Hàn Giang Trần Lệ
Tuyền
- Kể từ giờ phút tên
phản tặc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng để dâng Miền Nam Tự Do vào tay của
cộng sản Hà Nội; thì hàng năm cứ đến ngày Quốc Hận 30- 04, là mọi người dân
Việt, dù ở quốc nội, hay nơi hải ngoại cũng đều cảm thấy xót đau; bởi tất cả
đều không bao giờ quên; và mãi mãi vẫn nhớ đến một ngày tang thương đã trùm phủ
xuống quê hương. Ngày nước Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tay giặc thù cộng sản.
Nhưng riêng thành phố Đà Nẵng quê hương tôi vì nhờ có “công lao”
của “Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Phật Giáo Thống Nhất”
(Khối Ấn Quang) đã đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng để đón rước bộ đội Bắc Việt
vào thành phố sớm hơn một tháng: Ngày 29/03/1975.
Từ ngày vượt biển ra hải ngoại cho đến hôm nay, tôi vẫn
hằng mong đợi một bài viết thật trung thực và đầy đủ về những cuộc bạo loạn,
cũng như những ngày cuối cùng của thành phố Đà Nẵng trước khi mất nước. Song
cho đến giờ phút này tôi vẫn chưa hề thấy, nên tôi, một phụ nữ không biết gì về
văn chương lại thấp kém về mọi mặt. Nhưng, bởi mấy chục năm qua lòng tôi vẫn
xót đau, khi những hình ảnh của những người đã bị chết oan, trong đó có những
bé thơ, cứ hiện về như trách móc bảo tôi hãy lên tiếng. Vì thế, tôi phải hết
sức cố gắng để viết lại những gì mà chính tôi đã mắt thấy, tai nghe, những điều
mà có rất nhiều người đã biết, nhưng vì một lẽ nào đó nên tất cả đều im lặng.
Họ không muốn hay không dám nói.
Tôi đã chứng kiến từ ngày 20/03/1975, với từng đoàn người
di tản từ các tỉnh Trị-Thiên, Nam-Tín-Ngãi, đổ về Đà Nẵng mỗi ngày một đông, họ
chỉ mong được lên tàu di tản vì ở những nơi đó VC đã hoàn toàn kiểm soát, không
còn gì để hy vọng.
Tại Đà Nẵng, trong khi từng đoàn người bồng bế nhau chạy xuống
bến Bạch Đằng, thì từng loạt pháo kích của VC bắn theo nổ chặn đường, làm kẻ
chết, người bị thương, ai còn sống, bỏ tất cả lại để chạy thoát thân. Nhưng rồi
chuyến tầu cuối cùng cũng đã rời bến Bạch Đằng; những người còn lại đành quay
trở về. Trên đường phố từng toán người dìu dắt nhau trở lại, sau khi trở về
nhà, họ đóng cửa, chỉ nhìn ra đường qua cửa sổ, họ đã sống trong những giờ phút
hãi hùng, chờ đợi, không biết những gì sẽ xãy ra. Thành phố ngưng mọi sinh
hoạt.
Thầy chùa đã đưa xe ra tận núi rừng để đón Cộng quân vào Đà
Nẵng:
Tôi vẫn nhớ mãi về buổi sáng 29/03/1975, lúc ấy, vì phải đi tìm
người thân bị thất lạc nên tôi có mặt tại ngã ba Huế, nhìn kim đồng hồ tay
đương chỉ đúng tám giờ, khi nghe những tiếng động ồn ào, đồng bào mở cửa nhìn
ra. Tôi cùng đồng bào đều nhìn thấy trên đường phố, từng đoàn xe đủ loại, xe
Jeep, xe chở khách, xe nhà binh của các đơn vị quân sự bỏ lại. Trên các
đầu xe, tất cả đều có cắm song song một lá cờ ngũ sắc của Phật giáo và một lá
cờ nửa đỏ, nửa xanh, ở giữa có ngôi sao vàng của “Mặt trận Giải phóng miền
Nam”, tất cả đều có gắn loa phóng thanh đang ầm ầm tiến ra hai ngã một về phía
Hòa Mỹ hướng ra đèo Hải Vân để đi Huế; và một về phía Phước Tường hướng về Hòa
Cầm để đi vào Tam Kỳ-Quảng Nam. (xin lỗi tôi phải nói như thế, để các vị chưa
biết về Đà Nẵng sẽ dễ hiểu hơn).
Đến 13 giờ cùng ngày, cả thành phố đều nghe những tiếng hô
vang dậy:
“Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng, yêu cầu
đồng bào hãy mau mau mở cửa ra để chào mừng và hoan hô bộ đội giải phóng miền
Nam anh hùng!”.
Cả thành phố đều mở cửa nhìn ra. Trên đường
phố từng đoàn xe từ hai ngã đang tiến vào thành phố, đồng bào nhìn kỹ thì ra là
hai đoàn xe đã ra đi hồi tám giờ sáng, chỉ khác hơn là trên các xe bây giờ chở
đầy bộ đội miền Bắc, còn được cắm thêm những cành lá mà trước kia VC thường gọi
“cành lá ngụy trang”. Tiếp theo sau là những xe thiết giáp trang bị đầy đủ hỏa
tiển phòng không, đại bác và tiếng hô vẫn tiếp tục vang vang, bây giờ mọi người
mới nhìn thấy rõ ràng, tất cả các xe, ngoài người tài xế, còn có một “ông
hoà giải” và một “vị sư” mặc áo cà sa vàng ngồi bên cạnh, và
những tiếng hô đó cứ thay phiên phát ra từ hai cái mồm của hai người này.
Đến chiều, vẫn chưa tìm được người thân, tôi được tin là
có nhiều người đã bị “An ninh Phật giáo” bắt giam ở các “chùa”, nên tôi đến
chùa Pháp Lâm tức chùa tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Nam - Đà Nẵng, số 500
đường Ông Ích Khiêm ĐN, để cầu cứu “Thượng tọa” Thích Quang Thể, Chánh đại diện
Phật giáo QN-ĐN. Vì thế, khoảng 17 giờ tôi nhìn thấy một chiếc xe Jeep nhà binh
dừng lại ngay cổng chùa, từ trên xe có hai “thầy” bước xuống đó là “Đại đức”
Thích Minh Tuấn, người Huế, Hiệu trưởng trường trung học Bồ Đề, Phó Đại diện
tỉnh Giáo hội QN-ĐN, Thích Minh Tuấn là một trong những người lãnh đạo trong
Viện Hóa Đạo 1 của Ấn Quang. Sau đó là “Thượng tọa-Thị giả” của Hòa Thượng
Thích Huyền Quang tại Tu viện Nguyên Thiều. Và hiện nay là Thượng tọa Viện chủ
Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Và “Đại đức” Thích Như Ký tức Mai Đăng Em, quê
ở Mân Lập, quận 3, Đà Nẵng, “Tổng thư ký Giáo hội Tăng già Quảng Nam - Đà
Nẵng”. Tiếp theo là hai “ông hòa giải” quần tây, áo sơ mi trắng, cả hai cùng
mang băng đỏ như hai “thầy”. Cả bốn người cùng vào nhà khách của chùa gặp
Thượng tọa Thích Quang Thể.
