Phạm Trần
- Chưa có nước nào trên Thế giới như Cộng sản Việt Nam
muốn xóa đi những di tích và bằng chứng lịch sử của ba cuộc chiến chống quân
xâm lược Trung Cộng ở cuối Thế kỷ 20 để được yên thân.
Những việc làm này đã được chứng minh thêm lần
nữa trong 3 tháng đầu năm 2014:
- Ngày 18/01/2014, Bộ Chính trị buộc Chính
quyền Thành phố Đà Nẵng phải hủy “Chương trình ca nhạc hát về biển đảo
quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa”, đã sẵn sang diễn ra vào
lúc 19h00 tại Công viên Biển Đông.
- Ngày 19/01/2014 Nhà nước cho Công an trà
hình công nhân cưa đá phủ bụi và dùng loa phóng thanh phá buổi tưởng niệm 74
Chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa đã bỏ mình vì Tổ quốc vào dịp kỷ niệm 40 năm
ngày Trung Cộng đem quân cưỡng chiếm tòan bộ quân đảo Hòang Sa.
- Ngày 17/02/2014, vào dịp 35 năm ngày
600 ngàn quân Trung Cộng xâm lược 6 Tỉnh biên giới, nhà nước cho
dựng khán đài và tổ chức nhảy múa trơ trẽn, phản cảm và vô văn hóa với
bài hát phản quốc “Trung Quốc Chính Nghĩa” trước Tượng đài Lý Thái Tổ và
cho Đòan Thanh niện Cộng sản Hồ Chí Minh ca hát “vô duyên” tại tượng đài Cảm Tử
để phá cuộc biểu tình chống Trung Cộng và truy điệu ghi ơn trên 30.000 chiến sỹ
và đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến đấu anh dũng chống quân xâm lược.
- Đến lần kỷ niệm năm thứ 26 ngày quân
Trung Cộng chiếm bãi đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam 14/3, thì
Bộ Quốc phòng lại tổ chức Chương trình Giao lưu Hữu nghị Quốc phòng Biên giới
Việt-Trung tại khu vực biên giới chung giữa hai nước từ ngày 10 đến 12-03
(2014) thay vì tổ chức ghi ơn 64 chiến sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo
vệ lãnh thổ.
Chương trình giao lưu hữu nghị quốc phòng biên
giới Việt- Trung đã được tổ chức tại tỉnh Quảng Tây của Trung Cộng và sau đó
đến lượt tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam,
Cuộc họp giao lưu bên Việt Nam đã diễn ra tại
cửa khẩu quốc tế Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), nơi quân Trung Cộng đã giết hại
nhiều người dân và bình địa nhà cửa trong cuộc chiến năm 1979. Phía Việt Nam dự
hội nghị do Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh làm Trưởng đòan
và phiá Trung Cộng do Trung tướng Thích Kiến Quốc, Phó tổng Tham mưu trưởng
Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc dẫn đầu.
Tướng Vịnh nói rằng: "Trong bối cảnh
chung của quan hệ hai nước, quan hệ hợp tác quốc phòng Việt-Trung thời gian qua
đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, thực sự trở thành một trong những trụ cột
quan trọng trong việc duy trì, giữ vững và củng cố quan hệ hữu nghị giữa hai
Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam- Trung Quốc". (báo Quân
đội Nhân dân,QĐND, 11/03/2014)
Về phần mình, vẫn theo báo QĐND, tướng Thích
Kiến Quốc cũng cho rằng: “Hoạt động giao lưu hữu nghị lần này mang tính sáng
tạo và tính xây dựng cao. Các hoạt động trong khuôn khổ giao lưu đã góp
phần tích cực vào việc tăng cường sự tin cậy, tình hữu nghị và hiểu biết lẫn
nhau; thúc đẩy quan hệ hai nước, hai quân đội Việt Nam – Trung Quốc ngày càng
đi vào chiều sâu.”
