David Thiên Ngọc - Nhân dân VN và các dân
tộc trên thế giới nếu có quan tâm đến chính trường châu Á ở thập niên 90 thế kỷ
trước thì chắc không lạ gì cụm từ "Hội nghị Thành Đô". Đứng về mặt
khách quan và những ai không đi sâu nghiên cứu nội tình về mối quan hệ Việt
Nam-Trung Hoa đồng thời không quan trọng chú ý đến ngôn từ chính trị thì sự
kiện Thành Đô tháng 9/1990 gọi là "Hội nghị" thì không có gì phải bàn
luận. Riêng về chính giới và nhất là nhân dân VN có quan tâm trăn trở đến sự
hưng vong của đất nước thì có thể coi sự kiện trên là "Chiếu chỉ Thành
Đô". Nói như thế có chủ quan và cực đoan lắm không? Để làm sáng tỏ luận
điểm của mình tôi xin các bạn cho phép tôi đi hơi xa một chút.
Quan hệ Viêt Nam-Trung Hoa:
Là một mối quan hệ luôn là thời sự nóng và
nóng mãi... cho dù hàng ngàn năm trước nó cũng trải qua bao phen máu lửa, bão
tố, phong ba rồi yên ả nhưng có lẽ những cơn sóng bạc đầu đó biến dạng thành
những đợt sóng ngầm và âm ỉ không bao giờ tắt lịm để chuẩn bị cho thời kỳ sau bộc
phát gầm lên. Xét về mặt địa chính trị thì hai nước có một sự liên quan, kết
dính tự ngàn xưa bởi núi sông biển đảo liền kề... từ đó những móc xích về chính
trị, quân sự, kinh tế và văn hóa luôn ảnh hưởng cho nhau và nỗ lực tách rời,
độc lập cho dù là từ phía nào cũng khó mà thực hiện. Nhưng qui luật muôn đời là
"Nước chảy về vùng trũng", do đó nền văn minh, văn hóa Bắc phương
hàng ngàn năm qua luôn chảy về phương Nam một cách tự nhiên và ào ạt mang theo
bao hệ lụy... trong đó rực rỡ cũng nhiều và đen tối, độc hại chất chứa sự xâm
thực đầy ác ý mưu mô đồng hóa thì luôn đầy dẫy và chực chờ thấm vào da thịt
người dân đất phương Nam.
Nơi đây tôi chỉ trích một vài điều có liên
quan để làm sáng rõ cho luận điểm mà mục đích của bài viết về sự kiện Thành Đô.
Còn đi sâu vào sự xâm thực của văn hóa phương Bắc đối với đất phương Nam tôi sẽ
giới thiệu từng phần trong tác phẩm nghiên cứu văn học sử "Nguồn gốc và sự
phát triển của nền văn hóa Phù Nam" hầu phục vụ bạn đọc sau.
Như tôi đã nói sự liên quan về mặt địa chính
trị và lôi theo phương diện văn hóa, quân sự, kinh tế... của hai nước như vậy
nó đã tồn tại từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn và từ đó cho đến nay trải qua bao
thời kỳ và mỗi thời đại nó có một sắc thái đặc thù khác biệt tùy theo hoàn cảnh
lịch sử của mỗi giai đoạn. Nhưng tựu chung hình thức và hoàn cảnh nào thì bọn
Bắc phương cũng đứng đầu gió và dân tộc đất phương Nam luôn trong tình trạng
chống đỡ, né tránh thậm chí phải chịu tang tóc, đau thương bởi những cơn thịnh
nộ của cuồng phong, những mùa gió chướng, gió mùa Đông Bắc tràn về. Hành trình
của mối quan hệ VN-TH từ trước thế kỷ thứ 2 trước cn đến nay trải qua 4 giai
đoạn (nơi đây tôi chỉ kê lên mà không dẫn giải, chi tiết sẽ có trong tác phẩm
đã nêu trên). Và vì khuôn khổ của một bài viết.