Mở đầu bằng giọng Huế, Thích Minh Tuấn nói:
“Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe ra tận đèo Phú Gia ruớc sư đoàn
Sao Vàng của tướng Nguyễn Chơn vào thành phố, mọi việc đều tốt”.
Tiếp theo, Thích Như ký nói:
“Bạch Thượng Tọa, tôi đã đưa xe vô
tận Hà Lam, Thăng Bình, đã đón bộ đội ta, do Đại Tá Phan Hoan chỉ huy vào thành
phố một cách an toàn”.
“Thượng tọa” Thích Quang Thể gật đầu vui vẻ định
nói gì với hai “thầy”, Nhưng ngay lúc đó Lê Quang Hòa (Trung tướng Việt cộng)
tức Nguyễn Văn Hòa, quê Điện Bàn, Quảng Nam, tập kết ra Bắc trở về, là “Tư lệnh
phó quân khu 5” cùng đi với mấy tên cận vệ bước vào chùa, Thượng Tọa Thích
Quang Thể đứng lên chào, Lê Quang Hòa nói:
“Tôi đến đây để thăm chùa, đồng thời để nói lên lời
cám ơn Thượng Tọa và giáo hội đã tích cực trong công việc đưa, đón bộ đội giải
phóng vào thành phố, một thành quả không ngờ, vì khi nghe Ngô Quang Trưởng
tuyên bố: “Các Lực luợng Quân-Cán-Chính tại Đà Nẵng sẽ tử thủ và có 45 ngày để
dân Đà Nẵng di tản”. Chúng tôi nghĩ là sẽ có môt lực luợng hùng hậu, nên Bộ tư
lệnh quân khu 5 đã dự tính lập vòng đai bao vây trong vòng ba tháng, mới
có thể vào thành phố Đà Nẵng được. Vì vậy, khi các thầy đưa xe ra đón, chúng
tôi không tin, nên phải lấy tin từ quân báo thật chính xác, mới dám cho bộ đội
lên xe của các thầy”.
Quay sang hai “thầy” Lê Quang Hòa nói:
“Tôi đặc biệt khen ngợi Đại đức Thích Minh Tuấn đã
đưa xe ra tận đèo Phú Gia để đón Sư đoàn Sao Vàng của tướng Nguyễn Chon vào
thành phố một cách an toàn. Tướng Chơn rất vui mừng khi được trở lại quê hương
Thanh Khê, Đà Nẵng, và công lao của Đại đức Thích Như Ký cũng không kém vì Đại
đức cũng đưa xe vào tận Hà Lam, Thăng Bình để đón bộ đội của Đại tá Phan Hoan
vào thành phố không hề gặp trở ngại”.
Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy Thượng tọa Thích Quang
Thể quay vào phía góc chùa nhìn tôi một cách ái ngại. Tôi hiểu ý, nên liền
chào Thượng tọa và ra về.
Sau đó, “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo” (Ấn
Quang) đã hướng dẫn các đoàn xe của bộ đội VC vào chiếm giữ các đơn vị
của quân đội cũ, và lại dùng loa phóng thanh kêu gọi:
“Yêu cầu tất cả đồng bào hãy treo cờ Phật giáo!”
Phải công nhận là Phật giáo nói Phật tử chiếm 80% là
đúng, Nhưng chỉ đúng trong những ngày này mà thôi, vì thấy các “chùa” đồng loạt
treo cờ “Mặt trận giải phóng miền Nam” cũng như thấy khí thế của Phật giáo như
vậy, nên nhiều người bình thường chỉ theo đạo thờ cúng ông bà hoặc Khổng Giáo
nhưng vì muốn an thân, họ đã đến các “chùa” mua cờ ngũ sắc đem về treo trước
cửa, xem như là lá bùa hộ mệnh. Trừ ba tôn giáo đã chấp nhận mọi thứ, cương quyết
không treo cờ Phật giáo đó là Công Giáo, Tin Lành và Cao Đài.
Ngoài ra, để lập công với “cách mạng” Đại đức Thích
Minh Tuấn, đã nhân danh: “Phó đại diện tỉnh giáo hội Phật giáo (Ấn Quang)
QN-ĐN, Hiệu trưởng trường Trung tiểu học Bồ Đề, xin dâng hiến tất cả các
trường Bồ Đề và các cơ sở khác của giáo hội cho cách mạng”. Thấy vậy, có nhiều
Phật tử phản đối, Thích Minh Tuấn trả lời:
“Bây giờ mình đâu có cần gì những thứ đó nữa, vì chúng
ta có công đánh đuổi Mỹ-Ngụy, thống nhất đất nuớc, mọi việc Giáo hội cần đến
thì có chính phủ giúp đỡ”.
Khi nói đến LLHG, thì ngoài những công lao trên họ còn có
những thành tích khác đáng kể như sau đây:
Trong lúc đồng bào trên đường di tản, LLHG đã xuống tận
bến Bạch Đằng dùng loa phóng thanh kêu gọi:
“Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp, Hòa giải thị bộ
Đà Nẵng. Trụ sở đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm Đà Nẵng,
thiết tha kêu gọi đồng bào đừng di tản, hãy ở lại với chính quyền cách mạng ;
ngụy quân, ngụy quyền cấp bậc, chức vụ gì sẽ được trả nguyên cấp bậc và chức vụ
ấy”.
Vì thế, mà ở trại cải tạo T.154, Tiên Phước, Quảng Nam, tôi biết
có người không phải sĩ quan mà đã khai là “Trung úy”, mục đích để được “trả
lại”…cấp bậc cũ! Nhưng không ngờ, rồi sau đó họ đã phải ở tù như những sĩ quan
thật. Và rồi, cấp bậc, chức vụ gì thì phải ở tù theo cấp bậc, chức vụ ấy!!!
Tái hiện sự tích Đức Phật đản sinh tại chùa Pháp Lâm (Đà Nẵng).
Nhân đây, tôi xin viết thêm một trường hợp khác. Trong cơn say
máu người, Hòa giải Phật giáo cũng đã đến nhà ông bà Trần Quốc Thái ở số 06
đường Lý Thường Kiệt, Đà Nẵng, Nhưng khi ập vào nhà thì chỉ còn căn nhà trống.
Ông bà Trần Quốc Thái đã chạy thoát, mất mồi, chúng tức tối la hét, đập phá
lung tung. Tôi nghĩ là ông bà Trần Quốc Thái đã có được một hồng ân quá lớn,
nếu không thì chúng đã xé xác ông rồi, nhẹ lắm cũng như ông Trần Sô vậy.