Mặt khác, khi tiếp Tướng Thích Kiến Quốc, Đại
tướng Bộ trường Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, theo tường thuật của báo
ViệtNamNet (11/03/2014) đã: “Khẳng định, thời gian qua, quan hệ hợp tác
giữa hai nước trên đất liền đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong
thời gian tới hai nước cần đẩy mạnh hợp tác trên biển giữa lực lượng hải quân,
cảnh sát biển, thông qua các hoạt động giao lưu ở các cấp, tuần tra chung, cứu
hộ, cứu nạn, trao đổi thông tin…. Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh,
quân đội hai nước phải luôn là lực lượng nòng cốt giữ gìn môi trường hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện cho nhân dân hai nước phát triển kinh tế, góp phần
tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trung tướng Thích Kiến Quốc, Phó tổng Tham mưu
trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc
đánh giá cao ý kiến của Đại tướng Phùng Quang Thanh….Trung tướng Thích
Kiến Quốc cũng cho rằng, hai bên cần lấy hợp tác biên phòng làm gương mẫu
để thúc đẩy toàn diện quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai nước.”
PHÙNG QUANG THANH CÓ BIẾT GÌ KHÔNG?
Không thấy bất cứ bài tường thuật nào trên báo
Việt Nam nói về việc liệu vấn đề một số tầu đánh cá của Việt Nam đã
bị lính Hải quân Trung Cộng liên tục tấn công trong khu vực Hòang Sa trong hai
tháng 02 và tháng 03 có được đem ra thảo luận hay không?
Bằng chứng nhu Báo An ninh Thủ đô viết :
“Khoảng 12h trưa 3-3, sau nhiều ngày bị tàu Trung Quốc tấn công, thu hết ngư cụ
trên vùng biển Hoàng Sa, chiếc tàu cá mang số hiệu QNg 90479ts của ông Võ Văn
Lựu, SN 1966, trú tại xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi, đã về đến Cảng
Sa Kỳ.
Tàu cá của ông Võ Văn Lựu cùng 14 thuyền viên
đã cập Cảng Sa Kỳ trong tình trạng bị mất sạch ngư cụ. Mạn tàu bị hư hỏng do
tàu sắt Trung Quốc đâm, toàn bộ ngư cụ như đồ lặn, thiết bị máy dò tín hiệu,
máy định vị và gần 5 tấn cá, tôm hùm bị người Trung Quốc tịch thu, tổng trị giá
trên 350 triệu đồng.
Ngày 9-2 tàu cá của ông Lựu cùng 14 thuyền
viên ra đánh bắt hải sản ở vùng biển Hoàng Sa, đến khoảng 15h, ngày 1-3 thì bị
một tàu sắt của Trung Quốc khoảng trên 35 người, mang theo súng, roi điện bao
vây, tấn công. Những người này bắt thuyền trưởng Võ Văn Lựu đánh đập, dùng roi
điện chích vào người gây thương tích và bẻ lá cờ Tổ quốc...”
Phóng viên Viết Hảo (báo Dân trí) tường thuật:
“Sáng 8/3, nguồn tin của Dân trí cho biết, tàu cá Khánh Hòa KH 90746-TS của ông
Phan Quang (SN 1965, trú phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) đã cập
biến an toàn sau khi bị một tàu “lạ” khống chế trên vùng biển Hoàng Sa và lấy
đi nhiều tài sản.
Thông tin ban đầu, vào khoảng 15h ngày 21/2,
tàu cá KH 90746-TS (công suất 320CV) đang hành nghề câu cá nhám ở vùng biển
Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam thì bị một tàu “lạ” tiếp cận, đưa người
xông lên khống chế 8 ngư dân. Số tài sản bị lấy đi gồm: 2 máy bộ đàm, 1 máy
định vị, 4 bộc câu cá nhám, 8 điện thoại di động, 7 bộ vi cá nhám cùng các giấy
tờ quan trọng khác.
Theo thông tin, 8 ngư dân trên tàu cá Khánh
Hòa bị tàu “lạ” khống chế gồm: Lê Hữu Toàn (SN 1982), Phan Thanh Bình (SN
1988), Phan Thanh Minh (SN 1990), Nguyễn Thanh Thảo (SN 1988), Nguyễn Thành Tân
(SN 1990), Nguyễn Văn Tô (SN 1984), Trần Quang Hiếu (SN 1970) và chủ tàu là ông
Phan Quang (SN 1965); cùng trú phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa.
Sau khi cập bờ vào 4h sáng ngày 7/3, chủ tàu
cá KH 90746-TS đã báo cáo vụ việc cho lực lượng đồn biên phòng 366 (đóng ở Ninh
Hải, Ninh Hòa, Khánh Hòa). Hiện cơ quan chức năng đang làm rõ vụ việc.”