1- Thời Bắc thuộc: khoảng 1000 năm từ Âu
Lạc-An Dương Vương (179 trước cn) đến khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán và
sau đó lên ngôi vương năm 939 sau cn.
2- Thời Đại Việt: Cũng khoảng 1000 năm tương
đương với thời Bắc thuộc. Từ khi Ngô Quyền xưng Vương đến khi đế quốc Pháp bắt
đầu đặt nền đô hộ năm 1883.
3- Thời Pháp thuộc: Từ năm 1883 đến 1945 hơn
60 năm đến khi VN giành độc lập.
4- Thời hiện đại: Từ năm 1945 đến nay.
Nơi đây tôi nói một vài đặc điểm ở thời kỳ thứ
4 để có cái nhìn xuyên suốt đến chủ đề bài viết "Sự kiện Thành Đô".
Ta biết rằng khi HCM du nhập CNXH về VN là
nguồn gốc từ Liên Xô, từ lúc HCM bị Pháp từ chối đơn xin nhập học trường Thuộc
Địa (École Coloniale) để rồi lưu lạc qua Mạc tư Koa và được Lenin thu nhận để
rồi sau đó mang chủ nghĩa Mác-Lê về gieo rắc nhuộm đỏ vùng ĐNÁ, trước mắt là
Đông Dương. Do đó suốt chuỗi hành trình, đảng CSVN luôn dựa vào LX và xem
Kremlin là tường thành vững chắc cho chủ nghĩa cs. Chế độ và CSVN đã từng ký
hiệp định quân sự toàn diện với LX. Mặt khác trên đầu HCM và tập đoàn CSVN lại
có một bóng mây đen lởn vởn che mờ và gây ra nhiều phiền nhiểu, sự cố...
Bằng những toan tính thủ đoạn, HCM và đảng
CSVN không chịu cảnh bơi chèo giữa hai dòng nước và từ đó đưa cả hai tay vuốt
ve, nâng khăn sửa túi cho cả hai khách đa tình mà cũng lắm nỗi bạc bẽo, mưu mô
lợi dung kẻ bề tôi trong những phương diện riêng của mỗi kẻ.
Trong giai đoạn này HCM, CSVN nhận ơn mưa móc
từ cả hai. Trái ngang thay, thập niên 60 thế kỷ trước hai kẻ phong tình LX-TQ
lâm vào cảnh cơm không lành, canh không ngọt đưa đến rạn nứt và bất đồng quan
điểm lên đến cực đại. Lúc bấy giờ sự dựa dẫm vào LX mà một mặt hai lòng với TQ
của CSVN đã lộ rõ. Do đó Đặng Tiểu Bình quyết ra tay "Dạy cho Việt
Nam một bài học". Thế là chiến tranh biên giới Việt-Trung nổ ra, đồng
thời Đặng xúi dục Khmer đỏ tiến hành chiến tranh biên giới Tây Nam với VN rồi
Gạc Ma - Trường Sa chiến sĩ VN phải bỏ mình trong lòng biển, đem máu nhuộm sơn
hà bảo vệ biển đảo non sông.
Lúc này CSVN gọi Tàu cộng là "phản
động" là "bành trướng,bá quyền"...v.v...thù địch, chửi bới nhau
kéo dài hơn mười năm.
Qua hơn mười năm bão tố ngút ngàn, đường biên
và các cột mốc biên giới Việt-Trung từ xưa đâu còn nữa và đã bị dời sâu vào
lòng của Mẹ Âu cơ, hàng ngàn km2 đất dọc biên giới phía Bắc đã trở thành
"nước lạ" bởi:
"Bên kia biên giới là nhà.
Bên này biên giới cũng là quê hương..."
