Trần Mạnh Hảo
Lời đề từ trích của Tân Tử Lăng:
(“Văn trị” của Mao thật hồ đồ. Ông ta đã phá hoại một thế giới cũ, nhưng lại không xây dựng nổi một thế giới mới. Mao muốn đưa mọi người lên thiên đường, song lại đẩy họ xuống địa ngục... Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Mác và Ăng-ghen đề xướng trở thành một phong trào xã hội chủ nghĩa bạo lực trương ngọn cờ giải phóng giai cấp công nhân để phá huỷ lực lượng sản xuất tiên tiến...“chủ nghĩa xã hội khoa học” trở thành “chủ nghĩa xã hội bạo lực”, khiến mấy thế hệ những người cộng sản bao gồm Lenin, Stalin Mao Trạch Đông... lầm đường lạc lối...)... (trích trong cuốn “Mao Trạch Đông – ngàn năm công tội” của đại tá quân giải phóng nhân dân Trung Quốc Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, Thông Tấn xã Việt Nam dịch và xuất bản năm 2009).
Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 vừa qua là đại hội vĩnh biệt ba ông tổ của chủ nghĩa xã hội (không tưởng): Marx, Lenin, Mao Trạch Đông. Trong tất cả các văn kiện chính thức của đại hội này, không hề nhắc đến ba tên tuổi từng được cho là vĩ đại của Marx, Lenin, Mao, được tôn thờ ở Trung Quốc (và thờ ở Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cămpuchia của Khờ me đỏ...) Các văn kiện của đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 đều khẳng định: Đảng đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc “ba đại diện” (của Giang Trạch Dân... nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú của TMH) và xã hội học tập (thuyết của Hồ Cẩm Đào - nhưng tên ông này không được nhắc đến- chú TMH). Đến diễn văn bế mạc của tân chủ tịch đảng, chủ tịch nước kiêm người đứng đầu quân ủy trung ương Tập Cận Bình thì mệnh đề “xã hội học tập” của Hồ Cẩm Đào không được nhắc đến, chỉ nhắc đảng cộng sản Trung Quốc đi theo lý luận Đặng Tiểu Bình, nguyên tắc “ba đại diện” mà thôi. Thậm chí, sau diễn văn bế mạc và nhậm chức, Tập Cận Bình khi giới thiệu sáu vị trong thường vụ bộ chính trị đứng sau mình đã tránh dùng từ “đồng chí” mà dùng từ “đồng nghiệp”...
Vậy lý luận Đặng Tiểu Bình là gì? Thưa là thuyết “Mèo luận”: nôm na gói trong mấy từ mà họ Đặng đã phán sau khi Mao chết (1976): “Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”... Diễn nôm thuyết “Mèo luận” của Đặng là: tên gọi chế độ là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa không quan trọng, miễn là chủ nghĩa nào làm cho Trung Quốc thoát khỏi chết đói, thoát đại loạn, thoát khỏi các học thuyết phản động và tồi tệ rất xấu xa đốn mạt của Mao Trạch Đông. Sau khi cùng Diệp Kiếm Anh, Hoa Quốc Phong và các lão tướng dẹp bỏ bè lũ bốn tên, Đặng Tiểu Bình lập thuyết “Mèo luận”: dương ngọn cờ Mao Trạch Đông để xóa bỏ tư tưởng Mao, dương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội để dẹp bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa nước Trung Hoa đỏ vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa từ năm 1978. Về thực chất, Đảng cộng sản Trung Quốc dưới lý thuyết thực dụng “Mèo luận” nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình, đã chôn vùi chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông ngay từ năm 1978, năm xóa bỏ kinh tế quốc doanh bao cấp để thực thi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn còn dùng chiêu bài Mác-Lê-Mao hay chiêu bài “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” để ngụy trang.
Cù Thu Bạch (1899-1935) một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, từng là Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc năm 1927, 1928, 1930,1931 (là một trong ba người được cho là thiểu năng trí tuệ đã ngu ngốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Trung Quốc: Trần Độc Tú “1879-1942”, Lý Đại Chiêu “1888-1927”) thuở sinh thời đã có bài thơ rất lạ, tuồng như là lời sấm về số phận của Đảng Cộng sản Trung Quốc như sau:
Đó là bài thơ “A di đà Phật”: một bài thơ đẫm chất Thiền của họ Cù:
阿弥陀佛
不用论断,
不用操心;
无知的寻求,
愚昧的评论。
日间之伤,
请以梦治;
明日之日,
自然能至。...
