Tuesday, July 3, 2012

CUỘC CÁCH MẠNG CỦA SỢ HÃI (PHẦN 1, 2 VÀ 3)

(Phần 1)













Tội ác lớn nhất của một triều đại không hẳn là đốt sách,
giết người hay làm cho đất nước trở nên nghèo khó,
mà là làm cho cả một dân tộc trở nên hèn nhát, ích kỷ và mê muội.


Vũ Đông Hà (Danlambao) - Nhìn lại mấy mươi năm, lột da, rướm máu chính mình để thấy bóng ma sợ hãi chế ngự cả một dân tộc như thế nào. Để không trách nhau là hèn. Để đừng mắng nhau là nhát. Để biết sẽ khó mà có một cuộc cách mạng dân chủ nếu sự sợ hãi vẫn tiếp tục là bóng ma lởn vởn trên đầu. Để biết tại sao mọi lời kêu gọi chỉ có được vài trăm người hưởng ứng, không đủ để tạo thành cơn sóng đổi đời. Để biết mọi kế hoạch đều bất khả thi nếu bước chân con người vẫn rụt rè và chôn cứng trong bốn bức tường hãi sợ.

Gần nửa thế kỷ với căn bệnh trầm kha này, liều thuốc nào có thể chữa trị được cho chúng ta? Đã đến lúc chúng ta phải tập trung ngậm ngãi tìm trầm, đi tìm, đi kiếm để sớm chấm dứt tình trạng đứng bên này bờ ảo vọng bằng đôi chân run mà cứ ước mơ đội đá vá trời, để những lời kêu gọi tha thiết nhất không chỉ dội lại như những tiếng vọng từ vực sâu...

I. Từ Điện Biên Phủ đến Sài Gòn 

Khi mùi thuốc súng không còn phảng phất trong không gian lòng chảo Mường Thanh, khi những tiếng hò vang chào đón đoàn quân chiến thắng trở về thủ đô đã chìm lắng, khi những người nông dân tải gạo ra chiến trường đã về lại "xứ Đoài mây trắng lắm..., trở lại đồng Bương Cấn, về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng..." (1) thì những người lãnh đạo đảng Cộng sản đối diện với một thử thách mới, gay go gấp ngàn lần cuộc chiến Điện Biên: giữ quyền và điều hành, xây dựng, phát triển đất nước.

Những câu thơ "Trên đất nước, như huân chương trên ngực / Dân tộc ta, dân tộc anh hùng! / Điện Biên vời vợi nghìn trùng / Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta..." (2) không là những câu thần chú làm nên cơm áo.

Những "Chiến sỹ anh hùng / Đầu nung lửa sắt / Năm mươi sáu ngày đêm / Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt / Máu trộn bùn non / Gan không núng / Chí không mòn!" (2) không thừa trí tuệ để tự mình thảo nên một phương án thích nghi cho chính sách phát triển quốc gia.

Thiên tài quân sự của thời chiến không đương nhiên là lãnh đạo tài ba trong thời bình. Winston Churchill, Charles de Gaulle, Harry S. Truman - những người hùng ca khúc khải hoàng vào thời khắc sau cùng của Thế chiến thứ 2, trong thời bình chỉ để lại dấu ấn của những nhà lãnh đạo tầm thường. Vai trò của họ được lịch sử ghi nhận, nhưng thời của họ đã qua, nhường chỗ lại cho những người lãnh đạo tương lai, thích hợp cho bối cảnh và nhu cầu phát triển đất nước thời bình.

Tại Việt Nam, tham vọng cầm quyền vô thời hạn đã được thể hiện sau cuộc cướp chính quyền bằng những khẩu hiệu màu đỏ với những cụm từ "đời đời", "muôn năm", được bổ sung thêm bằng những "quang vinh", "vĩ đại". Tham vọng đó, nếu đặt trong nhu cầu xây dựng lại đất nước sau một thế kỷ mất độc lập, đã không thể đạt được bằng khả năng và trí tuệ của những người chỉ quen cầm súng, khoét núi, ngủ hầm, đào địa đạo và đầu óc chỉ được bồi dưỡng bằng giáo điều cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam phải bằng mọi cách để duy trì vai trò lãnh đạo lâu dài sau khi tiếng súng đã im hơi và tiếng óc ách từ bao tử đói của người dân đang trỗi dậy.

Từ đó, một cuộc chiến mới được dựng lên và trở thành sứ mạng của toàn đảng, được áp đặt lên toàn dân miền Bắc: Đấu tranh giai cấp. Kẻ thù không còn là những tên thực dân da trắng mà là những con người da vàng máu đỏ trong làng trong xóm. Phương án đã có sẵn, đã được tiến hành bởi những đồng chí đồng mộng đồng sàng từ phía "bên kia biên giới cũng là quê hương" (3). Những tên Hồng Vệ Binh một thời từng là thảo khấu trên con đường Vạn lý Trường chinh khi bị truy đuổi bởi Tưởng Giới Thạch được mời sang làm cố vấn. Ảnh Mao chủ tịch và Hồ chủ tịch được song hành treo lên "Bác Hồ ta đó cũng là Bác Mao" (4).

Cải cách Ruộng đất bắt đầu...

Cuộc cách mạng long trời lỡ đất "Giết, giết nữa đi bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng / Thờ Mao chủ tịch, thờ Xì ta Lin bất diệt." (5) được lệnh xuất quân.

Cho đảng bền lâu...

Chiến dịch vĩ đại để cấy những con vi trùng SỢ HÃI vào tim não của mấy mươi triệu người dân được khởi xướng.

Cho đảng muôn năm...

Vũ khí là những cái loa và miếng vải đen bịt mắt.

Chiến sĩ diệt thù và kẻ thù đều mang cùng một màu da, một dòng máu, cùng chia sẻ với nhau một nơi chôn nhau cắt rốn: nhân dân.

Những thành phần có khả năng đe dọa đến vai trò lãnh đạo của đảng qua đó bị loại trừ.

Khả năng lãnh đạo đất nước của đảng vinh quang không đo đạt bằng mức độ tăng trưởng mà bằng thành tích bao nhiêu "kẻ thù" bị tiêu diệt.