(Tố Hữu)
Cho nên ải Nam Quan, thác Bản Giốc, núi Lão
Sơn... đối với dân VN còn chỉ là hoài niệm. Rồi cũng trong thời điểm này thật
mỉa mai thay cho kiếp hoa chùm gởi, cho phận Cát Đằng, Phong Lan bám vào cổ
thụ, cành cao mà ký sinh... CS Đông Âu sụp đổ, lâu đài điện Cẩm Linh đang chao
đảo chuẩn bị đổ nhào. Đảng CSVN như kẻ lạc loài trong đêm trường mưa bão, trong
tay không một chiếc la bàn, phương hướng và tầm nhìn hoàn toàn bị mất. Cơn đói
khát thiếu nơi nương tựa, cảnh "Gió cát mưa sa trên nền cờ đỏ"(Trần
Dần) đã hiển hiện từ xa... Đảng CSVN như "kẻ khát nước qua sa
mạc..."(Nguyễn Khoa Điềm), lúc bấy giờ tập đoàn csVN khao khát được quay
về với kẻ thù 4000 năm để tìm một chút hương thừa. Ngay lúc này ở trên đỉnh Hoa
Sơn, chưởng môn Nhạc Bất Quần liếc nhìn về cõi trời Nam bằng nửa con mắt mà
rằng: "Sóc chết ba năm cũng quay đầu về núi!!!", thế
là kịch bản "Thành Đô" được viết ra và dàn dựng bởi quân sư Đặng Tiểu
Bình - một chính khách được thế giới xem là nhân vật của thập kỷ 80 tk 20.
Thưa các bạn, mở đầu cho " Chiếu chỉ
Thành Đô" quá dài dòng và lan man các bạn nhỉ! Nhưng không biết phải sao
cho được tỏ tường. Xin các bạn thứ lỗi cho bởi cái tầm của người viết có hạn.
Từ khi VN-TQ "anh đi đường anh tôi đi
đường tôi"(Xuân Diệu)... Buổi chia phôi còn đó, bây giờ cảnh "Giải
cấu tương phùng"(Từ của Nguyễn Du) là niềm ước ao của tập đoàn CSVN. Do đó
"Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc" là nỗi lo hàng đầu, mất ăn
mất ngủ của CSVN.
CSTQ thả con mồi. VN khấp khởi với dịp may
hiếm có, nhưng phập phồng lo sợ vì biết rằng TQ là con hổ luôn khát máu, đói
mồi.
"Ngày 29.8.1990 đại sứ TQ tại HN Trương
Đức Duy xin gặp TBT Nguyễn Văn Linh và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười
chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và chủ tịch Quốc vụ viện Lý Bằng mời
TBT Nguyễn Văn Linh, CTHĐBT Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô thủ
phủ tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 3.9.1990 để hội đàm bí mật về Campuchia và vấn đề
bình thường hóa quan hệ hai nước."(Hồi ký Trần quang Cơ).
Như kẻ chết trôi vớ được chiếc bè và một sự
chuyển biến quá bất ngờ vì trước kia Trung Nam Hải khẳng định rằng chỉ khi nào vấn
đề CPC được giải quyết rốt ráo rồi mới tính đến chuyện bình thường hóa quan hệ
hai nước. Mới ngày 24.8.90 Bắc Kinh còn bác bỏ việc gặp cấp cao của hai đảng,
hai nước như vậy đối với một kẻ đần độn cũng đủ hiểu rằng đây là một âm mưu
nham hiểm và đầy cạm bẫy đen tối của CS Bắc Kinh.
Kịch bản đã viết sẵn, lệnh thiên triều cho gọi
bầy tôi được ban ra. Cộng sản VN chỉ việc chấp hành, tất cả diễn biến của sự
kiện Thành Đô đều diễn ra hoàn toàn trong vòng bí mật từ địa điểm đến ngày giờ
và nội dung. Một sự kiện có quan hệ đến sự sống còn của đất nước mà chỉ trong
một số tên đầu sỏ biết và tự giải quyết với tư thế của một bầy tôi? Đúng là tội
đồ thiên cổ của dân tộc, nhân dân VN phải gánh lấy hậu quả đến đời con cháu
cũng chưa phai.
