân nhân cơ hữu các cấp , dù biết giờ 25, vẫn miệt mài làm việc, cứu sống bao sinh mệnh của thương binh và đồng bào chiến cuộc. Do nhu cầu, Đại Uý Y Sĩ Lê Bá Dũng, khi vào Cục Quân Y tại Sài Gòn lãnh thuốc men và y cụ, đã được Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục trưởng Cục QY, bổ nhiệm làm Q.Chỉ Huy Trưởng , đồng thời ban báo thị tầm nã, việc đào ngũ của ThT Đạm. Ngày 8-4-75, Đề Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lênh Hải Quân có tới Phan Thiết họp với Đại Tá Nghĩa, để soạn thảo kế hoạch di tản đường biển, nếu Bình Thuận bị nguy cấp. Dịp này, TK đã cấp cho QYV một máy truyền tin PRC25, nhờ vậy có thể cập nhật tin tức từng giờ.
Trong ngày 18-4-75, dù Phú Long mịt mù lửa đạn, nhưng mặt trận Nam Phan Thiết vẫn còn an ninh, vì đã có sự phòng thủ của Liên Đoàn DPQ.Hàm Thuận của Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng. Ngoài ra khu vực này còn có nhiều đơn vị khác hiện diện, như Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhất là 2 TD/BDQ di tản từ Quảng Đức về chờ phương tiên vào Nam. Vì vậy QYV. Đoàn Mạnh Hoạch rất an toàn. Chừng 7 giờ tối, VC đã vào Phan Thiết và ác chiến trong thành phố, QYV nhờ có máy PRC25, nên biết tin tức. Cùng lúc, lại có một đơn vị của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh hướng dẫn, trên đường tới Bến Tàu Kim Hải, có liên lạc với QYV cho biết tin tức chiến sự. Theo Phó Tỉnh Trưởng BT. Phạm Ngọc Cửu, lúc đó còn đang ở Phan Thiết, thì hai chiếc xe thiết giáp tắt đèn chạy ngang qua đó, là của quân ta, chứ VC tới trưa ngày 19-4-1975 mới dám lên khu vực này, sau khi QLVNCH đã di tản hết.
11 giờ 30 khuya cùng ngày, DU Dũng mới nhận được lệnh di tản. Cũng may, địa điểm của bệnh viện nằm sát bờ biển,lại đã làm sẳn con đường, nên việc di chuyển thương bệnh binh ra tàu Hải Quân, cũng không trở ngại. Mặc dù lúc đó chỉ còn một phần quân nhân ở lại, nhưng cũng đã di tản được 200 thương bệnh binh .
Từ sáng ngày 19-4-1975, các đơn vị DPQ /BT đã tập trung rất đông trên bãi biển Kim Hải, để chờ tàu vào rước. Buổi sáng nước thủy triều xuống, nên chiến hạm không thể vào sát bờ, nên phải thả các loại tàu há mồm LCM vào rước các đơn vị. Loại tàu này có thể chở được tới 2 thiết vận xa M113. Công tác hoàn tất lúc 12 giờ trưa nhưng các chiến hạm của Vùng 2 Duyên Hải, vẫn đậu ở ngoài khơi Phan Thiết chờ lệnh, tới 2 giờ trưa mới lên đường và cập bến Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng, ngày 20-4-1975. Tại Bến Đình, lúc đó có sự hiện diện của Đại Tá Vũ Huy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tàu và Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, TT.BT chực sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị và tiếp tục chiến đấu khắp lãnh thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, mới rã ngủ. Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK.Bình Thuận, bị chở về Xuân Lộc và tập trung trong doanh trại củ của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43/SD18BB và đi cải tạo chung với Sĩ Quan của SD5BB, khắp các trại tù miền Bắc. Ngoài ra, đêm 18-4-1975, Thiếu Tá Dụng Văn Đối, QT.Hàm Thuận , đã chỉ huy các Tiểu Đoàn DPQ, Liên Đội NQ, Cán Bộ XDNT, Cảnh Sát, Viên Chức Xã Ấp thuộc Chi Khu, cùng với Pháo Binh và một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vào tới Bình Tuy. Sau đó được tàu Hải Quân chở vào Vũng Tàu và tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Tướng Niệm, đang trấn giữ tại Cầu Bến Lức-Long An , cho tới khi tàn cuộc.
20-4-1975, BT coi như đã lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản thị xã, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyên làm Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16 địa điểm để các quân, công,cán,cảnhVNCH tới khai báo trình diện, để cùng nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiêm,Sông Mao và mọi nẽo đường tận tuyệt.
Cuộc chiến đã qua nhưng không bao giờ xoá nhòa nổi vết tích trong tâm trí người Việt. Vinh hay nhục thì nay đã được lịch sử xác nhận, nên không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bày suốt 30 năm qua., nên chỉ xin bạn bè ai có dịp về thăm quê hương miền biển măn, đừng quên :
‘có xuống bến qua nghĩa địa
đừng quên mặc niệm những hồn oan
bỏ mình trên biển khi di tản
u uất bao năm nỗi hận hờn
đừng quên thăm lại Quân Y Viện
thắp một nén hương mộ bạn mình
lính trận dân lành chung buổi giổ
tháng Phan Thiết hận đao binh…’
Xóm Cồn
Mường Giang
7.4.1975: Trận Chiến Miền Đông
* Cộng quân gia tăng áp lực tại Bình Dương, Long Khánh
Tại miền Đông Nam phần, thuộc vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3/ Quân khu 3, áp lực của CQ đã gia tăng tại Bình Dương, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lệnh; tại Long Khánh, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 18 Bộ binh mà vị Tư lệnh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.
* 2 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng gần Dầu Giây
Ngày 7/4/1975, 2 sư đoàn Cộng quân 341 và 3 CSBV đã khai triển lực lượng tiến về gần Dầu Giây. (2 sư đoàn CQ này đã cùng với sư đoàn 7 CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh vào ngày 9 tháng 4/1975).
*Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bảo vệ phòng tuyến Phan Rang
-Ngày 7 tháng 4/1975, phòng tuyến Phan Rang được bảo vệ với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù còn được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đã tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội hình của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.
QĐ3 Phòng Tuyến Phan Rang


* Tổng lược tình hình 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong vòng 23 ngày, CQ đã chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo trình tự sau đây.
-Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đã chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đã mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.
-Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.(Theo nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang thì diễn tiến tình hình chiến sự tại Lâm Đồng như sau: “Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, thì ” không hề có vấn đề thị xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ý rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.)
- Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh này).
*Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ phòng tuyến Phan Rang
Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉn NinhThuận,Bình Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đã quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến phòng thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tưlệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đã từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đã giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).
Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và Bình Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.
Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệphòng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài Gòn ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.
Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đã khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ phòng tuyến Phan Rang như sau.
Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù còn được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đã tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội hình của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.
* Tình hình Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:
Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđã được vãn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc phòng thủ quanh thị xã và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ còn một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đã bỏ đơn vị vào Nam tìm gia đình.
Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí phòng thủgần thị xã, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ gìnan ninh tại thị xã và các vùng phụ cận. Lực lượng nòng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.
Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và tìnhhình tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
* Phần bổ sung về cuộc hành trình của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam
Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa thì một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đã trình bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một sốsĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớtsau khi ông phải bơi từ bờ.
Trong cuộc hải trình vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đã nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn vì HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, thì lúc đótàu này dơ bẩn và hôi hám vì có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ý,
Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài Gòn là ông xin ở lại trêntàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.
Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một mình Trung tướng Trưởng vào Sài Gòn. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi bãi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổquân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến trình bày: “Lệnh Sài Gòn yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài Gòn. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rõ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài Gòn cho Thủy quân Lục chiến về Sài Gòn để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh thì tôi cũng xuống đây luôn.
Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài Gòn và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đã xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đã có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào phòng của ông.
8.4.1975: Trận Chiến Quốc Lộ 20
* 3 sư đoàn CSBV áp lực nặng phòng tuyến Long Khánh
Sau khi đã điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày 8 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến hiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vậttại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.
Ngày 8/4/1975, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đã thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộng quân, tuy nhiên, các phi tuần này đã gặp khó khăn do màn lưới phòng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh phòng không của Cộng quân.
*Dinh Độc Lập bị dội bom
Cũng trong ngày 8 tháng 4/1975, 1 trung úy Không quân tên là Nguyễn Thành Trung, nội tuyến của VC, đã lái 1 phản lực cơ chiến đấu F5 thả bom xuống dinh Độc Lập. Vụ ném bom này chỉ gây hư hại 1 phần của đại sảnh đường. Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng “tin đồn được truyền đi cho rằng số phận miền Nam đã được định đoạt bởi những thế lực lớn”.
9.4.1975: Trận Chiến Long An
*Cộng quân đột kích vào thị xã Tân An, tỉnh lỵ tỉnh Long An
-Ngày 9/4/1975, cùng lúc CQ mở cuộc tấn công vào thị xã Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh, thì tại tỉnh Long An thuộc phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 25 Bộ binh, vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975, 1 tiểu đoàn đặc công Cộng quân đã đột nhập vào thị xã Tân An (tỉnh lỵ Long An), 1 biệt đội đặc công đã tấn công vào một phi trường cách thị xã Tân An 1.5 km. Lực lượng phòng thủ thị xã và đơn vị Địa phương quân phòng thủ phi trường đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Cộng quân vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày, hạ tại chỗ 25 CQ, tịch thu một số vũ khí đủ loại.
*Mặt trận Long Khánh bùng nổ
Rạng sáng ngày ngày 9 tháng 4/1975, sau khi đã đặt các chướng ngại vật tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, CQ mở cuộc tấn công cường tập vào phòng tuyến Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh. Cùng thời gian, CQ đã pháo kích dữ dội vào căn cứ Không quân Biên Hòa, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, căn cứ Tiếp vận Long Bình.
9.4.1975, Long Khánh Bùng Nổ


*Tổng lược về trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975
Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi đã điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng quân đã pháo kích như mưa vào Căn cứ Khôngquân Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long Bình.
Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đã đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xã.
Cũng với trận tấn công vào vào thời gian đó, CQ tấn công vào khu vực ngã ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn công vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.
Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đã thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần này đã gặp khó khăn do màn lưới phòng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh phòng không của Cộng quân được bố trí quanh vòng đai phòng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh.
*Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh
Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, thì tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị phòng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh vòng đai thị xãXuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại táPhạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.
* Diễn tiến các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975.
Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau.
Tại phòng tuyến quanh thị xã Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đã mở nhiều đợt tấn công vào vị tríphòng ngự của các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnhlỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh tòa vàgiữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùngthiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.
Lực lượng tăng viện và trú phòng đã quyết chiến và đẩy lùi đượccác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đã bị bắncháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốtcầm cự của Cộng quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Tòađã hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại cáckhu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mớitạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.
* Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh
Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ này thuộcmột trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị xã Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binhnày đã được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp.
Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 ( do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, thì kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân thì tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra địch còn chống cự
như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ý định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ tình hình; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra.
Cũng theo tài liệu nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng CSBV Hoàng Đình Hiệp. Các đại đơn vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV).
10.4.1975: Trận Chiến Xuân Lộc
*Trận chiến Xuân Lộc ngày N+ 1
Ngày 10 tháng 4/1975, trận chiến tại mặt trận Long Khánh đã bước vào ngày thứ hai. Sau khi bị đẩy lùi khỏi trung tâm thị xã Xuân Lộc trong buổi chiều ngày 9 tháng 4/1975, 7 giờ sáng ngày 10 tháng 4/1975, CQ lại mở đợt tấn công thứ hai. Khởi đầu là CQ pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại vào thị xã Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, và vào các vị trí trọng điểm dọc theo các phòng tuyến vòng đai tỉnh lỵ, trận mưa pháo kéo dài trong vòng 1 giờ. Sau đó, các đơn vị bộ binh và thiết giáp của Cộng quân đã đồng loạt tấn công vào thị xã này từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Đợt tấn công này đã bị quân trú phòng chận đứng từ các ngã ba dẫn vào tỉnh lỵ.