Con số người bị tiêu diệt trong cuộc cách mạng "long trời lỡ đất" không ai biết đích xác nhưng chắc chắn một điều: gần như toàn bộ lòng can đảm của một nửa phần đất nước từ dòng sông Bến Hải trở lên, mới ngày nào làm nên chiến thắng Điện Biên lẫy lừng, đã bị giết chết nội trong vòng 3 năm.

Từ đó, Đảng cộng sản xây dựng và củng cố guồng máy cai trị bằng những con vi trùng sợ hãi mỗi ngày một ăn sâu vào từng tế bào của người dân miền Bắc. Lởn vởn trên những cái đầu bấy giờ chỉ biết cúi xuống là những bóng ma...

Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi mưa rơi
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ... (6)

Hai mươi năm sau. Sài Gòn được "giải phóng". Nhà văn nữ Dương Thu Hương ngồi khóc bên lề đường khi nhận ra rằng "nền văn minh đã thua chế độ man rợ" (7). Những người cộng sản một lần nữa phải đối diện với bài toán của 20 năm trước. Thời kỳ toàn trị do đó được mở ra và cuộc cách mạng long trời lỡ đất ngày xưa được thay thế bằng những chiến dịch "Học tập cải tạo" không biết ngày về, chính sách đổi tiền, chiến dịch X1, X2 “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” mà vẫn được quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”, xua dân đi kinh tế mới để lấy nhà và tài sản của dân. Chỉ vài năm sau, từ một trung tâm công nghiệp lớn nhất Đông Nam Á, toàn bộ nền sản xuất của Sài Gòn bị tê liệt. Người dân Sài Gòn 300 năm trước đó chưa bao giờ thiếu gạo, sau khi giải phóng xong thì cái dạ dày của người dân thành phố được giải phóng khỏi gạo. (8)

Gần 1 triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi, một cuộc di tản vĩ đại nhất trong lịch sử hơn 4000 năm của một dân tộc có truyền thống bám lấy quê cha đất tổ. Những thành phần ưu tú nhất của xã hội miền Nam phải đành đoạn lìa bỏ quê hương.

Miền Nam, 20 năm sau đã cùng với đồng bào miền Bắc cúi đầu trong nỗi sợ hãi triền miên.Thống nhất!

II. Sợ hãi - căn bệnh ung thư và di truyền

Gần 60 năm ở miền Bắc và 40 năm ở miền Nam, bầy vi trùng sợ hãi đã đục khoét vào từng phế phủ của dân tộc Việt Nam. Sợ đảng, sợ cán bộ, sợ lẫn nhau và sợ ngay cả ý tưởng độc lập của chính mình. Nỗi sợ bám theo năm tháng làm cho người ta phải tự đánh mất chính mình để có thể yên thân sống.

Những người cha, người mẹ cũng đã truyền lại cho những đứa con của mình những con vi trùng độc hại ấy. Truyền lại bằng chính thái độ sống của họ mà con cái chứng kiến từ lúc lọt lòng cho đến trưởng thành. Truyền lại bằng những lời "dạy bảo" tóm gọn trong triết lý sống tiêu biểu của thời đại búa liềm "khôn sống, dại chết". Hậu quả là những thế hệ thứ hai, thứ ba sau Cải cách Ruộng đất, sau Cải tạo Tư sản Mại bản đã coi đó là lẽ thường tình, một lẽ sống không có lẽ khác.

Ngoài đảng thì thế. Ở trong đảng, đồng chí sợ nhau. Con người nhìn nhau trong ánh mắt xoi mói. Phê và tự phê trở thành "văn hóa" đảng. Người ta sợ ngay cả khi không có gì xấu xa để tự khai và để chứng minh sự thành khẩn. Kẻ thù thực dân, đế quốc đã cút; cường hào ác bá địa chủ đã được đảng tuyên bố "đào tận gốc, trốc tận rễ" thì đã có ngay một kẻ thù mới: thế lực thù địch và tự diễn biến. Kẻ thù này vô hình nhưng hiện hữu khắp nơi và bất cứ lúc nào. Theo chiếc đũa trừ ma huyền diệu của đảng, mọi tư tưởng, mọi hành động của mỗi người - hợp lòng dân nhưng không theo ý đảng - đều do bóng ma kẻ thù này kích động, xúi dục, giựt giây.

Dân sợ đảng, đảng viên sợ đồng chí, cả nước đội lên đầu bảng hiệu "Đảng là cuộc sống của tôi" với sự sợ hãi triền miên.

Và cứ thế, hơn nửa thế kỷ trôi theo mưa sa trên màu cờ đỏ, đảng đã thành công trong sứ mạng biến đại khối nhân dân thành những con người ngoan ngoãn nhất, biết cúi đầu, câm miệng trước dối trá, bất công và tội ác. Khi bộ não đã bị đảng chiếm đoạt, tư tưởng bị dẫn dắt, con người đã trở thành nạn nhân dễ dàng nhất cho những tiểu xảo tuyên truyền, chính sách nhồi sọ, bưng bít thông tin. Sợ hãi, tê liệt, nhiều người đã trở thành mù quáng với những giả-dối-tưởng-là-sự-thật. Stalin, Lenin, Mao, Castro, Kim, Hồ… tất cả trở thành những ông thánh trong cái thế giới mà “sự thật” nằm trong tay đảng, trong tay những kẻ có toàn quyền sở hữu những cái loa cũng như cái giẻ vô hình bịt miệng nhân dân. Trong thế giới ấy, ngày xưa, và bây giờ vẫn còn, những đám khóc vĩ đại với những giọt nước mắt mù khi lãnh chúa qua đời nhưng sự nghiệp vẫn đời đời sống mãi từ những cái loa và khẩu hiệu.

Trong cái thế giới tê liệt vì sợ ấy, người dân như những con cừu non được dàn lãnh đạo cáo nhào nặn tâm hồn để lớn lên trở thành con (bị) lừa và sau đó là một con (đi) lừa những chú cừu trẻ thơ khác. Cuối cùng cừu, lừa, cáo chung chạ và thành một loài mới: loài sản. Trong không gian độc trị của loài sản ấy, lằn ranh phân định giữa nạn nhân và kẻ thủ ác cũng dần dà bị xóa mờ. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ góp phần vào quyết định chọn lựa ngôi sao vàng nằm trên lá cờ màu máu do đảng bắt chước từ các đồng chí "bên kia biên giới là nhà" nhưng đã đứng nghiêm trang và sẵn sàng hy sinh trước mảnh vải đã trở thành biểu tượng quốc gia. Đối với nhiều người, những gì có được ngày hôm nay là nhờ ơn bác và đảng chứ không phải bằng mồ hôi và trí tuệ của mấy chục triệu người. Lãnh tụ của đảng đã trở thành cha già muôn vàn kính yêu của cả dân tộc và là thước đo, chuẩn mực đạo đức trên mọi ngôn từ và diễn văn.