Ta hãy nghe người trong cuộc tự thú:
Ông Phạm Văn Đồng nói: "...Trước
khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thỏa thuận, các đ/c lãnh đạo cần xem lại
và bàn bạc xem có thể them bớt gì trước khi ký. Nghĩ lại khi họ mời TBT, CTHĐBT
sang gặp TBT, CTQVV lại mời thêm tôi, tôi khá bất ngờ không chuẩn bị kỹ. Anh
Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn nên đi. Nhưng đi để rồi ký một
văn bản mà ta không lường trước được hậu quả..." (Hồi ký TQC)
đúng là cơ hội bán nước và việc ký tá của một kẻ đui mù, thiểu năng trí tuệ.
Võ Văn Kiệt xót xa: "Trong thâm
tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (P.V.Đ) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp
anh Đặng (Đ.t.Bình) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết
rằng anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý không có Đặng.
Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghỉ Trung Quốc luôn là cạm bẫy!"(Hồi
ký Trần Quang Cơ) cũng chính từ những tư duy này mà Võ Văn Kiệt phải nhận cái
chết đầy bí ẩn?
Còn việc triệu Phạm Văn Đồng qua Thành Đô theo
tôi cũng chỉ là để làm nhân chứng sống với cái xác không hồn chờ ngày hạ huyệt
theo Mác theo Mao và làm tác nhân để CSVN thực hiện tiếp những gì mà PVĐ cùng
HCM ký kết trước đây với Tàu cộng trong đó có công hàm 1958 đầy ô nhục và bẩn
thỉu gây ra bao cảnh tang thương cho dân tộc, ngư dân phải bỏ mình trong lòng
biển và biết bao nhà yêu nước, tuổi trẻ phải chịu gông cùm, đánh đập dã man
truy bức từ trong tù cho đến ngoài xã hội, một nhà tù lớn CHXHCNVN.
Phạm Văn Đồng tiếp: "Mình bị hớ,
mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì
không sao. Cùng lắm là nói cái đó...nhưng tôi không nghĩ vậy là thượng sách.
Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy."( H.KýT.Q.C)
Trần Quang Cơ nói: "Cuộc hội đàm
Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta,
hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải
thiện quan hệ với TQ. Đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc. Tưởng rằng
thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại..."(H.ký TQC)
Nói chung từ trước đến nay trong lịch sử ngoại
giao của CSVN thì sự kiện Thành Đô là một thất bại nhục nhã, ê chề làm tiêu tan
con đường tiến lên của đất nước. Nơi đây ta thấy rõ TQ là một mối lo, là một sự
đe dọa cực kỳ nguy hiểm làm tổn hại đến sự độc lập và toàn vẹn lảnh thổ của đất
nước Việt Nam.
Trên đây là sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô
hay còn gọi là "Mật chỉ Thành Đô" mà tập đoàn CSVN cúi đầu tuân mệnh
một cách mờ ám mà hơn hai mươi mấy năm qua nhân dân VN phải gánh chịu. Các cảnh
nhân dân VN yêu nước bị đàn áp, đánh đập dã man, tù đày vô pháp luật đối với
các ngòi bút, dân oan, tuổi trẻ cùng các nhà đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và
toàn vẹn lãnh thổ... Đó là những dòng, trang trong chiếu chỉ Thành Đô I tháng
9.1990. Sau khi kết thúc hội nghị bí mật một cách mờ ám và đầy ô nhục trên,
lãnh đạo csVN phải đắng cay cúi đầu cam chịu. Để xoa dịu bầy tôi, cuối cùng
Giang cũng đã an ủi và tặng câu thơ của Lỗ Tấn mà rằng:
度尽劫波兄弟在,相逢一笑泯恩仇
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất
tiếu mẫn ân cừu.
Dịch nghĩa: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông
nhau cười, thù oán sạch không !