Trong khi đó một tin đăng trên báo Sài Gòn
Giải Phóng cho hay: “Ngày 6-3, Đồn Biên phòng đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) xác nhận
tàu cá BĐ 94398 do ông Lê Đức Hoàng, ở xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ (Bình Định) làm
thuyền trưởng cùng 11 ngư dân đã được tàu bạn đưa vào bờ an toàn, hiện đang lưu
trú tại Đồn Biên phòng huyện Lý Sơn.
Theo tường trình của ông Hoàng, khoảng 1 giờ
15 ngày 5-3, trong lúc cho tàu neo đậu tại vùng biển cách đảo Lý Sơn khoảng 7
hải lý, tàu cá của ông bị một tàu lạ đâm mạnh vào mạn phải khiến nước biển tràn
nhanh vào các khoang tàu. Ông và một số thuyền viên trên tàu dùng điện thoại
gọi tàu bạn đang neo đậu gần đó đến ứng cứu, đồng thời nỗ lực tát nước cứu tàu
nhưng không được vì tàu bị đâm vỡ toác, phá nước và sau đó chìm hẳn. 12 ngư dân
trên tàu đã được tàu bạn đến ứng cứu kịp thời. Thiệt hại sau vụ tàu lạ đâm này
hơn 3 tỷ đồng.
Theo ông Hoàng, dù bất ngờ bị chiếc tàu đâm
chìm rồi tháo chạy nhưng một số anh em trên tàu đã kịp thời ghi lại một số
thông tin liên quan đến chiếc “tàu lạ” ở phía trước mũi tàu dòng chữ
“Dynamicocian 05 Hải Phòng” và “HaiPhong IM 096.56.515” để cung cấp cho cơ quan
điều tra. Đến chiều 6-3, chiếc tàu bị đâm chìm ở độ sâu khoảng 57m vẫn chưa
được trục vớt thành công dù được 8 tàu bạn nỗ lực hỗ trợ.”
TÀU LẠ CỦA AI?
Ô hay, tại sao cho đến bây giờ (tháng 03/2014)
mà báo chí Việt Nam vẫn phải “nhắm mắt” viết hai chữ “tàu lạ” khi chính chúng
là tầu của Trung Cộng?
Còn nhớ báo ViệtNam Express, trong số ra ngày
10/01/2013, cũng chỉ dám viết “các tàu chiến của đối phương” trong khi Đài
Tiếng Nói Việt Nam (ĐTNVN), trong bản tin ngày 06/01/2013 cũng phải tránh đề
cập đến lính Trung Cộng đã tấn công quân Việt Nam trên Trường Sa ngày
14/03/1988.
Bản tin của ĐTNVN đã viết trống không: “Cách
đây 25 năm, tháng 3/1988 tại vùng biển Trường Sa ở các bãi đá ngầm Gạc Ma, Len
Đao, Colin, 64 cán bộ chiến sĩ, cán bộ Hải quân nhân dân Việt Nam đã dũng cảm
chiến đấu kiên quyết giữ đảo.”
Nhưng “chiến đấu chống ai, quân thù nào” mà
không giám mở miệng nói trắng ra ?
Trong lễ tưởng niệm tại Trường Sa ngày
09-05-2010, ngay cả Sỹ quan Hải quân CSVN cũng chỉ dám nói “lực
lượng quân sự Nước Ngoài” đã tấn công và chiếm đóng một số vị trí của Trường
Sa.
Hai Thông tín viên Mạnh Hùng và Việt Cường của
Đài Tiếng Nói Việt Nam viết: “Trong diễn văn đọc tại Lễ tưởng niệm, Thượng tá
Trịnh Lương Vượng, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn M46, vùng D Hải quân nhấn mạnh:
Với mưu đồ thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông, từ cuối năm 1987, đầu năm
1988, lực lượng quân sự “nước ngoài” đã ngang nhiên chiếm đóng một số bãi đá
ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ quốc gia với phương châm “không dùng vũ lực để giải quyết những vấn đề
tranh chấp trên biển”. Bất chấp lẽ phải, quân đội “nước ngoài” ngang nhiên tấn
công quân sự, bắn chìm, bắn cháy 3 tàu vận tải của ta.”