Nhân đây, tôi xin nói rõ về ngôi nhà này: Tôi biết
ông bà Trần Quốc Thái đã vay muợn của nhiều người để xây cất, Nhưng sau khi
Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn đâm thuê chém mướn giết chết, Hội đồng Gian
nhân Phản loạn đã tịch thu với lý do là “tài sản của đảng Cần Lao” và dùng làm
cơ quan Nha Cảnh sát Quốc gia vùng 1. Ông bà Trần Quốc Thái đã dắt con cái đi ở
nhờ nhà người khác; nhưng cũng phải thắt lưng, buộc bụng để có tiền trả cho đến
mười năm mới hết nợ làm nhà.
Năm 1973, vì truy tìm mãi vẫn không có bằng chứng
là «tài sản của Cần Lao» nên ngôi nhà mới được trả lại cho ông bà Trần Quốc
Thái.
Đến năm 1975, Hòa giải Phật giáo chiếm giữ,
sau đó giao cho VC lấy làm Bộ chỉ huy công an vũ trang.
Từ ngày 30/04/1975, Việt cộng ra lệnh truy tầm ông
Trần Quốc Thái, “Bí thư đảng Cần Lao miền Trung”. Tôi cũng biết ông Trần Quốc
Thái là người Bắc di cư, thời Đệ Nhất Cộng Hòa có làm Quận trưởng quận Điện
Bàn, Quảng Nam, còn có Cần lao hay không thì khó biết được, vì đảng Cần Lao
không công khai hoạt động như các đảng phái khác.
Một nạn nhân khác là ông Trần Quốc Dân, người Thanh
Khê, quận 2, Đà Nẵng, đi kháng chiến chống Pháp, sau đó là Thiếu tá Quân đội
Bắc Việt xâm nhập vào Nam. Lúc đó, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Sao
Vàng, (sau là Sư đoàn Sao Vàng) Nguyễn Chơn cũng người Thanh Khê, Đà Nẵng là
Trung đoàn phó. Ông là người đầu tiên rời bỏ hàng ngũ VC trở về với Chính Nghĩa
Quốc Gia vào năm 1962. Ông kể với người thân:
“Trước đó tôi có gặp người của ông Ngô Đình Cẩn, nên mới dám
quyết định trở về. Sau khi quyết định, tôi đã lợi dụng trong một lần giao tranh
với quân đội VNCH tại chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, tôi vượt sông Thu Bồn và
theo sự hướng dẫn của người tôi đã gặp, tôi được gặp ông Ngô Đình Cẩn. Và tôi
được sự giới thiệu của ông Cố vấn nên tôi vào Sài Gòn trình diện Tổng Thống Ngô
Đình Diêm., vì tôi tin tưởng rằng Tổng Thống chắc chắn hiểu được những người đi
tham gia kháng chiến chống Pháp. Và tôi đã nghĩ đúng, vì khi gặp mặt Tổng
Thống, sau khi nói rõ về mình và trình bày ý nguyện của tôi, thì Tổng Thống dạy
rằng:
Tôi đã hiểu được chú em, bây giờ đáng lẽ ra tôi trả lại em
quân hàm Trung tá, vì ngoài đó có cấp Thượng tá, Nhưng thôi vì danh dự Quốc Gia
em hãy nhận quân hàm Thiếu tá. Tôi xin được ra chiến đấu, Nhưng Tổng Thống bảo:
Không được, hãy về đoàn tụ với gia đình trước khi nhận công tác.
Và Tổng Thống ban thưởng tôi ba trăm ngàn đồng từ tay của Tổng Thống”.
Ông Trần Quốc Dân trở về Đà Nẵng, sau một thời gian
ngắn ông mua một căn nhà tại đường Trần Cao Vân và cuới vợ. Rồi ông được làm
việc tại Bộ Công Dân Vụ.
Một năm sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị bọn đâm
thuê, chém mướn giết chết. Là một người cứng cỏi, Nhưng ông Dân đã rơi nuớc
mắt, ông kêu lên:
“Thế là hết! Tổng Thống không còn nữa, thì sẽ không còn ai hiểu
tôi ngoài Tổng Thống”.
Vài tháng sau ông tâm sự với người thân:
“Tôi chán nản trước nạn kiêu binh và kiêu tăng ngày càng lộng
hành trên đất nuớc, chắc tôi sẽ xin xuất ngũ”.
Tôi không nhớ rõ ngày tháng, Nhưng sau đó ông đã xin
xuất ngũ và cộng tác với cụ Vũ Hồng Khanh. Chức vụ cuối cùng VNQDĐ của ông là
một trong bốn Phó chủ tịch Thành bộ Đà Nẵng.
Ngày 24-03-1975, trong lúc ông Trần Quốc Dân
chuẩn bị đưa gia đình đi di tản, thì bất ngờ hai ông: Đại đức Thích Như Ký, Tổng thư
ký Giáo hội Tăng già
Quảng Nam-Đà Nẵng cùng Huỳnh Phổ, cư
sĩ Chánh đại diện Giáo
hội Phật giáo quận 2, Đà Nẵng (cả hai đều là cố vấn của LLHG Thị bộ ĐN)
dắt theo một đám “Thanh niên Phật tử” có vũ trang đến nơi (sau này tất cả trở
thành công an VC). Hai người này vào nhà ông Dân, Thích Như Ký nói:
”Chúng tôi Ban lãnh đạo Lực luợng Hòa giải Thị
bộ Đà Nẵng, mời ông lên chùa tỉnh Giáo hội để cùng làm việc, ông hãy tin tưởng
vào chúng tôi và ông sẽ có một chỗ đứng trong lòng lịch sử”.
Nói là “mời” Nhưng đám thanh niên Phật tử đứng sau lưng hai ông,
tên nào cũng lăm lăm tay súng. Không còn cách nào khác, ông Dân đành phải theo
chúng lên chùa.
Ông Dân đi rồi, gia đình biết ông sẽ gặp nguy, nên
vợ ông dắt hai đứa con thơ của ông bà đến chùa Pháp Lâm tức chùa Tỉnh Giáo hội
Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng để xin gặp chồng; Nhưng đội An ninh Phật tử chặn
ngay ở ngoài cổng không cho vào. Vợ ông Dân khóc lóc, van lạy thế nào cũng
không được, nên đành dắt hai con trở về.
Ngày 30-03-1975, khoảng 10 giờ sáng, LLHG
Phật giáo đưa ông Dân từ chùa Pháp Lâm đến nhà giam Kho Đạn ở số 15, đường Đào
Duy Từ, Đà Nẵng. Lúc giải giao, chúng đã trói hai tay ông ra sau, còn tròng
thêm một vòng thòng lọng lên cổ, cách trói này giống như chúng đã trói các vị
quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa, trong cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường, vào
mùa hè 1966; khi áp giải các vị nói trên đến chùa Phổ Đà. Bởi cách trói này,
nếu nạn nhân bỏ chạy, thì sợi dây sẽ tự thắt cổ lại mà chết. Như thế, vẫn chưa
đủ, mà đội “An ninh Phật tử” còn cầm súng đi kèm hai bên. Thấy vậy, đồng bào Đà
Nẵng đã gọi chúng là “Ủy ban Áp giải”.