Kiếp ba: (Thuật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn
ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt.)
Nghe đến đây các vị trong đoàn CSVN nở nụ cười
tươi của thằng Bờm khi nhận được gói xôi từ tay Phú Ông.
Bây giờ xin mời các bạn bước vào những trang
đầu của "Chiếu chỉ Thành Đô II". Gọi là Thành Đô nhưng địa điểm diễn
ra tại Bắc Kinh và công khai, nội dung thì suy cho cùng ngang ngược và trắng
trợn hơn và đây cũng chỉ là những bước đi tiếp theo của Thành Đô I trên con
đường cống nạp để cùng nhau "Trước sau như một" tiến lên thế giới đại
đồng, có nghĩa rằng không còn Tổ Quốc Việt Nam mà chỉ có một Đại Hán bao trùm
thiên hạ với "Giấc mơ Trung Quốc".
Theo sự đổi thay của lịch sử và sắc màu, tình
tiết của chính trường thế giới. Con đường xâm lăng của Đại Hán không còn kiểu ồ
ạt kéo quân cướp giết và đặt ách đô hộ công khai như ngày xưa đã từng với dân
tộc VN mà ngày nay nó biến thái với diên mạo tô vẽ muôn màu và tinh vi hơn.
Chính sách củ cà rốt và cây gậy:
Như trong bài "Tàu lạ lại đâm chìm tàu
ngư dân: Cú vỗ đầu để đón chủ tịch Sang?" tôi đã viết chuyến đi Bắc Kinh
kỳ này của chủ tịch Sang chỉ là đi chầu thiên triều đồng thời Trung Nam Hải vỗ
đầu xoa dịu sau hàng loạt cú đập, tát vào mặt đảng csVN và hà hiếp ngư dân VN,
tiện thể Bắc Kinh xem xét Hà Nội đã thực hiện các chỉ thị từ Bắc Kinh thông qua
các lần đi sứ của tướng Nguyễn Chí Vịnh, tân đỉnh cao trí tệ Nguyễn Thiện Nhân
như thế nào và dâng lên cho Tập Cận Bình lễ vật là những bản án đầy khắc nghiệt
cho tuổi trẻ yêu nước như Phương Uyên, Nguyên Kha, các thanh niên Công Giáo. Áp
bức hòng bức tử LS Cù huy hà Vũ đang ở trong tù, bắt nhốt các Bloggers Trương
Duy Nhất, nhà văb Phạm Viết Đào, anh Đinh nhật Uy anh ruột của Đinh Nguyên Kha
cùng các hình ảnh đánh đập dã man "các phần tử phản động, thế lực thù
địch" xuống đường chống TQ xâm lược ngày 2/6/2013 tại Hà Nội để làm lễ vật
dâng lên cho thiên triều.
Người xưa nói "Nhân bất học bất tri
lý" còn bây giờ đảng CSVN vô học mà ham ký. Từ Phạm Văn Đồng ký công hàm
1958 bán biển đảo cho đến Thành Đô I cũng ký nhưng không biết họ viết gì, chỉ
ký theo mệnh lệnh để di họa đến không biết mấy đời sau.
Bây giờ đến lượt Trương Tấn Sang.
Trong lịch sử ngoại giao từ xưa nay trên toàn
thế giới chưa có một ai đại diện cho một nước nào cho dù là nhỏ bé, thiếu độc
lập, thiếu tự chủ cũng chưa có một lãnh tụ nào trong một cuộc tạm gọi là bang
giao vừa bước chân xuống miền đất khách chưa kịp tẩy trần mà ký một lúc 10 văn
kiện như ông Trương Tấn Sang và tập đoàn ăn hại theo đuôi! Ở đây xin nói thẳng
ra rằng các văn kiện đó "Họ" đã viết sẵn theo chủ ý và âm mưu của họ
theo kịch bản của quân sư mà kẻ ký chỉ biết hạ bút và không được phép biết nội
dung nó là gì? Đứng về phương diện Quốc Gia thì đây là hành động bán nước.