* Kịch chiến tại ngã ba Dầu Giây
Tại ngã ba Dầu Giây, trận chiến đã xảy ra quyết liệt. Cộng quân áp dụng chiến thuật “xa luân chiến”, các đơn vị Cộng quân thay nhau liên tục mở các đợt tấn công vào hệ thống công sự phòng thủ của quân trú phòng. Để triệt tiêu lối đánh của đối phương, các đơn vị trú phòng VNCH đợi Cộng quân đến gần mới khai hỏa đồng loạt, mỗi đợt tấn công có ít nhất một trung đội Cộng quân đi đầu bị loại khỏi vòng chiến. Để yểm trợ cho các đơn vị phòng ngự, các pháo đội Pháo binh VNCH đã bắn trực xạ chận đứng các đợt tấn công biển người của Cộng quân.
11.4.1975: Trận Chiến Dầu Giây
-Tại Xuân Lộc, đến sáng ngày 11/4/1975, trận chiến đã bước vào ngày thứ ba. Sau hai ngày giao tranh 9 và 10/4/1975, hơn 500 CQ bỏ xác tại trận, 8 chiến xa T54 bị bắn cháy, lực lượng phòng ngự VNCH thu được gần 200 vũ khí đủ loại. 7 giờ sáng ngày 11/4/1975, hai trung đoàn CQ từ hướng đông bắc và tây nam tấn công vào trung tâm thị xã, đây là đợt tấn công thứ ba. Quân trú phòng từ những công sự chiến đấu quanh các khu vực đã giao tranh quyết liệt với Cộng quân.
-Tại ngã ba Dầu Giây, liên tục trong 3 ngày từ 9 đến 11/4/1975, CQ đã tung 2 trung đoàn có thiết giáp yểm trợ quyết chiếm khu vực này, để từ đây mở những cuộc tấn công lớn vào phòng tuyến của Trung đoàn 52 BB đang án ngữ hướng tây bắc của thị xã tỉnh lỵ. Tính từ 6 giờ sáng ngày 11/4/1975 đến 18 giờ ngày 11/4/1975, CQ đã mở đến 6 đợt xung phong biển người vào các vị trí ở mặt trận Dầu Giây, và đều bị đẩy lùi.
Cuộc Di Tản Của Tiểu Khu Bình Thuận
Cuộc Di Tản Của Tiểu Khu Bình Thuận Vào Những Ngày Cuối Tháng 4-1975
Thành phố Phan Thiết sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc Việt, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không còn thơm nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đã diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài Gòn. Trong cơn mưa rào nước mắt tháng tư, mọi người ai cũng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt , giữa cơn bão tố loạn cuồng.
Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lưa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận Bình Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.
Suốt thời tuổi thơ sống ở Phan Thiết, đã quen với màu hoa phượng vỹ ven đường và tiếng ve rên tỉ tê trong gốc vông, một niềm chờ đợi. Nhưng sao tháng tư năm đó, màu hoa phương kể cả tiếng ve ran, như đã đổi thay một cách lạ lùng. Bởi vì màu phương không còn là má em hồng thắm mỗi khi e thẹn, còn tiếng ve lại nỉ non rên khóc, khiến cho người lính trận thêm đứt ruột, buồn rầu.
Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc thêm cô quạnh, vì một số lớn người thành phố có phương tiện, đã nối tiếp di tản về nam lánh tai ương chiến nạn. Nhưng ai còn lại, cũng ở lỳ trong nhà vì thời thế không biết đâu mà mò. Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ còn có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nhòa vì lệ và giọt mưa cô đơn, lăn veo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vữa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, thì tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa rã, đã bị dầy mồ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính , ngày mưa đêm gió, nước ngập tới võng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước , từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng mình.
Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đã làm nhạt nhòa nước mắt của người lính, bao chục năm đã sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xã hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.
Ra đời trong một đêm mưa đại bác, thời gian Pháp và Việt Minh đánh đấm loạn ngầu, ngay trong những đường phố Phan Thiết. Năm 1945 Việt Cộng cướp chính quyền, ba má bỏ thành phố, gánh anh em tôi, giữa cơn mưa chạy loạn. Từ đó cho tới nay, mưa và khói lưa cứ theo tôi hành hạ một đời. Ở đây nơi quê người, vậy mà cũng đã mấy chục mùa mưa đợi chờ thương nhớ. Năm nay tháng tư tuổi già, nhưng mà hồn sao vẫn cứ ngơ ngác , như muốn chực ôm choàng lấy mùa hè, hoa phượng . Ngồi trong nhà đếm giọt mưa tí tách, lại cứ tưởng tiếng mưa năm nào, gõ nhịp trên tàu chuối sau hè. Mưa Phan Thiết giống mưa Hạ Uy Di, bất chợt từng cơn đổ mưa như trút nước và ngưng. Nhưng mưa nào cũng buồn, nhất là những ngày tháng tư gợi nhớ, năm nao ngày mưa hò hẹn tình đầu. Năm nay cũng vẫn năm nào, một mình cứ chạy ngược thời gian, trở về tuổi thơ, vẫn còn núp lén đâu đó. Cuối cùng rồi cũng nắm được áo em, đồng đội trong giọt nước mắt cuối đời, khi chuyến tàu ngườc đường dỹ vãng, vừa ghé ga Phan Thiết, đúng vào những ngày tháng tư mất nước, của hăm chin năm về trước, mà khóc và cô đơn trong nổi đổi đời..
1-NHỚ VỀ NGƯƠI CHỈ HUY CŨ TẠI BÌNH THUẬN :
Giờ G, ngày N của liên quân khối cọng sản đệ tam quốc tế, tại Sài Gòn là 24 giờ ngày 29-4-1975. Đây là kế hoạch của Lê Duẩn , đặt ra cho tất cả các lộ quân Bắc Việt, các đội biệt động nằm vùng, đơn vị đặc công và cán bộ đảng, cán bộ chính trị..ngoi lên để đánh chiếm Sài Gón. Tại Phan Thiết, trái lại đã không có giờ G hay ngày N, vì từ năm 1955 tới 1975, VC và Việt gian Bình Thuận, lúc nào cũng có kế hoạch giờ G, ngày N, để chiếm cho được vùng đất, mà nhân gian thường gọi đó là ‘ biển bạc, rừng vàng’.