Ngày 03-04-1975, khoảng 21 giờ tối, Nguyễn
Chơn, tướng VC. Đến nhận ông Dân tại nhà giam Kho Đạn. Sáng hôm sau, người ta
phát hiện xác chết của ông Dân đã chết, xác được bỏ vào Nhà Vĩnh Biệt của Quân
Y Viện Duy Tân ĐN, trên thân thể của ông có nhiều vết đạn.
Chúng tôi xin nhắc lại. Năm 1962, ông Dân là Trung đoàn
trưởng Trung đoàn Sao Vàng, thì Nguyễn Chơn là Trung đoàn phó. Sau khi ông Dân
bỏ đơn vị trở về với Chính Nghĩa Quốc Gia, thì Nguyễn Chơn đã thay thế ông Trần
Quốc Dân làm Trung đoàn trưởng. Đến 1975, Nguyễn Chơn lên tướng. Như vậy, cho
chúng ta thấy, một mặt Phật giáo Ấn Quang đã bắt ông Trần Quốc Dân đem giam
trong chùa Pháp Lâm. Mặt khác ra lệnh cho Thích Minh Tuấn đem xe ra tận đèo Phú
Gia để rước Sư đoàn Sao Vàng của Nguyễn Chơn (tướng VC), rồi sau đó giao ông
Dân cho Nguyễn Chơn xử bắn, theo chỉ thị của VC một cách rõ ràng không thể chối
cãi.
Sau khi ông Dân chết, bọn “An ninh Phật tử” đã hướng dẫn
VC, xông vào nhà ông Trần Quốc Dân dùng bạo lực đuổi vợ con ông ra khỏi nhà, mà
chúng nói là “Nhà của Diệm”.
Vợ ông Dân chỉ được ôm mấy bộ áo quần và dắt các con ông
bà về nương tựa với gia đinh tại chợ Tân Lập, Đà Nẵng.
Những người đã chết dưới bàn tay tàn bạo của “Lực luợng An
ninh Phật giáo Ấn Quang”:
Tối 29-03-1975, Đội “An ninh Phật giáo” (Ấn
Quang) đã bắn chết bảy người tại quận 3 Đà Nẵng. Trong số này chúng tôi
biết mặt, biết tên bốn người, đó là các ông:
1- Hồ Hân, quê Quảng Ngãi, nhà ở An Thị, An Hải Bắc,
nguyên Trưởng ban Thẩm vấn Ty Cảnh sát Quốc gia, thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Năm
1964, ông bị Phật giáo bắt đánh về tội “Dư đảng Cần Lao”.
2- Nguyễn Phận, nhà ở An Tân, An Hải Bắc, nhân viên ban 2 Chi
khu quận 3, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, thuộc Khu đảng bộ Yên Bái.
3- Phạm Lý, quê Tứ Câu, Thanh Thủy, Điện Bàn, Quảng Nam, nhà ở An Cư 3, An
Hải Đông, công nhân sở Mỹ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cả hai vị nói trên
đều trực thuộc Trung ương Pháp định do cụ Vũ Hồng Khanh lãnh đạo.
4- Riêng ông Bùi Ngọc Cang, Phường trưởng
Phường An Hải Bắc. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa ông là nhân viên phòng 2, Thị đoàn Bảo
An Đà Nẵng. Năm 1964, ông bị Phật giáo bắt đánh về tội “Dư đảng Cần Lao”.
Lúc “Lực luợng An Ninh Phật giáo” (Ấn Quang) đến nhà, vợ ông Cang
ra mở cửa. Vừa thấy mặt ông Cang là một tên đã bắn xả vào người ông liền mấy
phát. Ông Bùi Ngọc Cang gục chết ngay giữa nhà, trước sự
kinh hoàng của vợ con; bà Cang ngất xỉu, các con ông gào thét lên kêu
cứu, còn “Đội An Ninh Phật Giáo” (Ấn Quang) lạnh lùng bỏ đi ra!!!
Cùng bị bắn với bốn vị kể trên, còn có ba người nữa. Tôi nhớ một
người tên Mua, một người tôi quên tên cả hai người này đều là người An Hải
Đông, quận 3 Đà Nẵng, là Cán bộ Liên hiệp Nghiệp đoàn lao công, đảng viên Đảng
Công Nông do Chủ tịch Trung ương Trần Quốc Bửu lãnh đạo; và một người khác là
nhân viên Cảnh sát, người Quảng Trị (tôi cũng quên tên) đã bị bắn chết ngay
trước Trại Ngô Quyền, An Hải Bắc, quận 3. Sau khi chết được đồng bào chôn cất
ngay tại chỗ. Cho đến trước ngày vượt biển chúng tôi vẫn còn thấy nấm mộ của
người này tại đó, đồng bào vẫn thường đến thắp hương cho nấm mộ vô chủ này.
Không biết bây giờ có dời đi nơi khác hay không?!
Ngoài ra, vào buổi chiều 29-03-1975, khoảng 19 giờ,
vì không lên tầu di tản được, tôi trở về nhà; lúc ấy tôi còn rất trẻ, độc thân,
nên mẹ tôi lo sợ không muốn cho tôi đi đâu; nhưng tôi muốn biết những gì đang
xảy ra tại thành phố Đà Nẵng. Vì thế, một mình tôi đã chạy xe đến ngã ba Huế,
thì bỗng thấy một đám đông vây quanh trước một căn nhà ở góc phía trái thuộc
phuờng An Khê, quận 2, Đà Nẵng làm kẹt xe. Tôi phải dừng lại, trước mặt tôi là
một nhóm “An ninh Phật giáo” (Ấn Quang) Đang đằng đằng sát khí
trực chỉ vào một căn nhà khá khang trang, đang đóng cửa, bọn này la hét:
“Tất cả mọi người ở trong nhà phải đều ra ngoài hết, nếu không
thì chúng tao sẽ đốt nhà”.
Sau một hồi lâu không thấy động tĩnh; tôi nhận thấy trên khuôn
mặt của đồng bào ai cũng đều lo sợ. Có lẽ ở gần nhà nên họ biết về những người
trong nhà này. Trong lúc đồng bào đang lo lắng, thì bỗng có hai người đàn ông
khoảng chưa tới ba mươi tuổi đã mở cánh cửa ở bên hông trái của căn nhà bước
ra. Nhưng thật bất ngờ là khi hai người này vừa bước xuống chưa hết bậc tam
cấp; thì bọn “An Ninh Phật Tử” liền nổ súng bắn xả vào hai người này. Cả hai vị
đều gục chết trên vũng máu, thân thể nằm vắt ngang nửa trên nửa dưới của bậc
tam cấp nơi thềm nhà của họ. Thấy vậy, tôi mới hỏi thăm đồng bào ở đó và tôi
được biết: hai vị đó là hai anh em ruột và đều là nhân viên Cảnh Sát.