Vạch ra một vài điểm của các văn kiện đó thì
ta hẵn rõ!
1- Hai nước sẽ thăm dò, khai thác dầu khí
chung trên vịnh Bắc Bộ: Điều này là điều mà ông Sang và chính giới VN lo sợ
nhất trong chuyến đi chầu kỳ này trước hàm cá mập Trung Nam Hải. Chỉ có hàng
thiểu năng trí não mới thò tay vào ký mà thôi, trong lúc đó các nhà trí thức,
khoa học yêu nước đã cảnh báo, nhắc nhở trước khi ông đi rồi. Thử hỏi chuyện đơn
giản như đất vườn cây trái, hoa màu của nhà mình mà hàng xóm xấu bụng vào thu
hoạch (ăn cướp trá hình) mà gọi là chung nhau, cùng nhau khai thác là sao? Năm
ngoái chúng cũng đã ngang ngược kêu gọi mời thầu quốc tế các lô dầu khí của VN
rồi là gì? Rồi nay mai vợ nhà mình nó cũng vào khai thác chung cũng được chắc?
2- Bộ Nông Nghiệp hai nước lập đường dây nóng
để giải quyết các vụ va chạm liên quan đến ngư dân.
Điểm này là mang mặt nạ diễn tuồng. Từ xưa giờ
Hán tặc bắt bớ, tịch thu tài sản, bắt vợ con ngư phủ bán nhà nộp tiền chuộc
người và tàu bè của ngư dân VN thì ai là người của chính phủ, nhà nước CSVN có
được một lời sẻ chia chứ đừng nói chi binh vực? Rồi việc các tàu sắt to lớn
củaTrung cộng đâm thẳng vào tàu gỗ nhỏ bé của ngư dân VN làm tan nát và chìm cả
người lẫn tàu cùng tài sản vào lòng biển như mới gần đây ngày 1/6/2013 và ngày
17/6/2013 thì ai là người của đảng CSVN, của bộ Nông Nghiệp VN can thiệp hay
hèn nhác nói tránh ra là tàu lạ?
Nơi quê nhà thì ông Sang hô hào mạnh miệng
trước ngư dân đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, trước cử tri Tp.HCM về lập trường Biển
Đông. Giờ đây, trước quan thầy Bắc Kinh thì ông lại xin "Đối xử nhân đạo
với ngư dân", thật là nhu nhược không biết dấu vào đâu cho hết?
Bây giờ lại bày ra lập đường dây nóng để làm
gì? Khi cảnh sát biển, tàu tuần duyên VN trốn mất biệt tăm khi ngư dân bị hãm
hại, bị gây tang thương chết chóc? Đường dây nóng lập ra tôi thiết nghĩ chỉ để
các bên bộ Nông Nghiệp "nước lạ-nước ta" liên lạc thông đồng chia
chác các chiến lợi phẩm cướp được từ ngư dân nghèo đói VN mà thôi.
3- Hai bộ Quốc Phòng hợp tác xây dựng trung
tâm văn hóa...
Đây là âm mưu xâm lược văn hóa mà từ xưa giờ
Trung cộng luôn quan tâm. Thậm chí gần đây bộ Văn Hóa CSVN còn dự tính đưa
chương trình dạy tiếng Tàu vào hệ Giáo Dục VN, in chữ Tàu, cờ Tàu lên sách giáo
khoa bậc tiểu học?
Còn đem Văn Hóa VN sang truyền bá ở TQ ư? Xưa
rồi Diễm! Đừng làm trò hề để có cớ chúng truyền bá, du nhập văn hóa Tàu vào VN
mà gọi là trao đổi hai bên? Trung Quốc đâu có thiếu giấy gói xôi, gói cá mà VN
phải tốn tiền in ấn và cung cấp cho họ! Đừng làm nhục quốc thể thêm hơn nữa.