Sau tết Mậu Thân 1968, dù tránh được tám máu và cảnh xác người quốc gia cột đá neo ghe, sau ba lần bị cọng sản tấn công. Nhưng tình hình an ninh tại Bình Thuận càng thêm rối ren, vì việt gian bên trong, việt cộng bên ngoài và trí thức, nhà giàu toa rập với sư-cha, đâm sau lưng người lính..Dù đả thay tỉnh trưởng từ Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân tới Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, nhưng tình hình càng tuyệt vọng, nhất là trong giai đoạn Quân Mỹ sắp rút về nước, càc đơn vị chính qui đang tăng phái cho Bình Thuận như SD23BB, Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, cũng rục rịch di chuyển , để đáp ứng với nhu cầu chiến thuật, chiến lược của giai đoạn quân sự.
Trong bối cảnh sống còn của một tỉnh lớn và quan trong nhất Miền Trung. Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, cũng như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, quyết định thay thế hai tỉnh trưởng Bình Định và Bình Thuận. Như vậy, cuối năm 1969, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn, được chỉ định rời Pleiku xuống Phan Thiết, làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận, thay thế Đại tá Đàng Thiện Ngôn.
Cũng từ đó, nhờ tài thao lược, sự can đảm dấn thân nhưng trên hết là công lao góp phần xương máu của tất cả dân, quân, cán, chính Bình Thuận..cũng như những đơn vị tăng phái, mà quan trong nhất là không quân. Đó là những chiến sĩ can trường, thuộc Không Đoàn Ó Đen, của Trung Tá Khôi, đóng tại phi trường Bửu Sơn-Phan Rang. Trong số này có người hùng Lý Tống,lái những con chim sắt phản lực A 37, hàng ngày nhởn nhơ trên khắp các vòm trời Bình Thuận, từ chiến trường bất chợt cho tới các khu vực được oanh kích tự do, tại các mật khu Lê Hồng Phong, Nam Sơn..rừng nuí không có người ở. Do sự phối họp nhịp nhàng chiến thuật, giữa tiểu khu và không đoàn, nên tất cả các cuộc hành quân vào mật khu hay sào huyệt của giặc, luôn là sự phối hợp giữa bộ bình dưới đất và oanh kích trên đầu, khiến VC hoang mang, rồi nghi kỵ phe mình có gián điệp. Ngoài ra, không thể không nhớ tới sự yểm trợ tích cực của Hải quân Hoa Kỳ, với các pháo hạm hoạt động ngoài hải phận quốc tế, dọc theo lãnh hải VN, trong đó có Bình Thuận. Trong thời gian hai phía thi hành cái gọi là Hiệp Định Ba Lê 1973 BỊP, do Nixon-Kissinger dàn dựng để tái đắc cử Tổng Thống và bán đứng VNCH. Bình Thuận được thông báo, là Hải Quân Hoa Kỳ có lệnh yểm trợ cho Tiểu Khu, trong thời gian này. Để hoàn thành nhiệm vụ, tránh pháo nhầm khu vực dân cư và quân ta, Hạm Đội Mỹ cần thả máy điện tử (sensors), tại các khu vực có hay khả nghi là vùng giặc đóng, để tiện theo dõi và phản ứng khi cần. Từ năm 1969-1975, ai cũng biết Đại Tá Nghĩa là cấp chỉ huy năng động, thường tới các tiền đồn, ấp xã, phân chi khu, hay Đơn vị Nghĩa Quân hoặc Xây Dựng Nông Thôn, vùng hẻo lánh, để ngủ đêm. Cho nên ta cũng không lạ khi biết chính Đại Tá Nghĩa, rủ ông cố vấn Mỹ của Tiểu Khu là Phillip Cook, cùng với mình và con trai là Ngô Tấn Lể và một phi công, thực hiện phi vụ đầy nguy hiểm này. Đây cũng là một cách, trả lời cao thượng cho người Mỹ biết, không phải QLVNCH, ai cũng không chịu chiến đấu hoặc hèn nhát. Đó chỉ là thiểu số, vì nếu cứ nghĩ theo người Mỹ nói, chắc VNCH đã bị Hà Nội đô hộ từ lâu đời, chứ không phải tới tháng 4-1975.
Bình Thuận đất rộng người thưa nhưng lại là một địa phương rất phức tạp về sắc tộc và tín ngưỡng. Người Kinh tuy chiếm đa số nhưng phần lớn sinh sống tại thị xã Phan Thiết và các quận phía Nam. Tại bốn quận miền bắc gồm Hòa Đa, Hải Ninh, Phan Lý Chàm và Tuy Phong..gần như là giang sơn của người Tàu-Nùng và người Chàm. Trong tỉnh, ngoài Phật và Thiên Chúa Giáo là hai tôn giáo chính, còn có các tín ngưỡng dân gian như Thờ Cúng Nam Hải Đại Tướng Quân của ngư dân, Thờ Cúng Thầy Chúa trên Đảo Phú Quý, Hồi giáo và Bà La Môn của người Chàm cũng như các tôn giáo Tin Lành, Bà Hai, Cao Đài..Nói chung, trong thời gian làm tỉnh trưởng, Đại Tá Nghĩa dùng quân sự để chống Việt Cộng, Việt Gian và sử dụng tình cảm, ngoại giao, để thu phục lòng người. Nhỡ vậy mà suốt thời gian còn lại của Bình Thuận, coi như không có biểu tình, xuống đường và cảnh đâm sau lưng chiến sĩ như các thời tỉnh trưởng khác, nhất là mấy năm Trung Tá Điệp Viên Bắc Việt Đinh Văn Đệ (1965-1967).
Trong những việc làm đầy ý nghĩa nhất của Chính quyền VNCH lưu lại sau ngày 30-4-1975, ngoài phố xá đẹp đẻ, dân trí được giáo dục mở mang và ngôi trường Trung Học công lập Phan Bội Châu uy nghi nề nếp, còn có hai công trình văn hóa do Đại Tá Nghĩa thực hiện, đó là Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo, đứng trước Tòa Hành Chánh Tỉnh, kế dòng sông Cà Ty. Tượng đài đêm ngày nhắc nhớ dân chúng cũng như quân nhân các cấp, phải trung thành với dân nước, hy sinh cho chính nghĩa quốc gia dân tộc, để không bị cười chê là hạng tiểu nhân, phản bội, thấy lợi đã chạy theo Việt Cộng, hại nước, phản dân, ngàn năm mang tiếng là Việt Gian hèn hạ. Ngôi tượng thứ hai là Tượng Phật Bà Quan Âm, ngự trên đỉnh cao nhất của đồi Bà Nài, kế lầu ông Hoàng, nơi xảy ra mối tình diễm tuyệt của Hàn mạc Tử và Mộng Cầm, một thời hoa mộng. Tượng Phật Bà đứng quay mặt hường về Biển Đông trùng hằng sóng vổ, với đôi mắt nhân từ và bàn tay mở rộng, như hằng sẵn sàng cứu trợ nhân sinh, trong những phút phong ba bảo táp.