Cũng có những người không đui mù, cũng chẳng ngu dại, nhưng nỗi sợ hãi thâm căn cố đế, cộng với tính tinh ranh của loài sóc khi phải sống đời với cáo, đã biến hoá tinh thông thành những mợ két hát theo thuần thục nhất, những chú khỉ đu dây lão luyện nhất. Họ mau mắn tung hô thủ lãnh của đảng khi các đồng chí thả cho vài cọng cỏ rơm và thiếu điều quên ngay chính đồng chí này là người bao năm nay vừa ăn cắp, ăn cướp vừa đốt rụi cánh đồng cỏ xanh mướt đáng lý là của họ.

Cũng có khi, chúng ta như những con cừu - thành lừa - thành sản một ngày nào đó soi gương và nhận ra mình vốn dĩ là một con cừu bị lừa. Những đêm khuya trằn trọc đau đớn có đến, lương tâm tưởng đã ngủ quên có choàng thức giữa canh thâu. Thế nhưng khi con gà cất tiếng gáy, tiếng loa đầu ngõ vang lên thì chúng ta lại lồm cồm ngồi dậy và sống y lại cuộc sống đong đầy nỗi sợ của ngày hôm qua. Nhìn ra ngoài khung cửa, chúng ta sợ những chiếc áo vàng thấp thoáng và tiếng leng keng hình số 8. Nhìn vào gương, chúng ta sợ làm thất vọng, sợ làm rách thêm cái lương tâm vốn đã bị đảng xé rách toang theo năm tháng cuộc đời.

Trong cuộc đời với lương tâm rách bươn vì sợ hãi đó, xuất hiện một thái độ sống mới: thờ ơ - hay mackeno, theo danh từ thời thượng đã quá mùa. Thái độ sống đó, chủ động có ý thức hay nằm trong tiềm thức của mỗi người, đều là hệ quả của sự sợ hãi đã truyền kiếp hay vốn đã thành bẩm sinh. Thờ ơ với tất cả, không quan tâm với mọi sự, con người tự chích cho mình mũi thuốc vô cảm để không còn cảm giác gì nữa đối với những điều tồi tệ chung quanh. Khi sự quan tâm bị đóng nút chai thì ý tưởng phản kháng sẽ không thể tiết phát. Và như vậy không còn gì để sợ hãi, không làm gì để phải sợ hãi. Đó là giai đoạn sau cùng của căn bệnh ung thư mãn tính - sống không còn cảm giác.

Và đó là điều mà đảng muốn; ý muốn của những người không có khả năng điều hành đất nước nhưng muốn độc quyền lãnh đạo muôn năm. Vai trò lãnh đạo đó đã được xây dựng bằng máu và nước mắt của nhiều thế hệ, của cả đảng viên lẫn không đảng viên để phát tán căn bệnh ung thư thời đại búa liềm: Sợ. Vai trò đó tồn tại đến ngày hôm nay, không tùy thuộc vào khả năng phát triển đất nước mà nhờ vào gần 90 triệu người dân đã và đang được "thuần".

Nhìn lại mấy mươi năm, lột da, rướm máu chính mình để thấy bóng ma sợ hãi nó chế ngự cả một dân tộc như thế nào. Để không trách nhau là hèn. Để đừng mắng nhau là nhát.

Để biết sẽ khó mà có một cuộc cách mạng dân chủ nếu sự sợ hãi vẫn tiếp tục là bóng ma lởn vởn trên đầu.

Để biết tại sao mọi lời kêu gọi chỉ có được vài trăm hoặc vài ngàn người hưởng ứng, không đủ để tạo thành cơn sóng đổi đời.

Để biết mọi kế hoạch đều bất khả thi nếu bước chân con người vẫn rụt rè và chôn cứng trong bốn bức tường hãi sợ.

Gần nửa thế kỷ với căn bệnh trầm kha này, liều thuốc nào có thể chữa trị được cho chúng ta? Đã đến lúc chúng ta phải tập trung ngậm ngãi tìm trầm, đi tìm, đi kiếm để sớm chấm dứt tình trạng đứng bên này bờ ảo vọng bằng đôi chân run mà cứ ước mơ đội đá vá trời, để những lời kêu gọi tha thiết nhất không chỉ dội lại như những tiếng vọng từ vực sâu.

 CUỘC CÁCH MẠNG CỦA SỢ HÃI (Phần 2): NHỮNG VIÊN GẠCH NỀN TẢNG








Cây đại thụ cũng phải lớn lên từ một hạt mầm yếu đuối

Vũ Đông Hà (Danlambao) - Hình ảnh sau cùng của một cuộc cách mạng là hàng trăm ngàn người, cả triệu người trên một quãng trường. Warsaw, Moscow, Prague, Manila, Belgrade, Tunis, Cairo... Chỉ thấy hình ảnh của những người can đảm. Không tìm ra được những khuôn mặt sợ hãi. Ôi! những dân tộc anh hùng và can đảm. Ôi! Dân tộc ta, sao mà hèn nhát!

Có thật như vậy không?
Sợ hãi không phải chỉ riêng ai

Những ngày trước tháng Hai năm 2011, trước thời khắc hàng trăm ngàn người đứng thẳng tại quảng trường Tahrir, đối diện với chiến xa và những họng súng lạnh lùng của bạo quyền Mubarak, người dân Ai Cập cũng đã sống trong nỗi sợ hãi triền miên.

Mật vụ của Mubarak không chỉ bắt người dân lên xe bus, đem về đồn công an và một ngày sau thả ra. Chúng tra tấn, dùng nhục hình, đôi khi bắt luôn cả vợ, hoặc chị, em, hay con gái và luân phiên hãm hiếp họ ngày đêm ngay trước mặt những người chống lại vua không ngai Mubarak.