Trước cái chết của hai vị này, đồng bào đã khiếp đảm
vội giải tán ngay, ai về nhà nấy, tôi cũng phải rời hiện trường lập tức. Nhưng
cho đến bây giờ và mãi mãi, tôi vẫn không bao giờ quên được hình ảnh của hai vị
cũng như căn nhà của họ, tôi vẫn tâm nguyện sẽ có một ngày được trở lại quê
hương để tìm cho ra tên họ của những người đã chết một cách tức tuởi và oan
uổng dưới bàn tay tàn ác của Phật giáo Ấn Quang; bởi tôi không muốn tên tuổi
của họ sẽ bị đi vào quên lãng!
“Ủy ban lãnh đạo Lực luợng hòa hợp, hòa giải dân tộc thị bộ Đà
Nẵng”:
Người đứng đầu cái Ủy ban nầy là La Thành Tỵ, một tên tàn
ác đã từng ra tay sát hại đồng bào trong cuộc tấn công phường Thanh Bồ - Đức Lợi,
làm Chủ tịch LLHHHG Thị bộ, trụ sở được đặt tại chùa Pháp Lâm ở số 500 đường
Ông Ích Khiêm Đà Nẵng, nơi trụ trì của Thượng tọa Thích Quang Thể, Chánh
Đại diện Phật giáo (Ấn Quang) Quảng Nam - Đà Nẵng.
Tôi vẫn nhớ, bắt đầu từ ngày 01/04/1975, sau khi đã
có công ra tận vùng giặc đón VC vào thành phố, LLHHHG liên tiếp từng ngày cho
xe chạy khắp đường phố dùng loa phóng thanh kêu gọi:
“Chúng tôi Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải Thị bộ Đà Nẵng. Yêu cầu
tất cả ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái chính trị thuộc chế độ Sài Gòn, hãy mau
mau
tập trung về chùa Pháp Lâm, tức chùa tỉnh giáo hội giao nộp vũ khí và trình
diện”.
Đối với Quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa đều chưa biết số phận
mình sẽ ra sao, khi nghe lời kêu gọi đó họ đã đến “chùa” để trình diện.
Một điều mà chắc nhiều người còn nhớ, là lúc chạy
giặc đa số sĩ quan vứt bỏ súng, khi đến chùa trình diện không có súng đã bị La
Thành Tỵ, một trong những tên sát thủ trong cuộc tấn công hai Phường Thanh Bồ -
Đức Lợi, 24-8-1964. Lúc này là Chủ tịch LLHHHG thị bộ Đà Nẵng, cùng lũ lâu la
trong cái thị bộ này, lớn tiếng la lối, nạt nộ đủ điều:
“Các anh phải giao nộp súng ngắn, vì sĩ quan phải có
súng ngắn, các anh giữ súng lại để tìm cách chống phá cách mạng à? Không có
súng ngắn chúng tôi không cấp giấy chứng nhận đâu”.
Vậy là các vị sĩ quan này phải về đi tìm súng, Nhưng súng còn
đâu nữa mà tìm, bởi lúc hỗn loạn xảy ra, La Thành Tỵ đã ra lệnh cho thanh niên
Phật tử phải đi thu nhặt hết đem về chất trước sân chùa. Nhưng có vị đã đi đến
những hang cùng, ngõ hẻm tìm được súng, có vị tìm được cả chục khẩu súng như
M.16, R.15... vác lên chùa. Trong số đó, tôi biết có một người là Thiếu Tá Đỗ
Công Hào, Thuộc Tiểu đoàn 10, Chiến Tranh Chính Trị, cũng ôm một bó súng, ông
yên tâm đem vào chùa; Nhưng không ngờ khi nộp súng ông lại càng bị La Thành Tỵ
la hét càng to hơn nữa:
“Các anh có đem hàng trăm súng dài cũng không được,
vì Sĩ quan thì phải giao nộp súng ngắn, các anh phải nộp súng ngay, không thì
đừng có trách”.
Đến nuớc này, thì các vị không có “súng ngắn” chỉ còn có một cách
là về nhà đem tiền lên chùa để đưa cho “Lực Luợng An Ninh phật Giáo” đám này hễ
ai có tiền thì chúng lấy những cây “súng ngắn” trong cái đống súng ở trước sân
chùa trao cho, để nộp và để đổi lấy cái “Giấy chứng nhận trình diện” của “Thị
Bộ Hòa Hợp-Hòa Giải”. Thiếu tá Đỗ Công Hào cũng phải đem tiền mua súng.
Sau đó, ông đã phải vào nhà tù “cải tạo” T.154, đến gần mười năm sau khi đã bị
què một chân mới được ra tù. Và bây giờ, dù đã trải qua những năm dài bị hành
hạ, đọa đày, nhưng Thiếu tá Đỗ Công Hào vẫn còn giữ nguyên được cái cây... súng
ngắn. Chẳng biết bây giờ bọn Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo có còn muốn đòi Thiếu
tá Đỗ Công Hào phải trình ra cái cây... súng ngắn nữa không???
Việt Cộng trả công cho “Lực luợng Hòa hợp Hòa giải Phật
giáo Ấn Quang”:
Trở lại với cái gọi là LLHHHG, sau khi Quân - Cán, - Chính Việt
Nam Cộng Hòa đã giao nộp vũ khí, thì trước sân chùa một đống
súng cao như núi; thì Lực luợng Hòa hợp - Hòa giải đã đến Tòa Thị Chính mời “Ủy
ban Quân quản” đến nhận súng. UBQQ cử Hoàng văn Lai, “ủy viên an ninh” (sau Lai
là Đại tá Trưởng ty công an QN-ĐN) đến chùa Pháp Lâm, Lai đứng ở sân “chùa” dằn
từng tiếng:
“Các anh hãy trả lời: Cách mạng
chiến thắng hay Phật giáo chiến thắng? Hòa giải là cái gì? Mỹ, ngụy bỏ chạy,
chúng tôi tiếp thu chớ có có ai đánh đâu mà hòa giải, còn súng, chúng tôi không
cần, cho các anh đấy!!!”.
Bấy giờ đến luợt “Ban lãnh đạo hòa giải” lạy Hoàng Văn Lai để y
chở đống súng đi, vì để đống súng nằm hoài ở sân “chùa” thì … không tiện.
Sau đó “Ủy ban quân quản” ra lệnh như sau:
“- Sĩ quan trình diện tại số 03 Duy Tân.
- Ngụy quyền trình diện tại số 12 Bạch Đằng.
- Đảng phái chính trị trình diện tập thể tại số 09 Gia Long”.