Khi nói về tình hình hiện nay ở vùng biển
Trường Sa, Thượng tá Vượng nói tiếp: “Với toan tính và tham vọng thôn
tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông của “nước ngoài”, Trường Sa hôm nay vẫn
chưa thực sự bình yên. Chúng tôi, những người hiện đang tiếp tục sự nghiệp của
các đồng chí, xin thề trước anh linh của tổ tiên, trước hương hồn của các đồng
chí, đồng thời xin nhắn nhủ tới các thế hệ mai sau, quyết tâm bảo vệ bằng được
quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng
Trường Sa trở thành một huyện đảo giàu mạnh, ngang tầm với vị trí chiến lược
trên Biển Đông”.
Câu hỏi đặt ra với đảng và nhà nước Việt Nam
là ai đã chỉ thị cho Quân đội và Nhà báo không được nói thẳng quân Trung Cộng
đã tấn công và chiếm đóng bãi Gạc Ma và 7 bãi dá ngầnm khác của Việt Nam
trong chuỗi Trường Sa?
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hay
Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, ai là người phải chịu trách nhiệm cho nhục
nhã này?
CÒN HỔ THẸN HƠN
Ngòai ra những chuyện trên, đảng CSVN còn làm
nhiều chuyện khác đáng lên án nhu nhược trước kẻ thù Trung Cộng như liệt
kê dưới đây:
- Về cuộc chiến biên giới 1979, Đảng và
Nhà nước không cho thu góp, bảo qủan những bằng chứng, tài liệu lịch sử, phỏng
vấn các nhân chứng quân nhân đã tham chiến còn sống sót và đồng bào nạn nhân
của cuộc chiến xâm lăng của quân Trung Cộng.
- Hai Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Viện
Bảo tàng Lịch sử Quân sự không có hồ sơ ghi chép, lưu trữ lại đầy đủ,
trung thực tài liệu về 3 cuộc chiến chống Trung Cộng ở Hòang Sa (1974),
biên giới Việt-Trung (1979-1989) và Trường Sa (1988).
- Nhà nước liên tục đàn áp các cuộc biểu tình
của người dân chống chích sách bành trướng bá quyền của Bắc Kinh trong hai năm
2011 và 2013 tại Sài Gòn và Hà Nội.
Cũng cần nhắc lại vào ngày 28/8/2011
trong lần họp “Đối thoại chiến lược quốc phòng-an ninh Việt - Trung lần thứ
hai” tại Bắc Kinh, Trung tướng, Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam
Nguyễn Chí Vịnh đã cam kết sẽ dẹp các cuộc biểu tình chống Trung Cộng với
Thượng tướng Mã Hiểu Thiên, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung
Quốc.
Thông tín viên Bảo Trung của Báo
Quân đội Nhân dân viết ngày 30-8-2011: “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng
thông báo chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với
tinh thần không để sự việc tái diễn.“Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu
chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là
Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận
điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam-Trung
Quốc.
Chúng ta cần làm cho nhân dân hai nước hiểu
rõ, giữa Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại vấn đề nhưng hai Đảng, hai Nhà nước
đã cam kết xử lý bằng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế, với giải pháp
hai bên cùng có thể chấp nhận được”.
- Trong lĩnh vực giáo dục, nhà nước CSVN cũng
không ghi lại trong sách sử giáo khoa hai cuộc chiến xâm lược và chiếm đóng
lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng trên Quần đảo Hòang Sa năm 1974, bãi đá
Gạc Ma năm 1988 và 07 bãi Đá ngầm khác trong quần đảo Trương Sa, kể
từ sau 1975.
- Về cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979,
sách Lịch sử lớp 12 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam,
tháng 01/2012), chỉ viết chưa đầy 10 dòng tại trang 207: “ Bảo vệ biên
giới phía Bắc: Hành động thù địch chống Việt Nam của tập đòan Pol Pot được một
số nhà lãnh đạo Trung Quốc lúc đó đồng tình ủng hộ. Họ còn có những hành động
làm tổn hại đến tình hữu nghị của nhân dân hai nước như: cho quân khiêu khích
biên giới, dựng lên sự kiện “nạn kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia. Nghiêm
trọng hơn, sáng 17-2-1979, quân đội Trung Quốc huy động 32 sư đòan mở cuộc tiến
công dọc biên giới nước ta từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu).