4- Trung Quốc Cho VN vay ưu đãi 320 triệu nhâ
dân tệ rồi 45 triệu USD cho các dự án?
Đối với cá nhân thường thường bậc trung như
Phạm Thanh Bình (Vinashin), Dương Chí Dũng (Vinalines), Bùi Tiến Dũng (PMU-18),
Nguyễn Việt Tiến (thứ trưởng bộ GTVT), Phạm Hữu Phú (Sacombank), Hồ Hùng Anh
(Techcombank), bầu Kiên (ACB), Nguyễn Đăng Quang (Masan)... thì con số tiền đó
cũng chưa là cái gì ghê gớm chứ đừng nói chi đến hạng cao như thống đốc Nguyễn
Văn Bình, bộ trưởng GTVT Đinh La To (Thăng)... chỉ là con số lẻ. Đó là chưa nói
đến hàng chóp bu như gia đình Ba Ếch thì ôi thôi số đó chỉ là hạt cát nơi bãi
biển Nha Trang, Mũi Né mà thôi. Vậy một nước siêu cường thứ 2 về kinh tế thế
giới với số tiền nói trên thì đã nói lên được điều gì để thực hiện một âm mưu?
Mà ở đây chỉ là cho vay ưu đãi chứ không không phải là viện trợ không hoàn lại!
Cái thâm ý ở chỗ này là Trung cộng đem ra chỉ
một chiếc củ cà rốt nho nhỏ để làm mồi đối với CSVN nhằm che đậy tầm nhìn của
thế giới vì trong thời gian qua dưới mắt của các chính khách, các nhà bình luận
và các chính phủ thì giữa TQ và VN đang căng thẳng, sục sôi trong vấn đề tranh
chấp Biển Đông. Làm như vậy để đối kháng lại, chứng minh ngược lại các dư luận
trên đồng thời thông báo cho thế giới biết rằng hai nước cộng sản anh em luôn
hòa hiếu và tương trợ lẫn nhau.
Thật ra đó là Bắc Kinh củng cố "quyền lực
mềm". Đối với thế giới thì Tập Cận Bình sau khi nhậm chức chủ tịch nước đã
thực hiện một loạt động thái hoạt động ngoại giao từ Nga qua Mỹ rồi các nước
nhỏ khác trên thế giới. Nơi đây ông cũng không quên sử dụng con át chủ bài Kinh
Tế. Đây là những động thái và qui trình xây dựng quyền lực mềm và từng bước
biến nó thành "Quyền lực cứng". Lôi kéo sự ủng hộ, đồng thuận tạo vây
cánh từ các nước bị quyền lực mềm khống chế để làm vũ khí một khi TQ có xảy ra
vấn đề tranh chấp nào với một nước khác. Hoặc xa hơn là tranh ngôi thứ siêu
cường với Mỹ và thực hiện "Giấc mơ Đại Hán".
Cụ thể trong khu vực ĐNÁ TQ đã sử dụng
"Quyền lực mềm" đối với Campuchia, Thái Lan... còn đối với VN thì củ
cà rốt chẳng qua là hình thức mà phía sau là cây gậy, cây gậy thật to mới là
chính!
5- "Trước sau như một" kiên định 16
chữ vàng và 4 tốt.
Ở điểm này tôi xin ngài chủ tịch nước CSVN bỏ
dùm hai chữ nhân dân Việt Nam trong câu"Đảng, Nhà nước và Nhân Dân Việt
Nam trước sau như một, hết sức coi trọng phát triển quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện với TQ". Chỉ có đảng nhà nước CSVN và đảng nhà
nước CSTQ trước sau như một mà thôi. Có nghĩa rằng hai đảng cũng nhập lại làm
môt và biên cương tổ quốc sẽ xóa nhòa và nhập về Đại Hán chứ Nhân Dân VN không
hề đứng chung với hàng ngũ nói trên và ý đồ nhập hai đất nước làm một chỉ là
giấc mơ hão huyền của Đại Hán mà thôi! Lịch sử đã khẳng định điều này.