Có người nghĩ rằng đã có giấy chứng nhận của “Lực lượng Hòa hợp,
Hòa giải Phật giáo”(Ấn Quang) nên không đi trình diện nữa. Nhưng nhiều vị
đã bị bắt vì không có giấy chứng nhận của “Ủy ban quân quản”, có người xuất
trình giấy chứng nhận của ”LLHHHG” thì bọn an ninh nói:
“Giấy chứng nhận của hòa giải hãy bỏ vào sọt rác vì
không có giá trị, chỉ có giấy chứng nhận của ủy ban quân quản, có chữ ký của
ông Hoàng văn Lai mới có giá trị”.
Cuối cùng Quân - Cán - Chính Việt Nam Cộng Hòa ở thành phố Đà
Nẵng phải đi trình diện hai lần; nhưng may là lần sau không bị đòi nộp “súng
ngắn” nữa!!!
Bây giờ đến lượt “cách mạng thưởng công” cho “Lực
luợng hòa giải:
Qua sự thanh lọc, một số đông bị rớt, riêng La thành Tỵ
được tiếp tục làm việc trong ”Mặt trận tổ quốc” hiện nay La Thành Tỵ là
“Trưởng ban hướng dẫn gia đình Phật tử Quảng Nam - Đà Nẵng”.
“Chính quyền Phật Giáo”:
Một điều, hơn ai hết chính LLHG Phật giáo chắc khó
quên, ấy là trong thời gian hơn một tháng từ 20/03/1975, LLHG đã nổi lên
cướp chính quyền phường, khóm xã, thôn, bởi chính quyền cũ có người đã di tản,
còn những người kẹt lại vì thấy những bộ mặt đằng đằng sát khí của những “ông”
hòa giải nên chẳng ai dám nói gì. Họ cũng tự xưng là Phường trưởng, Xã trưởng,
Thôn, Khóm trưởng, đã làm mưa làm gió, bắt giết người, lập tòa án nhân dân đấu
tố nhiều người đến 29/03/1975, VC vào thành phố rồi, chúng cũng không hề nói gì
mà còn vui vẻ bắt tay “các ông hòa giả”i gọi là “đồng chí”. Nhưng sau ngày
30/04/1975, Việt cộng mới yêu cầu các khuôn hội bàn giao chính quyền cho
chúng. Điều này đã làm “Hòa giải Phật giáo” bị mất mặt trước dân chúng, nên
“Chính quyền Hòa giải” nhất định không chịu bàn giao, vì đã nắm quyền hơn một
tháng rồi, giết người chẳng ít, bắt giam cũng nhiều (như tôi đã viết ở bài trước).
Nên chính quyền hòa giải Phật giáo đòi Việt cộng phải hợp thức hóa cho họ trở
thành những cán bộ lãnh đạo phuờng, khóm, xã, thôn vì đã có công lao đưa xe đi
đón “bộ đội” Bắc Việt vào thành phố.
Cuối cùng Việt cộng tổ chức một cuộc mít-tinh tại Đài phát
thanh Đà Nẵng, trong buổi mít tinh ban tổ chức đã giới thiệu tên Trần Thận, “Thường vụ tỉnh ủy
Quảng-Đà” lên phát biểu như sau:
“Sở dĩ có cuộc mét-tinh hôm nay là do sự đòi hỏi của
Phật giáo. Tôi nhấn mạnh là Phật giáo chớ không có hòa hợp, hòa giải chi hết á.
Vì cái chiêu bài hòa hợp, hòa giải là chỉ do Phật giáo tổ chức ra để lừa bịp
với chế độ Sài Gòn mà thôi. Chúng tôi công nhận Phật giáo Ấn Quang đã có công
đóng góp với cách mạng đánh đổ Mỹ- ngụy. Nhưng, đó là nghĩa vụ công dân chớ
không vì thế mà Phật giáo đòi cầm quyền. Hiện nay, còn có một số phuờng, khóm,
xã, thôn thuộc các khuôn hội còn nắm giữ không chịu bàn giao cho ủy ban nhân
dân các địa phương. Phật giáo nên biết, ngày xưa ông Lý Vạn Hạnh là cha ruột
ông Lý Công Uẩn nên Phật giáo muốn làm gì thì làm, còn hiện nay ông Đôn Hậu
không phải là cha của đồng chí Lê Duẩn, và chính quyền cách mạng chứ không phải
là triều Lý. Vậy chúng tôi yêu cầu Phật giáo phải khẩn trương bàn giao gấp, nếu
chậm trễ chúng tôi sẽ có biện pháp…”.
Nói đến đây, y nổi nóng vung tay hét:
“Nay đất nước đã có độc lập tự do rồi mà không lo tu thân, tăng
gia sản xuất để góp phần xây dựng đất nuớc, mà cứ đòi cầm quyền! Phật giáo lấy
tư cách gì để đòi cầm quyền? Ai cho cầm quyền? Phật giáo chỉ có cầm …cầm …
cầm…”
Bỗng nhiên có tiếng cười nổi lên, nhiều bà
cuời lớn quá khiến tên Thận phải khựng lại, rồi không biết phải nói tiếp những
gì nên y nói đại:
“Ơ…ơ … cầm … cầm … cầm … cái gì cũng được nhưng không
được cầm quyền”.
Chùa Phổ Đà
Thích Đôn Hậu bắt buộc đồng bào phải đi diễn hành mừng sinh nhật
Hồ Chí Minh:
Ngày 18/05/1975, Thích Đôn Hậu chỉ thị tỉnh giáo hội Quảng Nam -
Đà Nẵng và Thị bộ Hòa giải tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Pháp Lâm.
Trước khi tổ chức sinh nhật, các khuôn hội tại các quận lân cận và thành phố Đà
Nẵng Đà ra lệnh cho đồng bào phải tập trung về “chùa” Phổ Đà “để bắt đầu cuộc
diễn hành chào mừng chiến thắng và dự sinh nhật của bác Hồ vị cha già của dân
tộc”. “Lực luợng Hòa hợp-Hòa giải “ đã bắt đồng bào ở các quận như: Duy Xuyên,
Điện Bàn, Hội An, Hòa Vang… phải đi bộ, mọi người phải tay cầm đèn gió để đem
xuống thì thắp sáng lên cho nó ra vẻ “phấn khởi hồ hởi” và gói cơm đem theo để
ăn dọc đường vì có nơi phải đi bộ một ngày một đêm mới tới Đà Nẵng. Trước khi
đi, các khuôn hội đã tập dượt cho đồng bào hô khẩu hiệu như sau: Khi những
“ông” hòa giải tay cầm loa phóng thanh, mồm hô:
“Hoan hô bộ đội giải phóng miền nam anh hùng”, thì đồng bào phải hô
lớn “hoan hô …hoan hô…” còn khi mấy “ông” hô: “Đả Đảo đế quốc Mỹ
và ngụy quyền tay sai bán nuớc”, thì đồng bào phải hô “đả đảo…đả đảo…”
Nhưng sau một đêm ngày đi bộ vì mệt và buồn ngủ, nên đồng bào
chẳng còn nhớ những gì khác cả, mà chỉ còn nhớ bốn tiếng “hoan hô” và “đả
đảo” mà thôi. Tôi vẫn nhớ như in vào đêm ấy đã hơn một giờ sáng ngày
19/05/1975. Lúc đó tôi đang ngủ, thì bỗng nghe tiếng chân người đi, tiếng
ồn ào, tiếng loa phóng thanh cùng với tiếng hô “hoan hô…đả đảo…”. Bây giờ mỗi
lần nhớ lại chuyện đêm ấy, nếu có ai thì tôi kể lại để cùng cười, còn nếu chỉ
mình tôi, thì tôi … cười một mình.