Để bảo vệ lãnh thổ Tổ Quốc, quân dân ta, trực
tiếp là quân dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc, đã đứng lên chiến đấu. Đến ngày
18-3-1979, quân Trung Quốc rút khỏi nước ta.”
Đáng chú ý là khi sách này tái bản lần
thứ tư tháng 01/2012 thì nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, đã giữ chức
Tổng Bí thư đảng CSVN được tròn một năm. Chẳng nhẽ ông Trọng, từng là Trưởng
ban Tư tưởng Văn hoá Trung Ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và cũng
là một gỉang viên chính trị cao cấp trường đảng, không biết tập sách lịch sử
này đã viết bôi bác về cuộc chiến thảm khốc này như thế nào, hay là chính ông
cũng đã không dám “sờ lông chân” Lãnh đạo Trung Cộng Hồ Cẩm Đào nên đã đồng lõa
bôi nhọ lịch sử đến như thế ?
Vậy sự thật “sơ sài, hờ hững này” như thế nào
?
Theo ghi chép tại chỗ của Tác gỉa T.P.T được
Tễu’s blog (Tiếc sỹ Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện) phổ biến ngày 10/03/2014 thì tại
cuộc Tọa đàm về đề tài "Bảo tồn và phát huy những giá trị lịch sử
cùa các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, hải đảo và chủ quyền quốc gia thời
hiện đại" của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ngày
09/03/2014 tại Hà Nội, Giáo sư sử học Vũ Dương Ninh đã buồn bã thổ lộ : “ Ta
gọi cuộc chiến tranh này là gì. Học giả phương Tây thế giới gọi đây là cuộc
chiến tranh Đông Dương lần thứ 3. Hay là cuộc chiến tranh giữa những người
anh em đỏ VN-TQ-Cam (Cambodia). TQ gọi là cuộc chiến phản kích tự vệ.
Còn ta là gì. Đợt 1 là kháng chiến chống thực
dân Pháp. Đợt 2 kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đượt 3 là gì, ta chưa thống
nhất, Với chúng tôi rất quan trọng vì liên quan đến SGK. Đợt vừa rồi có nhiều
người nói SGK khôgn nói, xin được minh oan là SGK có đề cập, nhưng SGK còn nhạt
hơn Bảo tàng. Nhạt lắm. Chỉ có 12 dòng thôi. Nhưng đây là sự cố gắng rất lớn
của chúng tôi. Riêng vấn dề này đã phải thảo luận 1 buổi chiều và 1 buổi sáng
hôm sau, có nên đưa SGK không, hay đưa như thế nào. Có một sự tế nhị vô hình
nào đó luôn ngăn cản vấn đề này. Còn với chúng tôi, lịch sử là lịch sử, phải
đưa vào. Song cuối cùng, quyết định đưa vào có mức độ. Ban dầu 3-4 trang, sau
co lại còn 12 dòng. Đây là cố gắng rất lớn của chúng tôi, nhưng cuối cùng có ai
hiểu đựơc khi chỉ thấy có 12 dòng. Nhưng trong bối cảnh đó, cả bảo tàng cũng bị
ảnh hưởng Cho đến nay, cái gọi là tế nhị đó cũng chưa kết thúc. Tất cả
đều thấy cần đưa vào SGK, nhưng đưa thế nào thì còn bàn đấy.
Tên gọi sự kiện này nên gọi là cuộc chiến bảo
vệ biên giới. Đây là cách gọi tế nhị, Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm
lược, kháng chiến chống thực dân Pháp. Còn ở đây ta không chống ai, ta chỉ bảo
vệ biên giới. Thực chất ta có 3 cuộc: 1 Tây nam,, 2 Biên giới và 3 là bải đảo.
Nhưng quan trọng là nội dung. Bảo vệ vì có kẻ
xâm lược, và ai xâm lược. Nhưng cái đó còn thiếu. Ta phải khẳng định dây là
cuộc chiến bảo vệ biên giới và bản chất là cuộc chiến xâm lược và nhân dân VN
đã đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, Như vậy, ta có những tấm gương anh hùng.
Có như vậy mới đi vào được thế học sinh ngày nay. Ngày đó nào Lê Đình Chinh.
