Monday, September 3, 2012

ĐỌC BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO


 Ngô Nhân Dụng

Gần đây tôi trở lại cái thói quen hay lẩm nhẩm bài Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi. Ðem đạo nghĩa để thắng hung tàn - Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Ðọc xong bỗng thấy cái xương sống lưng mình đứng thẳng hơn, y như có người kéo cho đầu mình bắt phải ngẩng lên vậy. Hồi còn trẻ tôi dậy học trò môn lịch sử, đã có lúc hành hạ các em nhỏ bằng bài văn này. Khi học đến đoạn Lê Lợi kháng Minh, tôi đố các học sinh, ai học thuộc lòng bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo sẽ được 20 điểm. Không hiểu sao hồi xưa các thầy cô ở nước ta hà tiện, với môn sử, địa điểm tối đa thường chỉ cho tới 15, 16. Cho nên nghe nói 20/20 nhiều em học trò cũng hăng hái chấp nhận lời thách đố của thầy giáo.


Tôi không ngờ, có rất nhiều học sinh hồi đó, những năm 1960 ở Sài Gòn, đã học thuộc lòng bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo, bản dịch rất văn chương chép trong Việt Nam Sử Lược. Tới ngày trả bài, nhiều em xin lên đọc, phải cho các em đọc theo lối tiếp sức. Một em đọc nửa chừng, ông thầy ra hiệu cho một em khác đọc tiếp, rồi trở lại người cũ hay đổi sang người mới, em nào cũng phải sẵn sàng đọc tiếp, tức là phải thuộc lòng cả bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo. Khi chấm dứt, “Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết” thì cả lớp vỗ tay; thầy lẫn trò đều nghẹn ngào. Bởi vì khi cùng nhau đọc và nghe bài đại cáo này, lòng yêu nước thế nào cũng dâng lên, bồi hồi nhớ các tổ tông đời trước!

 
Một nửa thế kỷ đã qua, bây giờ tôi chắc nhiều học sinh cũ của tôi vẫn còn nhớ bài Ðọc Bình Ngô Ðại Cáo, dưới ngòi bút dịch nhuần nhã cao sang của Bùi Kỷ. Nhiều người sau này đã dịch cách khác, có thể đúng, sát nghĩa hơn; nhưng không thể coi là những áng văn chương như bản dịch Bùi Kỷ. Tôi hy vọng các em vẫn còn có thời giờ lâu lâu đọc lại, thưởng thức những lời văn trác tuyệt đó. Chính tôi có những lúc thấy mình đang lẩm nhẩm, “Giang san từ đây mở mặt - Xã tắc từ đây vững nền.” Chợt thấy mình đang đọc, xong rồi lòng ngẩn ngơ.
Cho nên, tôi nảy ra một ý kiến muốn đề nghị với các thầy, các cô giáo, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác. Tại sao chúng ta không tổ chức một ngày giỗ Lê Lợi bằng một buổi đọc Bình Ngô Ðại Cáo? Tháng Tám Âm lịch sắp tới có hai ngày giỗ ai cũng nhớ: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi. Hồi nhỏ, có lần tôi đã được dự lễ ở ngay tại Ðền Vua Lê bên cạnh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bây giờ đúng là lúc nên cho các bạn trẻ ở nước ta đọc lại Nguyễn Trãi, nhớ lại công ơn Lê Thái Tổ. Nhân ngày giỗ vua Lê, học sinh tiểu học, trung học tất cả các làng, các tỉnh, khắp nước Việt Nam hẹn nhau một giờ cùng tụng đọc bài Bình Ngô Ðại Cáo. Các em không cần học thuộc lòng, cứ cầm bản văn đọc dõng dạc trang nghiêm cũng quý lắm rồi. Chắc tổ chức ở trong trường thì không ai gọi là biểu tình. Không cần phải xin phép xin tắc gì cả. Ở nước ngoài thì càng dễ tổ chức hơn nữa. Ðọc trong chùa, trong nhà thờ càng thêm nghiêm trang.

Nhiều người sẽ phản đối, vì sợ các em học sinh không hiểu hết được cả bài Bình Ngô Ðại Cáo. Chuyện đó tự nhiên; nhưng không hiểu thì phải học cho hiểu. Bố mẹ, thầy cô phải học trước cho rõ nghĩa từng câu, rồi giảng lại cho các em hiểu. Không nên lười, không nên ngại khó

. Cái công mình học cho hiểu nghĩa bài Bình Ngô Ðại Cáo không khó nhọc bằng công các cụ Lê Lợi, Nguyễn Trãi đời xưa đánh giặc Minh suốt 10 năm đâu!