Tất cả mọi sự chẳng qua cũng chỉ làm để thu phục nhân tâm, trong một tỉnh mà cộng chung Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian như Đạo thờ Cúng Ong Bà, Thờ Cúng Nam Hải Đại tướng Quân, Thầy Chúa, Lão Giáo, Bà Hai, Cao Đài với số tín đồ chiếm hơn 80% dân số toàn tỉnh, thì cái sự mà Tỉnh trưởng mời phe đối lập như Vũ văn Mẫu, Hồng Sơn Đông, Phật giáo Ấn Quang..tới cắt băng khánh thành hai pho tượng để đời trên, xét cho cùng, là một thái độ khôn ngoan của người chỉ huy toàn tỉnh.
Thế nhưng cũng từ đó, Đại Tá Nghĩa đã bị báo cáo tới Tổng thống Nguyễn văn Thiệu là thiên vị, ngả theo phe Dương văn Minh. Cũng may trong cuộc bầu cử 1971, Tổng thống Thiệu tái đắc cử, tại Phan Thiết, Trương Gia Kỳ Sanh lọt sổ, nhường ghế cho Nguyễn Quốc Biền (công giáo) và Đinh Xuân Dũng (Phật Giáo).nên Đại Tá Nghĩa mới được để yên, và cũng nhờ vậy mà Bình Thuận-Phan Thiết, tiếp tục chiến đấu cùng giặc Cộng, cho tới giờ phút cuối cùng vào ngày 19-4-1975.
Con người trên cõi đời này, có ai dám vỗ ngực nói ta là tốt hay đúng hoàn toàn. Suốt thời gian làm tỉnh trưởng Bình Thuận, Đại tá Nghĩa cũng đâu có ngoại lệ, nên chắc chắn là cũng có lúc sai lầm . Những lời đồn đãi về việc không phát lương cho lính trong tháng 3-1975 hay lớn hơn là chuyện khai quang ủi đất ở Lương Sơn..Nhưng tuyệt đối nói Đại Tá Nghĩa tham nhũng, nuôi lính ma lính kiểng, bán chức quận hay các đơn vị trưởng tiểu đoàn, đại đội..là chuyện khôi hài, kể cả con nít cũng không tin. Vì thời gian 1969-1975, Bình Thuận chống tham nhũng dử tợn. Những Nguyễn Quang Chùy (Trưởng Ty Xã Hội), Thiếu tá Nguyễn Thanh Xuân (Quận trưởng Tuy Phong), Trung Uý Hàng Cà (sĩ quan Ban 4/Chi khu Tuy Phong.) và hằng trăm hằng ngàn những sâu bọ khác bị bứng ghế, vào tù ..đủ nói lên sự cương quyết làm sạch xã hội và guồng máy chánh quyền Bình Thuận. Một cấp chỉ huy bê bối mà dám hành động tày trời như thế, thử hỏi làm sao sống yên với Trúc Viên, Lê văn Tho, Nguyễn Ngọc Hương (Sóng Thần), Phú Ngữ (Điện Tín), Đinh Xuân Dũng (Dân Biểu Đối Lập)..
Theo Đại Tá Nghĩa, thì Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bắt đầu nghi kỵ Ông từ sau cuộc bầu cử 1971. Chắc là tình hình chính trị càng lúc càng rối ren, nên Tổng Thống phải để yên. Sau này ở Mỹ, khi còn sinh tiền, có lần Tổng Thống Thiệu tới thăm Đại tá Lưu Yểm, tỉnh trưởng Biên Hòa, ở Baloxi-Mississipi, đã tránh né không muốn tiếp Đại Tá Nghĩa. Tóm lại con người có cái nhầm lẩn lớn, là lúc nào cũng tưởng mình hiểu rõ lịch sử, trong khi lịch sử thì ngược lại chỉ là những mơ hồ và huyễn hoặc. Nói đúng hơn, như Alexis Tocqueville nói :’ lịch sử đâu có khác chi một cuộc triển lãm, tranh vẽ thì ít , trái lại bản sao và phóng tác thì nhiều. Đó là nơi bất tường của quá khứ. Người ta hay mượn những con số, ngày tháng chính xác, để trộn vào đó những tưởng tượng, rồi kết luận là lịch sử ‘. Nói cách khác, ngay cả những người có vai trò lớn trong lịch sử, phần lớn ,cũng đều không nói sự thật.. Điển hình là Hồ Chí Minh, Nixon, Kissinger, Bill Clinton..Đọc sử là đọc những sự kiện có rồi, được chép lại, sau khi bị lọc lựa qua lăng kính của thời họ sống. Cho nên khi nói tới một giai đoạn lịch sử, có liên quan tới nhân vật còn sống, rất khó giữ bình tỉnh, để mà nhận định trong lúc bên tai rạt rào những bia miệng bia đời.
Dù gì chăng nửa, trong một xã hội đầy nhiễu nhương loạn lạc. Đội trên, đạp dưới, trí thức mượn đầu heo nấu cháo để vinh thân phì gia. Những cấp chỉ huy củ tại Bình Thuận như Lưu Bá Châm, Đàm văn Quý, Nguyễn Khắc Tuân , Phạm Ngọc Cửu..và nhất là Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, xét cho cùng khi xếp hạng, cũng vẫn tốt hơn hằng trăm ngàn lần, những sâu bọ khác đội lớp người, làm quan, làm tướng, chính khứa, khoa bảng, sư-cha..mà chỉ hại dân, hại nước, khiến cho VN ngày nay, vào thế kỷ 21, mà vẫn còn ngoi ngóp trong vũng bùn ô uế, dưới gót sắt tù gông nô lệ của rợ Hồ.