Tôi dùng chữ anh Quốc là “lịch sử vô nhân sự ”vì chả có ai. Ta cần phải đưa
những tấm gương tiêu biểu của cuộc chiến tranh đó thì mới đi được vào lòng các
cháu.
1. Khẳng định đây là cuộc chiến tranh
2. Đây là cuộc hiến xâm lược và bảo vệ đất
nước
3. Giới thiệu tấm gương các anh hùng chống xâm
lược
Và chúng ta hãy nghe tiếp những lời nói
thống thiết của Cụ GS Bùi Đình Thanh:”Tôi năm nay 90 tuổi, nghỉ hưu 13
năm, sống cuộc đời phó thường dân nhưng rất quan tâm tình hình đát nước. Tôi
khẳng định vai trò quan trọng của các viện bảo tàng, ở mức độ thể hiện hành
trình dân tộc ta từ sơ khai đến lúc trưởng thành.
Tôi thấy rằng ta đang có sự tế nhị rất lớn
trong vấn đề HS-TS (Hòang Sa-Trường Sa) và cuộc chiến biên giới. Khi sống
trong nhân dân, tôi nắm được tâm trạng mọi người băn khoăn vì sao Điện Biên Phủ
kỷ niệm huy hoàng, mà chiến tranh biên giới rõ ràng là cuộc chiến xâm lược lại
không thấy có tuyên bố gì về chính thống. Cũng không có ngày kỷ niệm xứng đáng.
Anh hồn của các liệt sĩ hy sinh nghĩ gì? Họ chiến đấu vì tinh thần dân tộc,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi
chiến tranh biên giới nổ ra, con tôi học cấp 3 mà rủ nhau đăng ký nhập ngũ để
kháng chiến. Đó là điều xúc động.
Người dân băn khoăn, thì từ trên xuống dưới
giải đáp là vì ổn định chính trị, vì không muốn căng thẳng. Vì đại cục quốc
gia. Tôi suy nghĩ mãi. Vậy làm rõ, đại cục quốc gia là gì? Vì đại cục quốc gia
là trói gọn trong 10 chữ “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”.
Từ ông cha ta cho đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sau này nữa cũng vì
10 chữ này. Chiến đấu vì độc lập, vì chủ quyền đất nước.
Bản ghi chép trong website của Tiến sỹ Nguyễn
Xuân Diện kể tiếp về lời phát biểu của Thiếu tướng Lê Mã Lương, nguyên Giám đốc
Bảo tàng Quân sự VN, nhân chứng sống, là Chính ủy Trung đoàn ở Vị Xuyên trong
thời gian tương đối dài từ 1979-1986.
Ông nói : “ Rất buồn là di tích thời chống
Pháp còn, chống Mỹ còn vài dấu vết, nhưng di tích thời TQ đánh sang thì hầu như
mất dạng. Buồn hơn nữa là một lần giúp bảo tàng ở Pắc Pó để trưng bày thì lại
vào hang để ngăm nghía hang Pắc Pó, khi ra có cháu ở bảo tàng Pắc Pó hướng dẫn
cho khách của Hải Hưng, không hề nói đến TQ (Trung Quốc) phá sập hang
này. Sau đó, tôi hỏi tại sao không nói thì bạn đó nói trên không cho nói. Tôi
đặt câu hỏi vì sao? Vì có vấn đề gì đâu. Ta phải nói với bà con mình, mà tại
sao không nói, Nếu không, thì sao người dân hiểu TQ đã mang bộc phá đánh tan
hang mà khi ta khôi phục vẫn không thể giống như trước được. Đây là điều đáng
buồn. Mỗi lần đi lại, nhìn thấy giờ thành bãi đất trống trơn và nhà dân dựng
lên là buồn lắm.
Trước cảnh “trên không cho nói” nhu nhược và
phá họai lịch sử này, Đại biều Quốc hội Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội sử
học Việt Nam nói : “ Tế nhị ngoại giao rất cần thiết, nhưng cũng cần tế
nhị với dân. Chúng ta không chỉ tế nhị với người ngoài, sức đoàn kết của dân
còn có sức mạnh hơn cả tên lửa , tàu ngầm.”