A di đà phật (Người dịch: Lương Duy Thứ, Nam Trân)
“Đừng suy đoán
Đừng bận tâm
Tìm chi cái không biết
Bàn chi cái tối tăm
Vết thương trong ngày
Lấy mộng ban đêm hàn gắn
Ngày của ngày mai
Tự nhiên sẽ đến...”
Con đường hũ nút đi tìm thế giới không có thật của giai cấp vô sản bằng vũ lực đấu tranh giai cấp, chuyên chế vô sản, xóa bỏ hoàn toàn quá khứ (lịch sử) nhân loại, xóa bỏ tư hữu, tiêu diệt tư bản đầy máu và nước mắt của các đảng cộng sản theo Mác Lê nin (và theo Mao) đúng như câu thơ sấm truyền của Cù Thu Bạch tiên sinh: “Tìm chi cái không biết/ Bàn chi cái tối tăm/ Vết thương ban ngày/ Lấy mộng ban đêm hàn gắn.”
Mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là thiên đường không có thật trên trần gian: một xã hội phi biện chứng (Hegel đã truyền cho Marx cái ý tưởng ngu ngốc nhất của mình: đến thiên đường cộng sản, phép biện chứng sẽ biến mất); cái ác, cái xấu, cái giả trá của con người hoàn toàn biến mất, con người hóa những ông thánh, bà thánh, không cần làm việc, chỉ cần ngồi hưởng thụ: “làm theo năng lực, hưởng theo như cầu”. Năng lực có hạn, còn nhu cầu của con người thì vô biên.
Đại đồng cộng sản là một xã hội không có nhà nước, không có quốc gia, không có gia đình, không có chính quyền, không có pháp luật, không có tòa án, không có quân đội, công an, đảng phái, không tôn giáo, không hôn nhân, không có đau khổ, không cô đơn, không có ngân hàng, không có cá nhân, không có cái tôi; ra đường không biết bà ấy, cô ấy là vợ tôi hay vợ anh vì quyền sở hữu bị xóa bỏ; xe hơi, nhà cửa đẹp sang trọng là thế nhưng không còn khái niệm của anh hay của tôi mà là sở hữu toàn dân; tất cả tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất là sở hữu toàn dân; rồi thì vợ chồng toàn dân, con cái toàn dân, tình nhân toàn dân, cười vui toàn dân, làm tình toàn dân, cực khoái toàn dân, không còn cái gì gọi là riêng tư nữa; vì đây là xã hội của các vị thánh mà, hoàn toàn không có quan niệm sở hữu, không còn biện chứng tự nhiên và xã hội, chỉ có ngày mà không có đêm, chỉ có cười mà không có khóc, chỉ có vui mà không có buồn, chỉ có sống mà không có chết, chỉ có dương mà không có âm, chỉ có ăn mà không có ỉa (xin lỗi vì lúc đó theo Marx, lịch sử loài người dừng lại trong cái tuyệt đối, mọi sự hôi thối quyết không được phép tồn tại, tất cả đều thơm điếc mũi kể cả đồng chí bọ xít, phép tương đối của Alb. Einstein đã cáo chung, phép biện chứng đã biến mất theo Hegel-Marx)...
Anh và chị cũng không còn được sở hữu chính mình: anh và chị, tức cái tôi của mỗi người, cái cá thể đã biến mất, nên anh và chị đều là sở hữu toàn dân. Có người cắc cớ chợt ngứa miệng hỏi anh: cái bàn tay của anh có phải của anh không? - Không, của toàn dân! Cái đầu của anh có phải của anh không? - Không, của toàn dân! Cái ý nghĩ (tư duy) trong đầu anh có phải của anh không? - Không, của toàn dân! Cái con chim trong quần anh có phải của anh không?- Không, của toàn dân!
Đã bảo đến đại đồng cộng sản không còn khái niệm sở hữu, tư hữu nữa mà, hỏi hoài à! Từ “của” không còn tồn tại, từ “sở hữu”, từ “cá nhân”, từ “cái tôi” hoàn toàn biến mất, biến mất cả “sở hữu động từ, sở hữu danh từ” trong các thứ tiếng châu Âu... Người ta cũng sẽ không còn đọc nổi cuốn “Tư bản luận” của Marx nữa vì lúc đó các sở hữu động từ, sở hữu danh từ trong tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh... nơi cuốn sách này đều tự động biến mất...