2-CUỘC DI TẢN CỦA TIỂU KHU BÌNH THUẬN, VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4-1975
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vỡ, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương..cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QD3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SD2BB là tướng Trần văn Nhựt, phóng lên máy bay, vù ra tàu HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ, nên thoát nạn. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được tàu HQ vớt tại Cà Na. Nói chung, toàn thể quân cán chính bốn quận miền Bắc như Tuy Phong, Hải Ninh, Phan Lý Chàm và Hòa Đa, kể cả Tiểu Đoàn 274/DPQ của Thiếu Tá Xuân, làm Tiểu Đoàn trưởng, đóng tại Cầu Đá Chẹt, cũng rút theo các Bộ Chỉ Huy Chi Khu, tại Phan Rí Cửa. Như vậy từ đó, ranh giới của VNCH và Bắc Việt là Núi Tà Dôn, trên Quốc lộ 1, chạy ra tới quận Hải Long, trên bờ biển Đông. Cũng trong ngày 16-4-1975, chi khu Thiện Giáo do TD230/DPQ của Đại Uý Mai Vi Thành và TD /DPQ của Thiếu tá Tư, cũng được lệnh, rút về gần Phan Thiết. Như vậy Bình Thuận đã bỏ ngỏ 5 chi khu, chỉ còn lại các chi khu Hải Long của Thiếu Tá Hàng Phong Cao, chi khu Hàm Thuận của Thiếu tá Dụng Văn Đối, Xã Phan Thiết của Thiếu Tá Nguyễn Thanh Hải nhưng quân số vẫn còn nguyên vẹn. Hai BCH/TK, một của Đại Tá Nghĩa, đóng tại Lầu Ông Hoàng, một của Trúng Tá Trí, TKP kiêm Tham Mưu trưởng, đóng tại Duyên Đoàn 28 Phan Thiết. Tại Hàm Thuận, tình hình an ninh khả quan vì Quận Đối đã tổ chức lại các đơn vị DPQ thành Liên Đoàn DPQ.Hàm Thuận, gồm có TD275/DPQ của Thiếu Tá Bình, TD229/DPQ của Thiếu Tá Tiến , các Đại Đội biệt lập và các Liên Đội Nghĩa Quan, các toán Xây Dựng Nông Thôn..đóng rải rác khắp xã ấp, từ Mường Mán về tới chi khu.
Tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, nằm trên ngọn đồi sát biển, thuộc ấp Kim Hải, xã Kim Bình, kế phi trường và hải cảng, cũng được các Đơn Vị DPQ. Hàm Thuận và nhất là sự hiện diện của 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân, thuộc Liên Đoàn 24 BDQ, rút về từ Tiểu Khu Quảng Đức, nằm tại Phi trường Phan Thiết, chờ phương tiện di chuyển về Nam, bảo vệ. Tóm lại, từ đầu tháng 4-1974, Chỉ Huy trưởng QYV/DMH là Thiếu tá Đạm, cùng lúc với Quận trưởng Thiện Giáo là Thiếu tá Lê Văn Thông, bỏ đơn vị , trốn về Sài Gòn, sau đó cả hai, cõng vợ con vàng bạc , đeo máy bay Mỹ di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 30-4-1975. Nhưng tình hình Quân Y Viện vẫn không thay đổi, một mặt tiếp tục bổn phận nghề nghiệp, cứu chữa cho các thương bệnh binh, mặt khác tổ chức phòng thủ doanh traị . Đây là truyền thống đã có từ thời Thiếu Tá Lãng, làm CHT , nên trong Tết Mậu Thân 1968, QYV đã chống lại sự tấn công của VC rất hữu hiệu. Từ đầu tháng 4-1975 cho tới khi được lệnh di tản vào sáng ngày 19-4-1975, cơ cấu chỉ tại QYV gồm có : -Đại Uý Y Sĩ Lê Bá Dũng (con của Thầy Lê Bảo, Hiệu trưởng trung học tư thục Bạch Vân), Chỉ Huy Phó/QYV-XLTV Chỉ Huy trưởng. – Đại Uý Y Sĩ Nguyễn Văn Lâm, trưởng Khối Giải Phẫu-XLTV/Chỉ Huy Phó. – Đại Uý Hành Chánh Nguyễn Văn Tư, Trưởng ban tài chánh, kiêm Phát Ngân viên. – Trung Uý Trợ y Tôn Thất Phùng ( PBC 57-64, con Phó TT/BT Tôn Thất Tương). – Trung Uý Phạm Văn Công, sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị..
Bắt đầu ngày 18-4-1975, tình hình Phan Thiết đã hỗn loạn. Quân Bắc Việt từ các hướng, tấn công các Đơn Vị DPQ tại các phòng tuyến trên Liên tỉnh lộ 8, Phú Long..bằng biển người và tăng pháo hiện đại của Nga-Tàu và khối cọng sản Đông Âu. Trong lúc đó Bình Thuận chỉ có các Đơn Vị Địa Phương Quân-Nghĩa Quân-Cảnh sát Dã Chiến và Xây Dựng Nông Thôn, không có pháo binh, không yểm. Tàu Hải Quân của Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải , do Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh làm tư lệnh, chạy đầy ngoài biển nhưng cũng không thể nào yểm trợ hải pháo cho quân bộ bên trong, vì nước cạn và tàu thì không dám cặp sát bờ, sợ bị bắn trúng như tại Biển Cà Ná ngày 16-4-1975.
Do tình hình trên, lần lược các phòng tuyến đều vở, BCH/TK của Đại tá Nghĩa phải bỏ Lầu Ông Hoàng, rút theo bờ biển từ Phú Hài về Thương Chánh và được một ghe đánh cá chở ra chiến hạm. Trung Tá Trí thì rút theo Duyên Đoàn 28, còn Phó Cửu, Trung Tá Mai Lang Luông và các viên chức hành chánh, cũng được một tàu đánh cá dân sự, chở thẳng tới Vũng Tàu. Riêng chiếc trực thăng của Đại Tá Nghĩa, đã được viên phi công lái giùm về Sài Gòn, vào ngày 17-4-1975, để kịp thời gian di tản ra hạm đội Hoa Kỳ. Còn Chi Khu Hải Long của Thiếu Tá Cao cũng rút bằng tàu. Các Đơn vị DPQ phòng thủ trong thị xã như DD206 Thám Sát Tỉnh Của Đại Uý Lê Văn Trò, DĐ948 của Đại Uý Mai Xuân Cúc, khi VC tràn ngập Tiểu Khu và Tòa Hành Chánh Bình Thuận, đã được Thiếu Tá Cư, Yếu Khu trưởng yếu Khu Phan Thiết, cho lệnh lội băng sông Cà Ty, tìm cách tập trung tại Bến Tàu Kim Hải, để các chiến hạm Hải Quân , chở về Nam.