Theo bản tin của T.P.T ghi tại hội trường trên
Tễu's blog thì đến dự cuộc tọa đàm lịch sử này có đông đảo các giáo sư, tiến
sĩ, các chuyên gia và nhà quản lý và một số phóng viên báo chí: Phan Huy Lê, Vũ
Minh Giang, Trần Đức Cường, Nguyễn Thị Hậu, Bùi Văn Tiếng, Lê Mã Lương, Lê Mậu
Hãn, Bùi Đình Thanh, Vũ Dương Ninh, Dương Trung Quốc, Lê Mạnh Hà, Trần Trọng
Hà, Trịnh Vương Hồng, Lưu Trần Tiêu, Nguyễn Xuân Diện...Tổng cộng khoảng hơn 30
người.
GẠC MA - TƯỞNG NIỆM HAY CHIA RẼ THÊM?
Theo tài liệu của Bách khoa Tòan thư thì :
“Hải chiến Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc chiến trên biển Đông năm 1988 khi
Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng bãi đá Cô Lin,
bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa, do ba bãi đá này
không có quân đội đồn trú nên Hải quân Nhân dân Việt Nam phải đưa quân ra bảo
vệ, đánh trả và cuộc chiến nổ ra vào ngày 14 tháng 3 năm 1988. Phía Việt Nam
mất ba tàu vận tải của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã thiệt mạng.
Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc
đã chiếm đóng bãi đá Gạc Ma và hai nước cùng cho hải quân ra đóng giữ một số đá
ngầm khác mà hai bên cùng tuyên bố chủ quyền.”
Tài liệu viết tiếp : “Trong suốt thời gian xảy
ra chiến sự, Hải quân Liên Xô đóng ở Cam Ranh đã không hề can thiệp, mặc dù
giữa Việt Nam và Liên Xô có ký riêng Hiệp ước Liên minh Quân sự Đồng minh song
phương (tháng 11-1978) trong đó ghi rõ là Liên Xô sẽ hỗ trợ Việt Nam hết sức
mình về các mặt kinh tế, văn hóa và quốc phòng [23]. Sự việc này được ví von
giống như trường hợp của Việt Nam Cộng hòa trong sự kiện Hoàng Sa 1974, khi Đệ
Thất Hạm đội Hoa Kỳ đóng tại Phillipines chỉ hỗ trợ về thông tin tình báo và
không có bất cứ hành động thiết thực nào để hỗ trợ hạm đội Việt Nam Cộng hòa
giao chiến với Trung Quốc[24], thậm chí từ chối cả việc cứu những thủy thủ Việt
Nam Cộng hòa của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển[25]. Tháng 5 năm 1988, hai
tháng sau cuộc hải chiến này, một nghị quyết mật của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản
Việt Nam điều chỉnh cơ bản chiến lược đối ngoại từ dựa vào Liên Xô sang
"đa phương hóa”.
Vào tháng 4 năm 1988, Trung Quốc cũng đã thông
qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và
Trường Sa mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền.”
Tình hình chiếm đóng và tranh chấp chủ quyền ở
Trường Sa đến tháng 03/2014 đựơc chia như sau:
- Việt Nam giữ ba đảo: Trường Sa (Spratly;
diện tích 0,15 km²), Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin Cowe). Ngoài ba đảo,
Việt Nam còn chiếm ba cồn cát là An Bang(Amboyna), Song Tử Tây (Southwest) và
Sơn Ca (Sand Cay) cùng mười lăm đá san hô. Tổng cộng 21 đơn vị, nằm ở phía Tây.
- Philippines chiếm năm đảo: Bình Nguyên
(Flat), Vĩnh Viễn (Nanshan), Bến Lạc (West York), Loại Ta (Loaita) và Thị Tứ
(Thitu). Ngoài năm đảo, Philippines còn chiếm ba cồn, hai đá nổi và tám đá
chìm, tổng cộng 18 đơn vị.
- Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba).
- Malaysia chiếm giữ 1 đảo và tuyên bố chủ
quyền với một số đảo khác phía Đông. Brunei không giữ đảo nào nhưng tuyên bố
chủ quyền đánh cá đặc quyền tại một bộ phận quần đảo.
- Trung Quốc chiếm hai đá là đá Chữ Thập
(Fiery Cross) và đá Ga Ven (Gaven), cùng sáu đá chìm, tổng cộng 8 đơn vị ở phía
Bắc quần đảo.