Mật vụ của Mubarak không chỉ tra tấn người dân trong đồn kín; chúng tra tấn El-Sharkawi, một sinh viên kêu gọi dân chủ, ngay trên đường phố như là một hình ảnh bình thường, phổ thông, cố tình đập vào mắt người dân để quần chúng phải sợ hãi cúi đầu. El-Sharkawi không phải là trường hợp duy nhất của những năm dài bóng đêm Mubarak bao phủ.

Mật vụ của Mubarak không chỉ đem xe bus để chở tù mà còn dùng để cày nát lên thân xác người dân trên đường phố Cairo.




Trước mùa xuân 2011, độc tài Mubarak nắm trong tay guồng máy quân đội sẵn sàng bắn xả vào dân chúng và một nền công an trị tàn ác hàng đầu thế giới. Con cháu của những Pharaoh thật sự sống trong sự sợ hãi đến tê liệt trong một thời gian dài trước Mùa Xuân Ai Cập. 

Những người hoạt động trẻ tuổi từ Miến Điện, Tibet, Trung Quốc, Ai Cập, Zimbabwe, Việt Nam... khi gặp nhau ở một thành phố nhỏ như Chiang Rai -Thái Lan hoặc tại thành phố xinh đẹp với những đại lộ rợp mát bóng cây cam như Seville - Spain đã than thở với nhau về nỗi sợ hãi đến hèn nhát của đa phần người dân của họ. Cuối cùng tất cả nhìn nhau và nhận ra rằng đó không phải là vấn nạn của riêng đất nước nào trong nhóm họ.

Năm ngoái, 2011, những sinh viên phản kháng Miến Điện gặp gỡ những thành viên lãnh đạoPhong trào Optor, những người đã thành công trong việc hạ bệ độc tài Slobodan Milošević tại Serbia và sau đó hỗ trợ cho nhiều cuộc cách mạng thành công khác trên thế giới, gần đây nhất là Ai Cập. Khi được hỏi "các bạn muốn học hỏi những điều gì?", K2, một lãnh đạo cốt cán của giới trẻ Miến Điện, người đã dự phần tổ chức và tham gia vào Cách mạng Màu vàng cam(Saffron Revolution) trả lời: "Chúng tôi muốn học cách huy động quần chúng và vượt qua sợ hãi."


Làm thế nào để người dân vượt qua sự sợ hãi vốn đã mọc rễ sâu qua nhiều năm dưới chế độ độc tài?Câu hỏi riêng của mỗi người, mỗi đất nước nhưng lại rất chung cho những người cùng chia sẻ một lý tưởng - gỡ bỏ ách độc tài trên quê hương họ. 

Đó cũng là bài toán cốt lõi mà Mohamed Adel (ảnh trái), một blogger lúc 20 tuổi và là thành viên của Phong trào 6 Tháng 4 (6th April Movement) mang theo khi anh cùng với một nhóm bạn đến thủ đô Belgrade - Serbia vào mùa hè năm 2009. Ở đó, những chàng thanh niên làm nên cuộc Cách mạng Mùa Xuân Ai Cập đã gặp những linh hồn của cuộc Cách mạng Tháng 10, 2000 của Serbia - Phong trào Otpor.

Điểm khởi đầu của một con đường 

Hãy tưởng tượng bạn là Mohamed Adel của 6 tháng 4, hãy tưởng tượng bạn là Srdja Popovic, một trong những thủ lãnh của Otpor và đây là bài toán họ phải giải quyết:


Bạn sẽ làm gì để có được đám đông ấy, một đám đông bỏ lại sau lưng nỗi sợ hãi dường như đã ăn sâu vào tim não bởi chính sách cai trị độc tài trải qua nhiều năm tháng, nhiều thế hệ để bước ra khỏi nhà làm nên cuộc cách mạng? 

Tuyên bố thành lập một tổ chức hoành tráng với đầy đủ đại diện sáng giá nhất của những thành phần khác nhau trong xã hội?

Đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn và hay nhất trong lịch sử loài người?

Nếu chỉ đơn giản như thế thì lịch sử đã không phải mỏi mòn mong đợi để có một cuộc đổi đời.

Bởi vì những câu hỏi mấu chốt vẫn chưa thể trả lời được:

* Làm thế nào để biết rằng MỘT NGƯỜI - dù đó chỉ là một sinh viên, một blogger đã từng viết bài phê phán sai trái của nhà cầm quyền, hay một nhà thơ đã viết lên nỗi nhục của con người bị bịt miệng, hoặc là một thành viên của cộng đồng mạng đã viết cả trăm phản hồi, phụ họa kêu gọi mọi người đáp ứng lời kêu gọi... sẽ xuống đường hay ở nhà?

* Cách gì để biết rằng đây sẽ không chỉ là một loại "xuống đường trên mạng", hiện hữu khi máy còm được "logged-on", biến mất khi "logged-off" và đường phố vẫn vắng tênh?

* Làm sao để thay vì là chiếc xe bít bùng của công an chở nhóm biểu tình về đồn thì là hàng trăm chiếc xe chở hàng ngàn người đến trước quãng trường Ba Đình như đã xảy ra trước tòa nhà quốc hội tại Belgrade?

* Và với những người dân thầm lặng khác, những người không cần ai rao giảng về một giấc mơ công bằng vì cuộc đời họ chính là phiên bản của những bất công? Họ có hưởng ứng đơn thuần chỉ bằng một lời kêu gọi?

* Và sau đó sự việc tiếp nối sẽ như thế nào trong tiến trình dài hạn? Và thật sự có một "tiến trình" để có sự "tiếp nối" hay không?

Không trả lời được thì tất cả chỉ là một "chiến-dịch-không-có-kế-hoạch" và yếu tố thành công / thất bại là sự may rủi.

Đích đến của một cuộc đổi đời không thể dựa vào yếu tố cầu may.

Và không thể nào quên vẫn còn đó một guồng máy bạo lực khổng lồ, những đe dọa có thật to như tảng núi đè nặng lên vai mỗi con người khi đôi chân muốn bước ra khỏi nhà:









Sự can đảm dấn thân sẽ không có được; ngược lại - không chừng nỗi sợ hãi lại càng gia tăng bởi những động thái thuần hy vọng như ném viên đá qua bên kia tường mà không biết trúng vào đâu. Cùng lúc, guồng máy bạo lực kia lại biết rất rõ họ sẽ làm gì.