Tóm lại dù quân Bắc Việt, đã làm chủ Thi Xả Phan Thiết, đêm 18-4-1975 nhưng giặc vẫn không dám tấn công lên Phi trường, Bến Tàu và QYV, vì tại khu vực này, có rất đông các Đơn vị DPQ và 2 Tiểu Đoàn BDQ, cũng như hằng chục chiến hạm xuôi ngược ngaòi khơi. Lúc 8 giờ sáng ngày 19-4-1975, một phản lực cơ A 37, từ Biên Hòa ra bỏ bom đánh sập các cây cầu trên sông Mường Mán . Nhưng phi cơ đã lạc mục tiêu, bom bỏ nhằm khu vực dân cư tại Phố Gia Long-Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Tri Phương, làm hư hại nhiều nhà của dân chúng.
Ngày 19-4-1975, lúc 8 giờ sáng, Đại Uý Lê Bá Dũng nhận được lệnh di tản, nên cho phép các quân nhân dưới quyền được tuỷ tiện. Riêng toàn bộ Chỉ Huy/QYV đều xuống tàu, di tản vào Nam. Buối sáng nước thủy triều xuống, nên các Chiến hạm HQ phải đậu ngoài xa nhưng đã thả rất nhiều Tàu Há Mồm LCM vào bờ chở các Đơn Vị. Loại LCM này có thể chở tới hai Thiết vận xa M113, nên công tác chuyển quân hoàn tất lúc 11 giờ sáng cùng ngày. Sau đó, tất cả LCM và Chiến hạm HQ rút ra khơi để đợi lệnh, tới 2 giờ trưa ngày 19-4-1975, thì khởi hành về Vũng Tàu. Như vậy, tại Bình Thuận, cuộc di tản, dù trong giờ thứ 25 nhưng nhờ có tổ chức và trật tự, nên đã thành công tốt đẹp. Các Đơn vị DPQ/Bình Thuận, ngoài Liên Đoàn Hàm Thuận của Quận Đối, di tản đường bộ tới Bình Tuy, hầu hết đã tập trung và được Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải, chở tới Vũng Tàu vào lúc 2 giờ khuya, ngày 20-4-1975. Tại Bến Đính, Đại Tá Thị trưởng Vũng Tàu là Vũ Duy Tạo ra đón và ngay trong đêm, quân xa đã dưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, để bổ sung và tái trang bị, tiếp tục chiến đấu khắp các mặt trận tại tỉnh Phước Tuy, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi Dương Văn Minh, dùng quyền Tổng thống và Tổng Tư lệnh Quân đội VNCH, bắt buộc mọi cấp đầu hàng giặc. Từ đó QLVNCH nói chung và người lính DPQ/Bình Thuận mới rã ngủ.
Trong cuộc di tản tháng 4-1975 tại Bình Thuận, làm sao mà quên được một trái tim vĩ đại, đó là Linh Mục Joe Delvelin, người đã dẫn dắt Đoàn con chiên Việt Kiều, từ đất Chùa Tháp về Bình Thuận, vào năm 1970, khi bị dân Kampuchia cáp duồn tận tuyệt.. Từ đó, đồng bào được định cư tại Ấp Bình Tú, kế phi trường Phan Thiết. Riêng Linh Mục Joe, sống thanh bạch với con chiên, trong một căn nhà gỗ tiền chế, thanh bạch. Và dù có một Trung Đội Nghĩa Quân bảo vệ Ấp nhưng suốt thời gian bao năm, VC vẫn không tha kẻ tu hành, bởi vì ông là người Mỹ, nếu bắt được, thì tha hồ mà đánh đối với chính phủ Hoa Kỳ. Vào những ngày cuối cùng, Linh Mục Delvelin, đề nghị với Đại tá Nghĩa, di tản bằng đường bộ, từ Phan Thiết về Sài Gón nhưng bị từ chối vì không thể nào thực hiện được, khi VC đã bít rừng lá, còn Xuân Lộc thì đang đại chiến long trời lõ đát , từ ngày 8-4-1975. Những ngày chót, Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, ra lệnh cho cố vấn Mỹ ở Phan Thiết là Phillip Cook, phải đem cha rời khỏi chiến trường , cùng lược với các cố vấn của Tiểu Khu. Nhưng vị Linh mục này nhất định không chịu bỏ đám con chiên khốn khổ của mình lại Bình Tú, cuối cùng Người Mỹ phải dùng bạo lực mới đem được cha lên máy bay. Tại Sài Gòn, cha bỏ trốn khỏi Tòa Đại Sứ, đi kiếm các lực lượng của Tiểu Khu Bình Thuận, nhờ guíp các con chiên của mình còn bị kẹt trong vùng giặc chiếm. Ngày 30-4-1975, Toà Đại Sứ phải tìm kiếm khắp nơi, mới chở Cha về Mỹ. Nhưng rồi Ông lại xin Chính Phủ, cho trở qua Thái Lan, phục vụ Trong Trại Tị Nạn Cọng Sản của Người Việt tại Sông Khai. Tại đây, Cha đã hết lòng bênh vực Người Việt tị nạn, chống lại sự đàn áp của bọn Thái Lan. Đến khi sức khỏe quá suy yếu, cha mới chịu về lại Hoa kỳ và qua đời tại quê hương là Tiểu bang Utah.
3-BÌNH THUẬN, TIỀN RỪNG-BẠC BIỂN :
Xưa nay, khi nhắc tới tỉnh Bình Thuận, mọi người hay dùng cụm từ ngữ ‘ Tiền Rừng-Bạc Biển ‘, ngụ ý nói về một vùng đất giàu có về tiềm năng ngư nghiệp, hải sản và nghề làm nước mắm cá biển, nổi tiếng ngay từ hồi Pháp thuộc.