Một điều cảnh báo cho ngài chủ tịch Sang rằng:
Nếu vì áp lực của Nhân Dân mà ngài phải nói lên vấn đề Biển Đảo với TQ mà trong
lúc đó ngài lại cúi đầu xin trợ giúp, đầu tư cho nền kinh tế đang chết lâm sàng
do bầy sâu của các ngài đục khoét tan hoang thì việc làm đó chỉ có ở hạng người
"Bất tri lý" hay ở xứ ngàn lẻ một đêm mới có mà thôi.
Thôi, tay đã nhúng vào chàm, chân đã sa xuống
vũng lầy hôi thối rồi thì việc gì phải làm ngài cứ làm không thể khác được hơn
nữa. Ngài cứ ký thôi nhắm mắt mà ký mặc dù ngài chưa đui mù. Bản thân ngài và
gia đình ngài không hề mất đi một tế bào nào cho dù là tế bào đã chết.
Nói đến đây tôi bổng nhớ đế thời kỳ cuối thập
niên 70 đầu thập niên 80 thế kỷ trước ở Tp.HCM của quí ngài có một vị giám đốc
một doanh nghiệp lớn bị mù bẩm sinh cả hai mắt tên "Huỳnh Là". Thế mà
giám đốc mù đó vẫn điều hành công ty và hằng ngày cứ "ký mò", mò mò
mà ký theo sự cầm tay hướng dẫn vị trí ký của cô thư ký có bàn tay êm như nhung...
chứ ông nào có thấy và biết gì? Chung quanh ông từ bé giờ được bao trùm bởi một
màn đen vô tận. Nhưng lạ thay doanh nghiệp của ông vẫn ăn nên làm ra... gia
đình ông vả cả ê-kíp giàu sụ nhanh chóng và tất nhiên cô thư ký cầm tay cho ông
ký chiếm một phần không nhỏ tài sản của công ty ông quản lý, một doanh nghiệp
quốc doanh thời bao cấp.
Kết quả không lâu sau là hàng vạn người dân
phải chết theo vì những văn bản được ký mà vị giám đốc mù không thấy và biết
được nội dung như ở "Hội nghị Thành Đô I" mà các ông Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười đã ký, để rồi sau đó về Hà Nội ông Đồng mới than thở
là ký mà không biết và lường được hậu quả của nó sẽ ra sao? Thật mỉa mai thay
cho các đỉnh cai trí tệ CSVN.
Từ chỗ ông giám đốc mù Huỳnh Là và tập đoàn Mù
Ba Đình được dựng lên để ký những văn bản chết người mà không hề biết là từ
đâu? Cấp trên nào quyết định và giao nhiệm vụ? Đối với lão GĐ mù kia thì dễ
hiểu vì cấp trên của ông còn "Mù nặng" hơn ông. Nhưng nhóm chóp bu Ba
Đình này từ đâu có và ai trao cho cái quyền nguy hiểm đó! Tôi xin chào thua.
Cũng có một điều nữa cũng đáng nói là lão GĐ
mù Huỳnh Là khác với các vị ở Hội nghị Thành Đô I&II là trước và sau khi ký
lão GĐ mù còn nói được mục đích việc ký và thổ lộ tâm tư của mình. Còn các vị
chóp bu csVN ở Thành Đô I&II vừa mù mà lại vừa câm không nói được nên lời
bởi bị trái táo Tàu nó chận ngang cổ... do đó dân gian ví von đó là chứng
"Mù Câm". Xin các bạn chớ "Nói lái" mà xúc phạm đến các hồn
ma ở lăng Ba Đình và những lãnh tụ bị "nhị chứng nan y" Mù và Câm còn
đang cầm bút ký!
Ngày 22/6/2013
David Thiên Ngọc
No comments:
Post a Comment