Hơn ai hết, Mohamed Adel của 6 Tháng 4 hiểu rõ chuyện này khi anh và các bạn hỗ trợ cho cuộc đình công của nhà máy dệt quốc doanh tại thành phố El-Mahalla el-Kubra. Anh và các bạn đã làm nên phép lạ trên thế giới mạng - trong vòng một thời gian cực ngắn đã huy động được hơn 70.000 người theo (follower) trên Facebook của nhóm. Nhưng cuộc đình công đã thất bại với nhiều thiệt hại bao gồm cả nhân sự. Những cuộc biểu tình dự phóng xảy ra khắp nơi đã tắt ngúm mau chóng.

Họ đã nhận thức được những điều gì sau đó?:

- Con số người tham dự hưởng ứng trong thế giới thật khác hẳn với những gì "thấy" được trước đó trên thế giới ảo.

- Những con người trên thế giới ảo biết rất rõ những gì mình muốn nhưng mơ hồ và khác nhauvề những điều mình phải làm.

- Những người đứng ra kêu gọi không biết gì nhiều về chiến lược, chiến thuật, phương pháp và chiêu thức.

- Xuống đường trên mạng khác hẳn với xuống đường trên đường phố!

- Mạng xã hội là một công cụ thần kỳ để gầy dựng mạng lưới (network) để chuyển tải thông điệp và nối kết. Thần kỳ nhưng không là phép lạ. Cần nhưng không đủ.

Và vì thế Mohamed Adel đã lên đường sang Serbia để học hỏi kinh nghiệm làm cách mạng đường phố trong thời đại tin học.
Và vì thế, những người sinh viên trẻ tuổi như Mohamed Adel của 6 Tháng 4, như Slobodan Djinovic, Srdja Popovic (ảnh trái)của Otpor vào thập niên trước, từ ban đầu đã ngồi xuống, bỏ lại sau lưng những thói quen truyền thống, tư duy đóng khung, từ bỏ cách làm việc theo lối "mì ăn liền". Bắt đầu như một trang giấy trắng, họ đã từng bước nhỏ, bằng tinh thần khoa học và kiến thức lập kế hoạch hiện đại, tiến hành những công việc cụ thể nhất để giải đáp bài toán căn bản nhất:
1. Làm thế nào để thay đổi tư duy của số đông đang tin rằng tập đoàn cai trị phải ra đi, nhưng lại nghĩ đó là chuyện không thể thực hiện được hoặc quá nguy hiểm. Từ đó:

2. Làm thế nào để thuyết phục những người có lòng, quan tâm hiểu rằng không phải cứ như là một phép lạ, như là một-sự-xảy-ra-tức-thì khi thấy ở một quốc gia nào đó, hàng trăm ngàn người xuống đường - mà thật sự đó là kết quả của những chuẩn bị, xây dựng, phát triển qua nhiều năm tháng. Sau cùng:

3. Làm thế nào để những con người thụ động, hoài nghi, yếm thế, sợ hãi, tản mác trở thành những người cùng-nhau-tranh-đấu trên đường phố.

Những "làm thế nào" đó, những "công án" nền tảng này đã được giải toán bằng những chiến lược, chiến thuật, chiêu thức, phương thức (grand strategy, strategy, tactics, methods) theo một tiến trình có kế hoạch, khoa học (strategic planning, methodology) để từng bước xây dựng và phát triển sức mạnh quần chúng nhằm: làm cho "ta" mạnh, làm cho "địch" yếu.

Những "làm thế nào" đó không được giải trình bằng những diễn văn, tuyên ngôn và lời kêu gọi.

Đích đến của một cuộc cách mạng quần chúng

Mục tiêu sau cùng của cách mạng dân chủ là xóa bỏ độc tài. Tuy nhiên, đó là mục tiêu nhắm tới (đường dài). Ở mỗi kế hoạch mục tiêu trước mắt (ngắn hạn) là có thêm người tham gia; mỗi chuyển động xã hội, mỗi biến sự chính trị là thời cơ, là cơ hội để đưa ra những kế hoạch hành động nhằm có thêm người tham gia. Thời điểm chín mùi để đạt được mục tiêu sau cùng chỉ xảy ra khi lực lượng quần chúng có đủ lực để tạo nên tình trạng đột biến, bùng nổ. Lá cờ Dân chủ và khẩu hiệu Tự do đa phần được giương lên vào thời khắc sau cùng.

Sẽ không có một cuộc cách mạng tức thì. Sẽ khó để trải qua một đêm dài trong giấc ngủ SỢ HÃI mở mắt ra bỗng thành người CAN ĐẢM. Cuộc cách mạng của sợ hãi là một tiến trình có kế hoạch và nhiều chông gai. Một con đường luôn có điểm khởi hành và điểm đến và giữa chúng là một khoảng cách dài.

Kinh nghiệm của Otpor: ít ai thoát ra khỏi sự sợ hãi của mình CHỈ VÌ sau khi đọc một bài bình luận, một tuyên ngôn, một lời kêu gọi!

Đón đầu đi tắt, ăn xỗi ở thì không thể thay đổi được vận mạng của một đất nước với 90 triệu người.

Làm thế nào để người dân vượt qua sự sợ hãi để có thể nắm lấy lại danh dự, và vận mạng đời sống của CHÍNH MÌNH trong cái chung là danh dự và vận mạng của TỔ QUỐC?

Làm thế nào?





Làm thế nào? và điểm khởi đầu... 

Cafe Greenet - nơi khởi đầu của Otpor (ảnh VĐH)
Bước đầu tiên mà Slobodan Djinovic, Srdja Popovic đã làm là tìm những người đồng hành, dấn thân, có thể tin tưởng nhau và gắn bó nhau để trở thành những hạt nhân củaPhong trào Otpor.