Có người còn than phiền là bài văn này, ngay cả bản dịch ra tiếng Việt của Bùi Kỷ, cũng có nhiều chữ Hán quá. Như vậy có gì mâu thuẫn không? Một bản văn nêu cao ý chí cương cường của dân Ðại Việt chống lại cuộc xâm lăng và âm mưu Hán hóa của vua chúa bên Tàu, không lẽ mình lại cứ sử dụng đầy chữ Hán như thế? “Nhật nguyệt hối rồi lại minh - Càn khôn bĩ rồi lại thái!” Sao không nói ra tiếng Việt ròng cho chúng cháu nhờ!

Xin nhắc: Những chữ đó đều thuộc vào tiếng Việt từ lâu rồi. Ông anh tôi tên là Nhật, cô em tên là Nguyệt, bộ tưởng họ người Trung Quốc hay sao? Nói đến “Càn Khôn” mà e ngại là mình ăn phải đũa người Trung Hoa, thế thì không nghe bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương nói, “Miệng túi càn khôn thắt lại rồi;” nghe mà cười khúc khích với nhau hay sao? Nếu không chịu học thì làm sao biết mà cười? Những chữ đó, chúng không có quốc tịch. Ở bên Trung Quốc nó là chữ Tàu; qua biển sang Nhật nó thành tiếng Nhật; sang đến nước ta nó là tiếng Hán Việt. Ai nuôi nó thì nó thành đứa con ngoan ngoãn cho mình sai bảo. Còn ai từ chối nó thì nó đi mất luôn. Thế khi mình đi biểu tình, hô to, “Ðả đảo Trung Quốc xâm lược” thì mình đang nói tiếng gì đây? Cả sáu chữ được hô lên đều là gốc Hán, là con nuôi cả! Tổ tiên chúng ta đã gom chúng lại, nuôi nấng chắt chiu được mấy chục ngàn tiếng mới, gọi là tiếng Hán Việt, truyền lại cho con cháu xài trong cả ngàn năm. Bây giờ tính đem đổ xuống sông xuống biển hết hay sao?

Có người lớn cái đầu, 40, 50 tuổi mà vẫn cứ e ngại, bảo rằng mình rất khâm phục con người Nguyễn Công Trứ, nhưng không thể đọc thơ ông được. Vì trong đó toàn chữ Hán. Ðọc lên tưởng như mình hóa thành người Trung Hoa!

Người nói câu đó rõ ràng là thời còn ít tuổi đã mất cơ hội học đến nơi đến chốn. Cho nên khi lớn lên, không muốn học, sợ khó. Mà đó chỉ là học có mấy chục chữ Hán Việt trong một bài thơ, mà đã sợ khó rồi. Bèn tự trừng phạt, không cho mình đọc thơ Nguyễn Công Trứ nữa. Mà thực sự, có ai bắt chúng ta phải học chữ Hán đâu. Chỉ cần nghe đọc lên thì hiểu cái tiếng gốc chữ Hán ý nghĩa thế nào thôi. Người Trung Hoa viết thế nào, không cần biết. Hãy tưởng tượng một học sinh người Nhật phải học chữ Hán thế nào thì thấy việc học thơ cổ của mình dễ ợt. Nước Nhật chưa bị người Trung Hoa đô hộ ngày nào, nhưng trong ngôn ngữ họ bắt cóc đem chữ Hán về nuôi và dùng, đông đúc cũng bằng một nửa số chữ thông dụng.

Một người Nhật biết chữ có nghĩa là phải biết vài ngàn chữ Hán. Nhìn chữ người Hoa viết thế nào phải đọc lên được, hiểu được nghĩa. Mệt nhất là phải biết cách viết chữ đó, viết đúng thứ tự, có 10 nét thì nét nào viết trước, nét nào viết sau. Ở nước Nhật 99% dân biết chữ. Một học sinh qua bậc tiểu học phải biết mấy trăm chữ, học hết trung học phải biết mấy ngàn chữ, tất cả được quy định trong chương trình giáo dục. Nếu không học thì lớn lên cầm tờ báo không đọc được!

Nghĩ đến công khó nhọc của các học sinh Nhật thì phải thấy mình học thêm một chút để hiểu bài Bình Ngô Ðại Cáo là việc dễ như không. Cả nước cùng học lại, cùng hiểu nghĩa bài Bình Ngô Ðại Cáo thì 90 triệu trái tim cùng đập theo một nhịp. Ðến nước sông Hồng cũng phải sôi lên đỏ rực, nước Cửu Long cũng phải cuồn cuộn dâng trào.

Ước mong quý vị nhà giáo đồng nghiệp của tôi sẽ để ý tới đề nghị này. Ước mong ngày Giỗ Vua Lê năm nay cả nước sẽ cùng đập trống, gõ mõ, đọc Bình Ngô Ðại Cáo theo nhịp của trái tim mình. Sẽ cùng nhau đọc: “Nền vạn thế xây nên chăn-chắn - Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu!” Rồi quyết tâm cùng nhau làm sao đừng để cho con cháu bị mắc một mối nhục ngàn thu!

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

No comments:

Post a Comment