Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song
Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận.
Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang
sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông
chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép
để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau,
song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979,
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết
đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng
giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến
sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh
các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền
Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm
nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều
rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên
thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất
ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai
mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy
định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả
bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm
số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích
riêng. Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người
đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang,
tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu
vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách
thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá
của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc
thật!
Buồng
5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một
cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về
phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc
hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi
nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem
lại một cảm giác thoáng khí hơn.
Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi
tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn
vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được
chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là
“trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại
trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh
đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng
nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy,
thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông
là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức
vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng
Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.
Tôi
đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng
người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội
tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm,
không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở
yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần
được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay
áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn
chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ
ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít
cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ
cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn
vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi
khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!” Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc
nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản
ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng
sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích
khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là
cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng
5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn
buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ
quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất
dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh
hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm
được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi
phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát!
Anh Quát!”
Bệnh
nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu,
ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận
ra tôi không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi
thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh
gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi
hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?”
Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót
vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh
nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có
tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng.
Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát:
“Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!”
Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.
Tôi
vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo
sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã
dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói
ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói
đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi!
Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang.
Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.
Ngoài
hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo
nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa
vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như
bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói
thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc.
Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng
lặng tiếng. Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh
Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?” Bác Sĩ Hồ Văn Châm,
cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên
Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước.
Cảnh
lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút
nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý
chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản
ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn
thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền
mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai
trò một tấm khăn liệm.
Bác
Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh
Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ
quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa,
có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương
lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm
bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ
chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng
của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!”
Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng
thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo,
còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.
Nhiều
bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng
dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ
gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên
ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên,
chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng
lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im
lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.
Chừng
20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở
bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở
bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần
chiếu của mình.
Phương
“đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man,
tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng
bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ
vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm
một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt
nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở
lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa
hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết
rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp:
“Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”
Chỉ
một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa
cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh
như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì
còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời
ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng
gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng
thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản
kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết
của bất cứ “trại viên” nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của
ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen
thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính
trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của
ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận
tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà
hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang
nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người
trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được
đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân
kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.”
Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân
tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong
trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng
tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ
Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm
chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn
cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm
và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc
chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền
Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị.
Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,”
tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt.
Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ
Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan
Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng,
mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm,
tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có
muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép.
Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố
cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm
nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình
cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân
nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn
hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với
nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ.
Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng
không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những
lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt
tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi
bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao
nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì
do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc
thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài
không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua
chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía
đầu cầu thang giám sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được
phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên
chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về
thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và
nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói
quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt
Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc
tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo
tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến
tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài
Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu”
về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết
chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng,
do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần
ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở
Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín
nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả
một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm
trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên
quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc
biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu
Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8
Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại
lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953
trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ.
Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị
Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh
Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954. Ở Pháp, Quốc
Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông
Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các
mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu
Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính:
ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống
hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm
Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền
Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một
số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền
cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn.
Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng
thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng
Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới
khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa
Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới.
Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân
Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu.
Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà
Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á
Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất
thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt
hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn
toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính
trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng
trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và
nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa
hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách
suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái
can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng,
tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều
luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng
thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông
có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước
mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của
một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định
dễ dàng.
Sau ngày Saigon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy
Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát
thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền
sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư
1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục”
trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay
phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế,
ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng
bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên
cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành
phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường
phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi
lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào?
Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn?
Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống
ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa
số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn
phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh
nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu:
thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường
xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống
Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào
một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên
bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong
thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông
14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc
ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội
ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng
tình gia đình không kém.
Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính
phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính
phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ.
Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau.
Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên
lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự
giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía
Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn.
Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột
độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân
viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng
hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng
chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ
trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời
ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước.
Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau
hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành
kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ
có thể chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối.
Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên
Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống
Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi
tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ
hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi
gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác
Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần
Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về
khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam
Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt
giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng
cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược
mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng
tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại
đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết.
Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm
sau mới được thả.
Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên
Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch,
tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn
vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô
mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một
toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa.
Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó
là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng.
Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước
kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm
dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném
hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với
quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu
tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải
tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm
trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám
tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1,
khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát
và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi
lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi
không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ
Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày
Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý
hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược
cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông
giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi
giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là
trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo
cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với
Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của
tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết
y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển
sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp
lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực
lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ
tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi
nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia.
Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch
Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai.
Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của
anh tới Nguyễn Hữu Thọ không?”. “Tôi ngờ lắm.” Ông đáp. “Nhưng không sao. Tôi mượn
cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong
khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ
là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau.
Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn,
cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi
năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào
mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất
của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá
ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời,
giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi
nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các
con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không
trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức
câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài
hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác
Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên,
người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng
ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và
hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy.
Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống
ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu
của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than
van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã
tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm
ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt
mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ
gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền
cũ.
Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và
cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một
khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều
yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa
bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ
ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào:
“Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết
vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở
khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới
ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.
Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm
lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin
hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông,
nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ
lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió. Vì ông đã cứng.
***
Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác
Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan
trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông
đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng
Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc
gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ
khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn,
nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là
thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp
trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc
cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên
cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên
đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không
một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ
sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu
gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc
tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh
danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông
đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong
lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa
cho đất nước, cho dân tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông
trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
***
Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí
Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi
mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền
mỏng phủ kín từ đầu xuống chân. Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt
Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng.
Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn
phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn
phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác
Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói
quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm
sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng
thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa
Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một
chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và
“ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ! Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt
nó vào tù với mẹ nó cho chắc! Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác
chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám
tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến
thuộc. Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng.
Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch
máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”. Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú (*)
(*) Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo
Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị
giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và
sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn
hic mình bây giờ mới biết vụ này
ReplyDelete---------------------------
hạt điều rang muối vietnuts