Bước thứ hai họ cùng nhau bỏ hết thì giờ đểhọc hỏi những phương thức đấu tranh - từ của Mohandas Gandhi sang Martin Luther King đến Gene Sharp..., phối hợp với phương thức "Lượng giá Chiến lược" của Bob Harvey và mô hình lập kế hoạch hiện đại của các công ty. Họ không chỉ "đọc". Họ đã gặp Gene Sharp, Bob Harvey, đã ăn, đã ngũ với những kinh nghiệm thành công lẫn thất bại với nhiều xương máu của người đi trước. Cùng lúc, họ thẳng thắn đối chiếu những thất bại quá khứ.

Từ đó, bước thứ ba, họ đã tiến hành LẠI công cuộc đấu tranh bằng con số 10 người, khởi đi vào mùa thu năm 1998 tại quán cà phê Greenet, thủ đô Belgrade.

2 năm sau, từ con số 10 người ấy, Otpor có 70.000 thành viên trên khắp mọi vùng đất nước Serbia.

11 năm sau, Mohamed Adel và vài người bạn của anh trong 6 Tháng 4 theo bước Otpor. Chỉ 2 năm sau đó, thế giới có một cụm từ mới làm phấn khởi lòng người: Mùa xuân Ai Cập. 



CUỘC CÁCH MẠNG CỦA SỢ HÃI (Phần 3) - SỨC MẠNH CỦA ĐÁM ĐÔNG

Ở nơi nào mà sự sợ hãi nhường bước cho lòng can đảm?: ĐÁM ĐÔNG. 


Vũ Đông Hà (Danlambao) - Ở nơi đó và trong một khoảnh khắc kỳ diệu, một người có thể cảm nhận rằng có điều gì đó ý nghĩa hơn, to lớn hơn cá nhân đơn lẽ của mình. Mỗi tiếng hô rõ ràng dạn dĩ hơn, vang lớn hơn. Mỗi cánh tay vung lên rõ ràng mạnh mẽ hơn. Mỗi bước chân đi tới rõ ràng dứt khoát hơn. Con người có lúc cảm thấy mình dường như được chấp cánh. Nỗi sợ hãi hôm qua nhường bước cho lòng can đảm. Sức mạnh quần chúng. Cá thể đã chan hòa, đã TRỞ THÀNH đám đông. People Power. Hàng ngàn con người nhỏ bé, yếu đuối kết hợp lại đã trở thành một sức mạnh vô biên, đẩy lùi sợ hãi. 
Nhưng làm thế nào để có 1 người vẫn còn nhiều sợ hãi + 1 + 1 + 1.... để có được hàng trăm ngàn người cộng hưởng xua tan bóng mây sợ hãi trong lòng mỗi người và có khoảnh khắc kỳ diệu ấy? 


Câu chuyện hành trình muối của Mohandas Gandhi 
Đạo luật "Thuế muối" của thực dân Anh ngăn cấm người dân Ấn Độ quyền sản xuất và buôn bán muối. Đó là độc quyền của người Anh. Vi phạm đạo luật này bị khép vào tội hình sự. 
Mọi người dân đều cần muối. Đạo luật này ảnh hưởng đến đời sống sát sườn của TẤT CẢ nhân dân Ấn. "Bên cạnh nước và không khí, muối có lẽ là thứ con người cần nhất" - Mohandas Gandhi đã nhận xét như thế và đó là nền tảng để xác định đối tượng vận động cho chiến dịch"Satyagraha March" tạm dịch là "Hành trình Sức mạnh Sự thật". 
Ngày 2 tháng 3 năm 1930 Gandhi gửi thư đến cho quan toàn quyền Anh tại Ấn, Edward Frederick Lindley Wood, công khai tuyên bố bắt đầu vào ngày 11 tháng 3 ông sẽ bất tuân đạo luật thuế muối; nơi ông thể hiện hành động bất tuân này là một làng biển mang tên Dandi, bên bờ Ấn Độ dương, cách nơi ông đang ở 386 cây số; hành động ông sẽ làm là vốc một nhúm muối - biểu tượng phản kháng của ông. 
Ngày 12 tháng 3, sau khi gia hạn cho toàn quyền Anh thêm một ngày, Gandhi cùng với 78 thành viên bắt đầu hành trình dài 386 cây số từ Sabarmati đến nơi ông sẽ thể hiện hành động bất tuân luật. Toàn quyền Anh xem chuyện muối này là chuyện nhỏ, đòi độc lập mới là chuyện lớn. Cảnh sát Anh bình thản đón chờ để bắt Gandhi tại bãi biển Ấn Độ dương. 
Đoàn người của Gandhi với y phục trắng cổ truyền, dừng lại ở những ngôi làng, thị trấn trên đường đi. Ở mỗi nơi ông Gandhidiễn thuyết, tấn công đạo luật muối là vô nhân đạo và đây là cuộc chiến đấu của những người cùng khổ. Dân chúng tiếp tế rau cải và nhiều người gia nhập hành trình muối của ông. 


Hành trình 386 cây số của Gandhi đã được người dân Ấn của nhiều thành phố chứng kiến, ủng hộ. Những buổi mít tinhđông đảo xảy ra ở nơi ông dừng chân. Truyền thông thế giới hướng về "người đàn ông gầy gò nhỏ bé" đang được một đoàn người dài 3 cây số nhập dòng từ mỗi làng xã và mỗi ngày một tăng. 
Tay không, chân đất họ tiến về bờ biển Ấn Độ Dương. 
Ngày 5 tháng 4, 1930 Mohandas Gandhi và đoàn người lúc này đã vượt quá con số 50.000 đến bãi biển làng Dandi sau 23 ngày dài. 6:30 sáng, ngày 6 tháng 4, Gandhi vốc một nắm muối vàcông khai cùng với người dân Ấn thể hiện hành động bất tuân đạo luật của thực dân Anh. Biểu tượng lịch sử này đã dấy lên phong trào bất tuân phục với hàng triệu người dân Ấn chống lại những đạo luật muối. 
Lúc ấy, Toàn quyền Anh chỉ biết nhìn và bất lực. 