Xã hội thiên đường cộng sản của Mác Lê Mao là một xã hội bánh vẽ, một xã hội phi nhân như thế, lếu láo như thế, bịa đặt tức cười đến con nít cũng không tin nổi như thế mà trời ơi, đã có hàng triệu, thậm chí hàng tỉ người tin theo, hay bị bắt buộc phải tin theo, vì các đồng chí vô sản sẽ nện búa lên đầu anh, lấy liềm quặp vào cổ anh và hét lên: mày không tin vào thuyết cộng sản của chúng tao, chúng tao sẽ giết mày.
Chao ôi, chỉ có những người mất trí mới tin vào mục tiêu hoang tưởng của chủ nghĩa cộng sản, một học thuyết “tối tăm” như bài thơ trên đã chỉ ra, một học thuyết hoàn toàn phi nhân đã giết chết hàng nhiều trăm triệu người trên thế giới như báo chí quốc tế mà tác giả cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm cộng tội” là Tân Tử Lăng đã dẫn chứng trong sách của mình:
History’s Largest Killing Regimes
(Những chế độ giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử):
Communist China 80,000,000
Soviet Union 60,000,000
Nazi Germany 20,000,000
Imperial Japan 5,000,000
Communist Vietnam 2,500,000
Communist North Korea 2,500,000
Communist Cambodia 2,000,000
Communist Yugoslavia 2,000,000
Chúng tôi xin trích một số đoạn trong cuốn “Mao Trạch Đông - nghìn năm công tội” của đại tá Tân Tử Lăng được in công khai tại Trung Quốc, bản Tiếng Việt do “Thông tấn xã Việt Nam” dịch và xuất bản năm 2009, có bày bán công khai:
“Chính sách Đại nhảy vọt) trong kinh tế đã để lại những hậu quả tai hại. Mao Trạch Đông cũng là người phát động Đại Cách mạng văn hóa vô sản, thường gọi là Cách mạng văn hóa. Theo một số liệu thống kê[1], Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết cho 77.000.000 người, và người đứng thứ hai là Iosif Vissarionovich Stalin với 43.000.000 người.[2]
Cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội" do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn đọc tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.
Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.
Chúng tôi xin trích một số đoạn trong tác phẩm trên để bạn đọc thấy rõ “thiên đường xã hội chủ nghĩa thực ra là địa ngục trần gian” như sau:
“Kinh điển để Mao cải tạo xã hội chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường chủ nghĩa xã hội không tưởng của “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan điểm “đại đồng” của Trung Quốc hình thành mô hình chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó là Mác + Tần Thuỷ Hoàng (lời Mao Trạch Đông), thêm thắt nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối cùng biến chất thành chủ nghĩa xã hội phong kiến.
“Chương 9 - Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người”:
“Đến khi Lý phản ánh ý kiến của La Long Cơ rằng ở Trung Quốc hiện nay “tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lenin lãnh đạo đại trí thức của giai cấp tiểu tư sản, người mù chỉ đường người sáng mắt”, thì Mao nổi giận dữ dội.”
“Theo thống kê chính thức, trong cuộc đấu tranh này, có 552.877 trí thức bị qui là phái hữu, bị đầy đoạ trong 20 năm trời. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8 phần vạn, nghĩa là trong 1 vạn người chưa đến 2 người.”
“Mao nói: “Phải chuyên chế. Không thể chỉ nói đến dân chủ. Phải kết hợp giữa Các Mác và Tần Thuỷ Hoàng”
“Chương 18 - Địa ngục trần gian”:
“Trong 4 năm sau khi Mao tuyên bố thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (tháng 9-1959) Trung Quốc đã xảy ra thảm kịch làm 37,55 triệu người chết đói (số liệu chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ chính trị ĐCSTQ tháng 9-2005), nhiều hơn cả số người chết trong Chiến tranh thế giới II. Đây là cuộc thử nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng thời gian dài nhất, quy mô lớn nhât, thiệt hại thảm khốc nhất trong lịch sử loài người. Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
“Khi chân lý trong tay, Mao có thể bao dung các đối thủ, đoàn kết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ Long, Bành Chân, Đào Chú…”
“Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội, lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.”
“Khởi đầu bằng việc đập phá tượng Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại 4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10 vạn. Nhà riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh chiếm làm trụ sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm để sưởi ấm. Hơn 200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san bằng” mộ Khổng Tử. Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng Viêm đế, mộ Hạng Vũ, Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô Thừa Ân, Từ Bi Hồng... bị đập phá.”
“Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ, cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người bị đập chết tươi.”