Theo lời Đại tá Ngô Tấn Nghĩa cho biết, Bình Thuận ngoài tiềm năng ngư nghiệp trên, còn làvùng đất có hai tài nguyên quý hiếm, đó là Vàng Chìm trong Biển và Dầu Hoả ở gần thềm lục địa Phan Thiết. Giữa năm 1974, có hai người tên là Charles Bauduoin (hay Charles Đức, một Pháp kiều gốc Việt) và người khác tên Allan Pang (Một Sĩ quan Nhật, gốc Đại Hàn). Theo Pang, trong Đại chiến thứ 2, Nhật đã vơ vét vàng bạc của các nước Á Châu, trong đó có Đông dương thuộc Pháp. Tất cả của cải cướp đoạt này, Nhật đem nấu và nguỵ trang thành những sợi lòi tói, sơn màu hắc in, để trên tàu và chở về Nhật Bổn. Đoàn tàu gồm 18 chiếc ra khơi, nhưng bị gián điệp Đồng Minh phát hiện, gọi phi cơ Mỹ tới đánh bom, chìm tất cả từ biển Bình Tuy ra tới Nha Trang. Cũng theo Pang, thì trong khu vực tỉnh Bình Thuận, có ít nhất 8 chiếc tàu chở vàng bị chìm. Vì không dám cho Hải Quân biết, nên những người đi mò vàng chỉ mướn các thợ lặn, nên đầu năm 1975 chỉ mới tìm được xác một con tàu nhưng không có vàg mà chỉ thấy những thùng chưa chất hàn Antimoine. Điều này cho thấy những lời đồn đại , có thể là thật nhưng vàng thì biết đâu mà mò. Có điều sau ngày 30-4-1975, Bắc Việt hoàn toàn làm trùm cả nước, thì Charles Đức vẫn ở lại và hợp tác với giặc, nên được Mai Chí Thọ, em ruột Lê Đức Thọ, lúc đó là trùm Công An, nên ban phát cho Charles Đức rất nhiều quyền hành, kể cả việc đưa nhà hàng nổi Mỹ Cảnh về làm ăn tại bến Sài Gòn. Sauk hi Mai Chí Thọ bị hạ bệ, Đức cũng theo chủ chìm xuồng. Nhưng việc tìm vàng dưới biển, không biết đã tới đâu vì hoàn toàn bí mật. Có điều bao năm qua, trên biển Đông, nhất là ngoài hải phận từ Nha Trang về Bình Tuy, không lúc nào vắng bóng những con tàu của người Nhật và nhiều nước khác, mượn cớ khảo cứu đáy đại dương nhưng thực chất, ai biết được chúng làm gì. Mới đây, ngư dân Tuy Phong đã phát hiện được một chiếc tàu chìm ngoải khơi , gần Phú Quý, đã trục vớt, tìm thấy nhiều cổ vật giá trị của Trung Hoa, từ thòi nhà Minh..Cổ vật được Việt Cộng Bình Thuận, cũng như Trung Ương , chia chác đem bán cho ngoại quốc, trong đó có Anh, Úc và Hồng Kông. .mà báo chí khắp nơi đều nhắc tới.
Đầu năm 1973, khi hiệp định Ba Lê sắp ký kết, thì Paul Van, Cố vấn trưởng của Mỹ tại QD2, có gởi tới Bình Thuận một đoàn chuyên gia khai thác dầu hoả, từ Mỹ tới Bình Thuận, để lập kế hoạch tìm dầu cũng như thiết lập một xưởng lọc dầu ngay tại Phan Thiết. Sau đó, các huyên gia cho biết . biển Phan Thiết có mỏ dầu nhưng số lượng dự trữ quá ít, không có đủ tiềm năng để tục hiện thị trường kinh tế. Rồi thì Paul Van tử nạn máy bay, Nixon từ chức Tổng thống Mỹ vì bị tố cáo nghe lén điện thoại của đảng dân chủ..khiến cho kế hoạch bị chìm xuồng, theo với sự sụp đổ của VNCH ngày 30-4-1975.
Năm ngoái, VC tuyên bố đả tìm thấy gần bờ Phan Thiết bốn mỏ dầu lớn, trong đó hai mõ đã bán cho công ty dầu Chevron của Mỹ khai thác. Mới đây lại nghe tin, VC sắp bán đứt đảo Phú Quý, cho các đại công ty da trắng, để biến nơi này thành một hải cảng quốc tế. Tin này rất phù hợp với nguồn tin của VC sắp lập một thành phố trên biển. Dù gì chăng nửa, thì Đảo Trường Sa hiện nay thuộc Huyện Phú Quý của Tỉnh Bình Thuận . Do trên VC hiện di chuyển rất nhiều súng đạn ra hải đảo, coi như một hậu phương yểm trợ trực tiếp cho Trường Sa. Nên nguồn tin sẻ đuổi hết dân chúng về đất liền, có thể là thật, vì VC chuyện gì cũng dám làm. Bình Thuận tiền rừng, bạc biển, dù có là chuyện thật, thì ba trăm năm qua, người dân nghèo cũng đâu có hưởng được chút gì, ngoài nhục, hận và máu lệ.
Sau ngày 30-4-1975, hầu hết quân công cán cảnh mọi cấp dều vào tù. Riêng những sĩ quan trong BCH tại QYV cũng không ngoại lệ. Các Đại Uý Lê Bá Dũng, Trung Úy Công học trên 5 năm , nên sau đó được sang Mỹ bằng HO. Đại uý Nguyễn văn Tư chết trong trại Kà Tót, chung với Trung Uý CTCT.Tôn Thất Ái, là anh ruột của Trung Úy Trợ y Tôn Thất Phùng.
Phùng học hai năm, trở về Phan Thiết thì nhà tan cửa nát, anh em cha mẹ cũng không còn. Chán đời nên Tôn Thất Phùng, cạo đầu vào tu tại Chùa Vạn Thiện từ đó tới nay. Bạn bè bên Mỹ duy nhất, chỉ còn Phạm văn Công, lâu lâu gửi về chút tiền còm, đủ mua vải và kim chỉ may áo cà sa . Đời lính là vậy đó, nên kể làm sao cho hết nổi đoạn trường ?
Mường Giang
Những trận chiến cuối cùng 30/4/1975: phần 1/3 | 2/3 | 3/3
Nguồn: http://linhphuongngoc.tripod.com/

No comments:

Post a Comment