Đã quá muộn. Tại bãi biển Dandi không phải chỉ có mình ông Gandhi và vài người tùy tùng mà hơn 50.000 người Ấn không biết sợ hãi là gì. Đã quá muộn, cả nước Ấn, dân chúng Anh và thế giới đang chăm chú theo dõi và chấn động bởi những gì đang xảy ra tại bãi Dandi nhỏ bé, với người đàn ông nhỏ bé ỏ bờ biển Ấn Độ Dương. 
Tất cả đều nằm ngoài dự đoán của toàn quyền thực dân Anh. 
Tất cả đều nằm trong sự tính toán của Mohandas Gandhi. 
Vũ khí duy nhất ông có khi ông ngồi trong ngôi nhà nhỏ ở làng Sabarmati là bộ óc chiến lược và sự khéo léo. Trên sân khấu chính trị, Mohandas Gandhi đã trình chiếu cho dân Ấn và thế giới thấy được sức mạnh khủng khiếp của quần chúng khi nó được chuẩn bị, tính toán bởi một chiến lược gia đại tài. 
Mohandas Gandhi có lẽ sẽ khó thành công trong môi trường và bối cảnh VN ngày hôm nay nếu áp dụng 100% phương cách của hành trình muối. Trước cửa nhà ông sẽ có một đội ngũ công an của thực dân đỏ canh gác ngày đêm. Sẽ khó mà có được hành trình 23 ngày dài để từ 1 người trở thành một sư đoàn nhân dân nơi bờ biển cát. 
Gần 70 năm sau, Mohandas Gandhi có lẽ cũng phải biến hóa chiến lược của ông nếu ông sống tại Serbia. Nhưng đã có 10 sinh viên đại học Serbia, rút tỉa những bài học tinh túy của ông để trong vòng 2 năm sau ngày khởi động, phong trào quần chúng của họ đã phát triển đến hơn 70.000 thành viên. 

Tranh đấu đòi hỏi sự sáng tạo. Và chúng ta có thể học hỏi được từ nhà chiến lược vĩ đại này? 
Trong kế hoạch hành trình muối của Gandhi có những điểm nền tảng: 
Công khai thách đố bộ máy cai trị (đối phương) bằng một đòi hỏi dân sinh, vừa phải đối với kẻ cai trị, nhưng ảnh hưởng đến đời sống của đa phần dân chúng (chúng ta) và tạo sự quan tâm của truyền thông (dư luận thế giới) bằng một "kịch bản" một người nhỏ bé phản kháng lại cả một guồng máy cai trị khổng lồ. Trong toàn bộ kế hoạch ông đều có những chuẩn bị kỹ lưỡng nhắm vào 3 đối tượng ở trên: gia tăng sự tham gia của người dân, tạo thế khó xử cho bộ máy cai trị và tạo sự quan tâm hay đồng tình từ dư luận. 
Mohandas Gandhi không/chưa đề cập đến mục tiêu sau cùnglà độc lập dân tộc trong chiến dịch này. Thông điệp của ông ngắn gọn: Muối là nhu cầu sống của dân Ấn và người dân Ấn phải được quyền tự mình sản xuất và buôn bán muối. 

Monhandas Gandhi không/chưa kêu gọi quần chúng Ấn đứng lên chống lại chính phủ thực dân. Ông chỉ kêu gọi CÙNG NHAU bất tuân MỘT đạo luật bất công đang ảnh hưởng đến đời sống của từng người dân Ấn. Ông hiểu được tâm lý còn sợ hãi của dân ông.
Hiểu rõ đối tượng vận động, vận động để làm chuyện gì, mức độ phản kháng của người dân và phản ứng của đối phương lẫn dư luận... tất cả đều được tính toán để người dân vượt qua sợ hãi và tham gia. 
Về mặt chiến lược: Monhandas Gandhi đã tạo ấn tượng cho toàn quyền Anh là "trận chiến đối đầu" với ông và 78 thành viên của ông sẽ xảy ra tại bờ biển Ấn Độ dương. Trên thực tế, Gandhi đã bắt đầu trận chiến ngay từ lúc ông ra khỏi nhà. "Mặt trận" thật sự của ông là những thị trấn, làng xã đi qua để ông ra quân phát triển thành hàng ngàn người trước khi đến "mặt trận miền biển". Trong suốt 23 ngày người dân "ra quân không thấy bóng quân thù". Họ bớt đi sự sợ hãi và nhập dòng. Sự sợ hãi giảm xuống theo tỉ lệ nghịch với con số gia tăng của đám đông. Đó là bí quyết của ông để từ đạo quân 78 người tăng lên 50.000 người. 