Đêm ấy, khi đoàn người đã bị các “ông” hòa giải hành hạ
đang đi qua nhà, tôi đã vừa cảm thương đồng bào vừa không nén được tiếng cuời,
khi nghe mấy “ông” hòa giải tay cầm loa phóng thanh mồm la ơi ới:
“Bà con ơi! ai rớt gói cơm? thì có tiếng của đồng bào đáp trả “hoan hô... hoan hô…”
Nghe vậy mấy “ông” hòa giải lại la lớn:
“Bà con ơi! gói cơm ai rớt?”
Đồng bào lại hô:
“đả đảo … đả đảo …”.
Cứ tiếp tục như vậy, một hồi lâu, đồng bào cứ mắt nhắm, mắt mở
cũng chỉ biết có ”hoan hô”với “đả đảo” cái... gói cơm.
Cuối cùng, các “ông Hòa giải” tức quá mới đi tới gần
từng nhóm người, tay đập mạnh vào người họ mồm hét:
“Gần sáng rồi, tỉnh táo đi, nghe chúng tôi nói đây
nè ai… làm… rớt… gói… cơm… thì nhận lại, chứ nghe cái gì đâu mà cứ hoan hô với
đả đảo hoài… vậy hả?”
Lúc đó đồng bào mới biết là có “sự cố”.
Nên biết là lúc đó, đồng bào rất sợ Hòa giải Phật giáo, các
khuôn hội buộc mỗi gia đình ít nhất phải có một người phải cầm đèn gió đi diễn
hành. Tại thành phố Đà Nẵng, để cho nó có “hệ thống” trước khi diễn hành
đến “chùa” Pháp lâm, các khuôn hội dùng loa phóng thanh kêu gọi:
“Yêu cầu tất cả đồng bào hãy tập trung về tại “chùa” Phổ
Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh ĐN, tức Phật học viện Trung phần, để bắt đầu
cuộc diễn hành trên khắp thành phố suốt đêm để mừng cách mạng chiến thắng, cho
đến sáng ngày 19-05, trước khi đến chùa Pháp Lâm tại số 500, đường Ông Ích
Khiêm để mừng sinh nhật Hồ Chủ tịch vĩ đại!”
Trở lại với cuộc diễn hành hay đúng hơn là Hành diễn. Sau
khi đã thấy những sự kiện kể trên, tôi nghĩ chờ Trời sáng sẽ xuống chùa Pháp
Lâm xem thử mọi việc ra sao.
Khi đến đến “chùa” Pháp Lâm, tôi cùng vào với đồng bào
diễn hành. Chúng tôi đã chứng kiến “Thượng tọa” Thích Đôn Hậu ngỏ lời nói:
“Yêu cầu đồng bào từ nay hãy lập tại nhà một bàn thờ thật trang
trọng, phải có ảnh bác Hồ kính yêu để thờ vị cha già của dân tộc, ảnh đang có
tại các chùa, đồng bào hãy đến để mua đem về mà thờ”.
Tiếp theo Thích Đôn Hậu (dân Đà Nẵng thường gọi là Thích
Đoản Hậu hoặc Thích Đâm Hậu), giới thiệu một “cán bộ cách mạng lên nói chuyện
với đồng bào” khi người này lên nói chuyện đã tự giới thiệu tên là Hoàng
Châu Ký, Giám đốc Sở Thông tin văn hóa khu trung, Trung bộ.
“Giáo sư Hoàng Châu Ký
sinh năm 1921 tại xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam,
trong một gia đình khá giả. Ông tham gia cách mạng ngay từ năm 16 tuổi. từ trần
ngày 31 tháng 1 năm 2008 tại Đà Nẵng, hưởng thọ 87 tuổi”.
Hoàng Châu Ký đã ngỏ lời khen ngợi có đoạn như sau:
“… Quý Thượng tọa, đại đức và quý vị thuộc lực luợng hòa hợp hòa
giải, là những người đã có công với cách mạng, tham gia đánh đổ Mỹ- ngụy, thật
là đáng ngợi khen. Trước đây, quý vị nói là bị Mỹ-Ngụy áp bức, kềm kẹp không có
tự do, nay cách mạng đã giải phóng, không còn ai bị áp bức nữa. Từ nay, quý vị
tu sĩ đều được tự do ở lại chùa tu hành. Ngoài ra, cách mạng sẽ giúp đỡ bằng
cách tạo điều kiện cho có đất đai để quý vị được tự do làm chủ, tự do lao động
sản xuất, để góp phần xây dựng đất nước, và để được vinh dự là không còn ăn bám
vào thiên hạ nữa.
Còn đối với những người không phải tu hành, tôi biết ở đây có
nhiều người có bằng cấp cao như tiến sĩ, bác sĩ, giáo sư, kỹ sư … Các anh sẽ
được trọng dụng trở lại, làm việc theo nghành nghề chuyên môn, bác sĩ trở lại
bệnh viện, giáo sư trở lại trường học … Các anh sẽ được bình đẳng như những
giáo sư, bác sĩ, kỹ sư cách mạng miền Bắc. Nghĩa là, hàng tháng họ được bao
nhiêu ký rau muống, bao nhiêu mì chính (bột ngọt)… thì các anh cũng được lãnh
bấy nhiêu. Ngoài ra, muốn cải thiện, nếu ở thành phố không có đất, chúng tôi sẽ
giúp đỡ cho các anh có điều kiện để tự do nuôi heo, tự do nuôi gà, tự do nuôi
vịt, tự do …tự do...”.
Hoàng Châu Ký còn nói thêm nhiều thứ tự do nữa, Nhưng sao tôi
thấy trên từng khuôn mặt của những “vị trí thức” này bỗng trở nên nhợt nhạt khi
biết mình đã có đầy đủ những thứ … tự do!!!
Trong lúc y còn nói chuyện, Nhưng chúng tôi không thể đứng nhìn
những đồng bào tội nghiệp của mình, mà chúng tôi biết chắc chắn là họ phải nằm
đường, ngủ chợ, lê lết một ngày, một đêm nữa mới trở về đến nhà của họ, nên
chúng tôi phải ra về.