“Nhiều người khi ấy đã được chứng kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung cổ. Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy tuổi đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo dục hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề duy nhất là không biết chĩa vào đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới được. Đại cách mạng văn hoá vừa nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu nhiều kẻ thù, chúng tôi vui mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều bung ra. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng vệ binh thật đáng nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi lại: ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?”
“Bắc Kinh "nêu gương", những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và trung nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người, (địa chủ, phú nông, phản cách mạng, phái hữu, trí thức, nhà văn, nghệ sĩ...)”
“Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967, Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ huy dân quân dùng cuốc xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công lao trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường Mao" cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân quân nòng cốt trong ba ngày giết 569 người.”
“Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người, cưỡng dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh đẹp, y sinh lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối 26-8-1967. Nghĩa cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm giáo đâm một nhát vào dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông vào dùng gậy đập anh Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”, y dùng mã tấu cắt đầu anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng vừa bị đánh chết. Chị Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở làng khác, Nghĩa cho dân quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa chủ đều phải “phục vụ tập thể bần nông”.
“Sau khi cơm no, rượu say, Chủ tịch Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cưỡng hiếp chị Tiêu khi ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính sách của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.”
“Tối 17-10-1969, Lưu Thiếu Kỳ hơi thở thoi thóp, mũi cắm ống xông, họng gần ống hút đờm, phủ một tấm chăn, được cáng lên máy bay quân sự, bí mật đưa đến Khai Phong. Nơi cuối cùng giam giữ Lưu Thiếu Kỳ này nguyên là kho bạc của một ngân hàng từ trước năm 1949, các cánh cửa là những tấm thép dày, chấn song cửa sổ to đùng. Hai trung đội được cử canh giữ ngày đêm, với 4 khẩu súng máy đặt trên các nóc nhà xung quanh đề phòng bất trắc.”
“6 giờ 40 phút sáng 12-11-1969, ngày thứ 27 sau khi bị đưa đến lưu đày ở Khai Phong, Lưu Thiếu Kỳ qua đời trong tinh trạng không được cấp cứu. Khi Lý Thái Hoà, vệ sĩ của ông năm xưa đến nhận xác, thi hài vị Chủ tịch nước đặt trên nền đất dưới gian hầm, chân tay khẳng khiu, đầu tóc rối bời, miệng mũi méo xệch, máu ứ bên khoé mép. Người vệ sĩ dùng kéo xén bớt mái tóc bạc dài gần hai gang tay, sửa sang chòm râu, mặc quần áo, xỏ giày cho ông. Nhân viên chuyên án chụp ảnh để mang về trình Mao, Giang. Sau đó, họ đặt thi hài Lưu Thiếu Kỳ trên xe quân sự nhỏ, chân thò ra ngoài, bí mật đưa đi hoả táng, dưới cái tên “Lưu Vệ Hoàng, không nghề nghiệp”.”
“Gần 3 năm sau, ngày 16-8-1972, mấy người con của Lưu Thiếu Kỳ xin thăm cha mẹ, Mao Trạch Đông phê vào báo cáo của Tổ chuyên án: “Bố đã chết, có thể thăm mẹ”.”
“Lịch sử phải ghi bằng dòng chữ to đậm: Mao Trạch Đông chà đạp Hiến pháp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, giam cầm trái phép Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ (và hàng trăm hàng ngàn cán bộ cao cấp khác, hàng vạn, hàng chục vạn đảng viên quần chúng vô tội) và bức hại Người và các đồng chí khác của Người một cách man rợ cho đến chết.”
“sai lầm của Mao làm chết đói 37,55 triệu người. Một lãnh tụ đảng luôn miệng nói giải phóng nhân dân, phục vụ nhân dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân phạm tội ác lớn như vậy, mà lại cự tuyệt nhận sai lầm, không từ chức, lại phát động Đại cách mạng văn hoá, cách chức, đánh đổ, thậm chí dồn vào chỗ chết khoảng trên 80% đảng viên cộng sản chính trực”
“37,55 triệu người chết đói là sự thật lịch sử không gì bác nổi chứng minh rằng lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao là chủ nghĩa xã hội giả hiệu phản động nhất, tàn khốc nhất trong lịch sử loài người. Mỗi khi nghĩ đến điều này, Mao rùng mình ớn lạnh.”
“những lý luận của Mao như phòng, chống xét lại, ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi, tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản... đều trở thành dối trá, bịp bợm.”
“Mao Trạch Đông những năm cuối đời tâm địa tối tăm, giả dối, xảo trá, vừa không từ bất cứ việc làm xấu xa nào, lại muốn để lại tiếng thơm muôn thuở.”