Vào tháng 4 năm 1988, Trung Quốc cũng đã thông
qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và
Trường Sa mà Việt Nam đã khẳng định chủ quyền.”
Cũng nên biết kể từ ngày Gạc Ma bị Trung Cộng
chiếm và sau đó Bắc Kinh biến tất cả 8 bãi đá thành đồn bót quân sự kiên
cố để kiểm soát phần lớn an ninh trong vùng đảo Trường Sa thì Việt Nam chưa có
bất cứ hành động nào đòi lại các bãi đá này.
Và mặc dù được Phi Luật Tân mời cùng tham gia
trong vụ nước Phi kiện Trung Cộng ra trước tòa án Quốc tế về tranh chấp ở
Trường Sa, Việt Nam cũng cũng không giám làm.
Cũng đã từ lâu, Nhà nước CSVN không giám tổ
chức bất kỳ cuộc họp nào để “hướng về Hòang Sa” như đã làm với “Chương trình
giao lưu nghệ thuật "Xuân Trường Sa" năm 2014” của Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Quân chủng Hải quân Việt
Nam phối hợp thực hiện ngày 08/03 (2014) tại Hà Nội.
Trong khi đó thì ông Đặng Ngọc Tùng, Ủy
viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
(TLĐLĐVN), đã kêu gọi ủng hộ chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa”.
Báo Lao Động, tiếng nói của TLĐLĐVN
viết: “Chương trình sẽ vận động các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước
ủng hộ các nguồn lực để xây dựng đền tưởng niệm 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân
Việt Nam anh dũng hy sinh trong trận Gạc Ma (huyện đảo Trường Sa, thuộc tỉnh
Khánh Hòa) và hỗ trợ cha, mẹ, vợ, con, thân nhân của những người lính đã hy
sinh trong hai trận chiến Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988) đang gặp khó
khăn.”
Tuy nhiên đề nghị chỉ xây đền “tưởng niệm 64
chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh dũng hy sinh trong trận Gạc Ma”
mà không có đền ghi công 74 chiến sỹ quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy
sinh trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược Hòang Sa năm 1974 đang gây
tranh luận trong và ngoài nước.
Có dư luận cho rằng ông Đặng Ngọc Tùng, cũng
như đảng CSVN vẫn còn mang nặng đầu óc kỳ thị hay vì mặc cảm mà không giám coi
74 người lính VNCH là công dân Việt Nam cũng phải được kính trọng như 64 người
lính của Quân đội Nhân dân hy sinh tại Gạc Ma năm 1988.
Cũng có thắc mắc phải chăng vì những
điều cấm kỵ của Thỏa hiệp Thành Đô (Tứ Xuyên, Trung Cộng) năm 1990 mà Giang
Trạch Dân đã buộc bộ ba Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và cố
vấn Phạm Văn Đồng không được nhắc đến chuyện Hoàng Sa cũng như không được nhắc
đến cuộc chiến biên giới 1979 như tiết lộ của Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh,
nguyên Đại sứ CSVN tại Bắc Kinh?
Nhưng nếu ông Tùng nghĩ rằng, sử dụng chiêu
bài gây qũy để cùng lúc “hỗ trợ cha, mẹ, vợ, con, thân nhân của những
người lính đã hy sinh trong hai trận chiến Hoàng Sa (1974)” với hy
vọng nhận được đóng góp của người Việt Nam Cộng Hòa ở trong và
ngòai nước thì ông sẽ thất bại vì hành động có chủ tâm “phân loại
những người cùng giống nòi vì Tổ quốc mà hy sinh” của Tổng liên đòan Lao
động Việt Nam chỉ đào sâu thêm hố chia rẽ dân tộc và khóet to hơn mối hận
thù vẫn chưa lành sau 39 năm kết thúc chiến tranh.
Để tránh hỏng việc, ông Đặng Ngọc Tùng nên
nghĩ tới việc làm cấp thời bây giờ của đảng CSVN là hãy làm sao gỡ được
cái lưỡi câu Trung Cộng ra khỏi cổ họng ở Trường Sa và tìm cách xóa đi
Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Cộng trên
Hòang Sa và Trường Sa để bảo vệ chủ quyền và sự vẹn tòan lãnh thổ, thay vì “xây
đền một chiều”./-
03/2014
No comments:
Post a Comment