Về mặt huy động quần chúng: Lời kêu gọi của Mohandas Gandhi chính là đôi bàn chân của ông. Người dân Ấn bước theo vết chân của ông trên hành trình dài 386 cây số và khát vọng của đích đến không phải là khát vọng của riêng ông, không phải là những điều to lớn, vô hình mà là nhu cầu hàng ngày, sát sườn, thấy được và sự bất công rõ rệt thể hiện bằng một nhúm muối nhỏ bé. 
Hành trình Satyagraha đi qua 4 khu vực dân cư và 48 ngôi làng. Ở mỗi nơi, Gandhi gửi thành viên đến trước để nghiên cứu tình hình. Ở mỗi nơi, kế hoạch tuyển mộ người đã có sẵn, những hoạt động tại chỗ đều đã lên kế hoạch, và những chương trình khai thác truyền thông cũng đã được chuẩn bị. 
Tại làng Aslali đầu tiên ông dừng bước, ông nói chuyện với 4.000 người, vận động sự gia nhập của dân làng, và những quan chức người Ấn tuyên bố chấm dứt hợp tác với nhà nước thực dân. Làng Aslali là bàn đạp quan trọng tạo trớn cho những chặng kế tới. Đó là chiến thuật của ông để từ đạo quân 78 người cuối cùng tăng lên 50.000 người. 
Về mặt xây dựng biểu tượng: Trên hành trình muối này, người ta thấy một đoàn người màu trắng dài 3 cây số. Đó không phải là một ngẫu nhiên là một tính toán chiến lược của một người đã sống cách đây gần thế kỷ. Sức mạnh của quần chúng thể hiện ở sự đồng nhất, hình ảnh đồng đội của một đạo quân nhân dân. Mỗi cá nhân có cảm giác mạnh mẽ là một phần tử của đám đông hợp nhất. Khi đó, nỗi sợ hãi riêng tư của mỗi người đã được sự cộng hưởng của đoàn quân biến thành lòng can đảm. Và hình ảnh đạo quân đồng nhất màu trắng của y phục cổ truyền Ấn đó cũng tạo nên sự sợ hãi từ phía cầm quyền. Ngày 6 tháng 4 - ngày đánh dấu bất tuân phục - cũng được chọn lựa vì ý nghĩa của nó. Đó là ngày đầu tiên của "Tuần lễ Quốc gia". 
Về mặt khai thác truyền thông: Nhiều tuần trước khi bắt đầu hành trình, Gandhi liên tục gửi thông tin đến truyền thông Ấn và thế giới. Với nhiều kịch tính trong ngôn ngữ, ông tạo nên sự hồi hộp theo dõi những gì sẽ xảy ra. Biểu tượng đoàn người màu trắng đã trở thành những tấm ảnh lạ và đẹp được các báo cho lên trang nhất và truyền thông thế giới đã trở thành những con mắt "cú vọ" vô tình tiếp tay ông theo dõi "những người Ăng Lê có truyền thống quý phái - gentlemen" sẽ phản ứng ra sao. Toàn bộ hành trình muối đã được Mohandas Gandhi chu đáo dàn dựng như một vở kịch vĩ đại buộc truyền thông Ấn Độ, Âu châu và Hoa Kỳ phải chạy theo để đưa tin. Mọi hành xử, trấn áp của tập đoàn thực dân Anh đối với ông và quần chúng sẽ được cả thế giới biết đến. 
Về mặt thực lực cốt lõi: Gandhi khởi hành với 78 thành viên. Họ là những "ashram" thân cận nhất của ông. Đây là thông điệp quan trọng và là nhu cầu căn bản cho việc tiến hành một kế hoạch, hoặc xây dựng một phong trào: Muốn có một đám đông hàng ngàn người thì người lãnh đạo phải có khả năng thuyết phục vài chục người để hình thành nên một tập hợp nòng cốt. 78 thành viên này lịch sử không nhắc nhiều đến tên tuổi nhưng chính là con tim và linh hồn của hành trình muối mà trong đó Mohandas Gandhi là bộ óc thần kỳ. Không có họ và chỉ có mỗi Gandhi, lịch sử nước Ấn chưa chắc đã có được hành trình muối để ghi lại. 
Thế đánh và mục tiêu: 

Mục tiêu của Mohandas Gandhi khi bốc một nắm muối thể hiện hành động bất tuân điều luật vô lý của thực dân Anh? Thực dân Anh ban đầu nghĩ đó là mục tiêu thách đố của ông. Người dân Ấn ban đầu cũng tưởng đó là mục tiêu của ông và nó đáp ứng với khát vọng đời sống của họ. Nhưng không, đó chỉ là chiêu thức cho một mục tiêu ngắn hạn hơn là mục tiêu tối hậu. Bằng kế hoạch tinh vi, khéo léo, đầy trí tuệ, Gandhi và những thành viên của ông đã từng bước mở cho người dân Ấn một mục tiêu cao hơn: danh dự của người dân Ấn. Hành trình muối của ông đã đánh thức cả dân tộc Ấn. Và đó là mục tiêu CHIẾN LƯỢC (dài hạn) của ông. Với CHIẾN THUẬT (ngắn hạn) của ông, trong vòng 23 ngày và 386 cây số miệng nói chân đi, thành viên của ông đã từ con số 78 nâng lên con số 50.000 tại bãi biển Dandi. Và đó là tập hợp những con người hành động, nhân tố nền tảng của công cuộc vận động toàn dân giành lại độc lập cho Ấn Độ. 

(Slobodan Djinovic - Phong trào Otpor - ảnh VĐH)

Theo thói quen, chúng ta thường chú trọng nhiều vào ước muốn thể hiện qua cái gọi là mục tiêu. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn của một tiến trình tranh đấu lâu dài, ước muốn không tự nó làm nên thành quả. Như Slobodan Djinovic, một thành viên sáng lậpPhong trào Otpor chia sẻ khi gặp nhau ở Belgrade "Hãy tập trung vào khả năng và đừng tập trung vào ước muốn". 

Xây dựng khả năng, gia tăng thành viên, mở rộng network, đào tạo kiến thức... là mục tiêu thật sự cho từng chiến dịch ngắn hạn trong giai đoạn đầu. Mỗi tiến trình của công việc luôn luôn đặt câu hỏi: Việc này sẽ giúp có thêm bao nhiêu người? Kết quả của kế hoạch có tạo NỀN TẢNG để mở rộng sự tham gia hay chúng ta lại bắt đầu lại từ đầu mỗi lần trong tương lai?... 
"Đôi khi công việc là phương tiện để tìm kiếm sự tham gia": Kế hoạch này có những CÔNG VIỆC để nó là cơ hội cho một số bạn tham gia, lãnh trách nhiệm? 

"Đôi khi công việc là cơ hội để gia tăng kiến thức": Mỗi thành viên học hỏi được gì sau khi làm những việc này? 
"One at a time revolution - and it's a revolution of number" - Hãy làm cách mạng với từng người một và đó là cuộc cách mạng của con số người" Slobodan Djinovic, người lãnh đạo phong trào Otpor thành công, sau đó sang Georgia hỗ trợ phong trào Kmatra! với Cách mạng Nhung, và cuộc Cách mạng Cam tại Ukraine, đã chia sẽ bí quyết thành công của anh như vậy.
Mọi việc làm dù mục tiêu cao cả đến đâu, dù có gây được khó khăn cho bộ máy độc tài, nhưng sau đó vẫn chừng đó một nhúm người là một kế hoạch thất bại. Một việc làm dù được dư luận ca ngợi đến đâu (hào hùng, can đảm, nhiệt tình, yêu nước...) nhưng sau đó gây thêm sự sợ hãi trong quần chúng cũng không nên xem là một thành công. Làm thế nào để người dân vượt qua sợ hãi để tham gia mới là mục tiêu, mới là thành công, mới là chiến thắng. 
Bài học của Gandhi, giúp được gì cho chúng ta khi đối chiếu với những gì đã được thực hiện tại Việt Nam? Câu hỏi này dành chung cho những người đặt trọng tâm, thì giờ, công sức vào việc chuẩn bị, lập kế hoạch, xây dựng thực lực và không rành viết tuyên ngôn.

No comments:

Post a Comment