“Ngồi trên đỉnh kim tự tháp tác oai tác quái, bức hại cán bộ lãnh đạo các cấp, lừa bịp toàn đảng, toàn quân, toàn dân, không chỉ là tứ nhân bang” (lũ bốn tên), mà là “ngũ nhân bang”, do Mao Trạch Đông làm bang chủ.”
“Ba năm Đại tiến vọt, cả nước có 37,55 triệu người chết đói tồn thất khoảng 120 tỉ NDT. Mười năm Đại cách mạng văn hoá, theo Diệp Kiếm Anh tiết lộ tại lễ bế mạc Hội nghị công tác Trung ương ngày 13-12-1978, có 20 triệu người chết, 100 triệu người bị đấu tố, lãng phí 800 tỉ NDT.”
“Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao trên Thiên an môn, tiếp tục để thi hài Mao ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông”
Nhà báo kiêm nhà sử học Dương Kế Thằng (Yang Jisheng) đã bỏ ra 15 năm trời thu thập chứng cứ để viết ra tác phẩm « Bia mộ », tài liệu đầy đủ nhất từ trước đến nay về nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Sách đã được tái bản đến lần thứ tư tại Hồng Kông.
«Cuốn sách này là bia mộ cho cha tôi, bị chết đói vào năm 1959, bia mộ cho 36 triệu người dân Trung Quốc nạn nhân của trận đói, bia mộ cho chế độ đã gây ra thảm kịch này». Tác giả đã viết như trên trong lời nói đầu của bản dịch tiếng Pháp vừa được nhà xuất bản Seuil phát hành tại Paris ngày 13/09/2012.
Sinh năm 1940, Dương Kế Thằng từng là phóng viên kỳ cựu của Tân Hoa Xã, và hiện nay là Phó tổng biên tập tạp chí Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu). Mười lăm năm điều tra trên thực địa, với hàng ngàn trang tài liệu tìm được ở địa phương và rất nhiều nhân chứng, tác giả đã thuật lại sự điên cuồng của việc cưỡng bức tập thể hóa, lên án Mao Trạch Đông là bạo chúa tàn ác nhất, vô nhân đạo nhất trong lịch sử Trung Quôc và lích sử thế giới, vượt xa các bạo chúa khác như Tần Thủy Hoàng, Thành Cát tư hãn, Stalin, Hit le…
Viết đến đây, chúng tôi ngậm ngùi thương đất nước mình, dân tộc mình hình như trong quá khứ đầu thế kỷ hai mươi đến nay không còn người thông tuệ, sáng suốt đưa dân tộc, đất nước thoát khỏi những tà thuyết đã gây nên hàng triệu cái chết cho đồng bào, gây đau khổ tang tóc vô cùng tận cho quê hương ta. Xin quý vị độc giả cùng chúng tôi đọc lại nguyên lý dưới đây trong cương lĩnh của đảng Lao động Việt Nam trong đại hội đảng năm 1951 tại Việt Bắc để biết đất nước ta vì sao nên nỗi:
“Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ǎngghen - Lênin - Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.”
Người viết bài này xin trích lời của Tân Tử Lăng- tác giả sách vừa dẫn để kết thúc bài viết:
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả” khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ định công cuộc cải cách-mở cửa… Đổi tên ĐCSTQ thành Đảng Dân chủ Xã hội, tham gia Quốc tế xã hội, để kế tục cội nguồn lịch sử của Đảng Dân chủ Xã hội…” (tức Quốc tế 2, tiền thân của các đảng xã hội, công đảng châu Âu bây giờ và một phần đảng dân chủ Mỹ- Chú của TMH).
Đảng cộng sản Trung Quốc trong đại hội lần thứ 18 vừa qua, đã thực hiện mơ ước của Tân Tử Lăng là vĩnh biệt ba ông tổ: Marx-Lê-Mao. Có lẽ đến đại hội thứ 19, đảng cộng sản Trung Quốc mới đổi tên là Đảng Dân chủ xã hội như mơ ước của Tân Tử Lăng chăng?
Hi vọng truyền thống bắt chước đảng cộng sản Trung Quốc của đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn được tiếp tục, để bỏ tên hai ông kễnh Marx-Lenin ra khỏi cương lĩnh chính trị của mình mà tự do hóa, dân chủ hóa đất nước Việt Nam đang từng ngày bị bá quyền Trung Quốc xâm lược từ tư tưởng chính trị đến đất đai biển trời Tổ Quốc; mong lắm thay!
Sài Gòn 24-11-2012
Trần Mạnh Hảo
No comments:
Post a Comment