“Trại Cải Tạo T.154”:
Đến đây, tôi xin nói qua về trại cải tạo T.154, là hậu thân của
trại cải tạo Đá Trắng. Nhân đây, vì tôi vốn là dân gốc tại làng Thạnh Bình,
Tiên Phước, Quảng Nam; từ nhà tôi đến nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ cần đi bộ,
tôi biết rất rõ về trại này, nơi Bác ruột của tôi đã bỏ mình tại trại vào năm
1964, nên tôi phải nói rõ về cái tên T.154. Bởi khi quận Tiên Phước mất vào
ngày 13/03/1975, thì VC đã cấp tốc khởi công phá bỏ trại Đá Trắng vốn ở dưới
hầm, để thành lập trại tù mới lớn hơn, từ lúc đầu VC đã bắt thanh niên quận
Tiên Phước làm công việc xây dựng bằng nhà tranh vách đất, đến ngày
15/04/1975, Việt cộng cho “khánh thành” và trại Đá Trắng chính thức đổi tên
thành “Trại cải tạo T.154”, để rồi các vị ai đã vào đấy, thì ít có vị nào ra
trại trước muời năm, có vị đã bỏ mình tại trại vì bị hành hạ đến bệnh tật không
được điều trị, có vị bị xử bắn, bị bỏ đói chết trong nhà biệt giam.
Sau đó, khi đưa tất cả các vị quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa
đã trình diện tại “chùa” Pháp Lâm vào đây, VC lại bắt các vị tù trong trại tự
xây nhà tù mới, mái lợp ngói, nền lát gạch. Trại chính là Trại 1, bên
nam gồm có 12 (mười hai) nhà, mỗi nhà có bốn phòng, mỗi phòng có hai dãy sạp gỗ
dài song song và một sạp chiếc, mỗi sạp chứa được trên dưới 20 ( hai mươi)
người. Tất cả các phòng, các cánh cửa đều có gài một thanh sắt dài có gắn khóa
sắt, để mỗi tối sau một ngày lao động, mọi người tù phải vào phòng để một công
an gọi là “Cán bộ trực trại” điểm danh xong rồi khóa cửa lại. Nhưng chưa đủ mà
còn có một nhà Biệt Giam, trong nhà nầy có những thanh sắt gài hai chiếc cùm
sắt xuyên qua Tường gạch kiên cố, để cùm hai chân người tù, phòng chỉ bốn mét
vuông, không có cửa sổ, chỉ có một lỗ thông hơi hình tròn đường kính khoảng 08
cm (tám phân), bên ngoài là cánh cửa sắt có gài một thanh sắt có khóa sắt.
Trong trại còn có nhà cấp duỡng (nhà bếp) một trạm xá.
Ngoài ra, quanh trại VC còn xây thêm các phân trại như các trại:
Trại Thôn Năm, Thôn Tư, Na Sơn, Nà Thao, Lò gạch, Nhà chăn nuôi, Nhà máy ly tâm
sản xuất đường (chỉ phân phối cho công an, còn tù cải tạo thì chỉ được nhìn mà
thôi). Đầu năm 1979, vì đánh nhau với Tàu nên VC chuẩn bị đưa một số vị
tù ra Bắc, đã phải ngưng lại, thay vào đó VC đã lập thêm nhà biệt giam 02.79
(Đồng Mộ). Rồi thay vì đưa ra Bắc; vào đêm 03-05-1979, các vị này đã bị
trói dính chặt vào nhau. Sau đó, các vị đã bị công an vũ trang dao kề cổ, súng
kề lưng, đưa vào nhà biệt giam 02.79 (Đồng Mộ) trong một đêm khuya tối Trời.
Trong số này có bốn vị tu sĩ đó là quý ngài:
- Linh mục Đặng Đình Canh, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Thanh Bồ, Đà Nẵng,
- Linh mục Vũ Dần, hiện nay quản nhiệm giáo xứ Phú Thượng, Đà Nẵng,
- Linh mục Nguyễn Đình Ánh.
Riêng Linh Mục Tống Kiên Hùng sau khi ra tù ngài trở về giáo xứ
Tam Tòa, Nhưng công an QN-ĐN đã trục xuất ngài vào miền Nam, rồi ngài sang Hoa
Kỳ, hiện nay ngài đã vào dòng tu kín tại Hoa Kỳ, và Mục sư Dương Đình Nguyện,
hiện cũng đã tiếp tục hầu việc Chúa ở Hoa Kỳ.
Ngoài các trại tù nam, VC cũng lập thêm phân Trại Nữ gồm có năm
nhà, có nhà cấp dưỡng, trạm xá riêng, các phòng cũng kiên cố như trại nam.
Nhưng mỗi khi nữ tù “vi phạm nội quy” thì công an trại nữ lại “Lập biên bản” để
đưa vào cùm trong nhà biệt giam của trại nam, vì trại nữ không có nhà cùm biệt
giam. Ví thế, nữ tù vì mắc cỡ nên rất sợ bị vào nhà cùm ở bên trại nam; bởi bất
kể một nữ tù nào chỉ cần có một giờ bị ôm áo quần đi vào nhà cùm ở trại nam, là
cả hai trại nam - nữ tù đều biết tất cả.
Hai trại nam, nữ cách nhau một giòng suối nhỏ, “tuy xa mà gần,
tuy gần mà xa” chung một hội trường để hai trại nam, nữ cùng học tập chính trị,
hoặc họp toàn trại mỗi khi trong trại có nhiều người “vi phạm nội quy” hoặc xem
văn nghệ vào dịp Tết, hay ngày 2/09, “nghệ sĩ” là các anh chị em đa số là các
anh chị em thuộc Chiến Tranh Chính Trị cũ.
Nói đến nhà tù này, thật là kinh hoàng, khủng khiếp!!! Vì là nhà
tù lao động chuyên về nông nghiệp, nên cả nam lẫn nữ tù đều phải làm những công
việc vô cùng nặng nhọc. Hàng ngày, nữ tù chúng tôi thường đi làm chung với quý
vị nhà 08 do Trung tá Nguyễn Văn Chuớc “Tự quản” (nhà trưởng) quý vị này đã
từng qua nhà biệt giam 02-79 (Đồng Mộ) và nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dõng
làm nhà trưởng, ngày nào hai nhà này cũng thay phiên lao động bên nữ tù. Các
anh đã thay trâu bò cày, bừa cho nữ cấy, gặt. Với chỉ tiêu chung, ba người một
sào, bắt buộc phải đạt trong ngày. Ngoài ra phải leo lên đồi cao cuốc đất trồng
sắn, mỗi ngày với chỉ tiêu vừa cuốc vừa trồng phải “đạt” 500 cây hom sắn, hay
cuốc đất trồng mía, tỉa đậu, trồng khoai, lên rừng nam đốn củi, nữ vác xuống
chất thành mét khối, cũng phải “đạt chỉ tiêu”. Nói tóm lại làm việc gì cũng
phải “đạt chỉ tiêu” hết.
Nhưng không phải “đạt chỉ tiêu” rồi mà tối về phòng được
ngủ sớm, mà tất cả chúng tôi, sau giờ ăn tối còn phải “làm tranh thủ” hái đậu
phụng (lạc) cũng “chỉ tiêu” cho ba người đầy một thúng mới được về phòng, đặt
lưng xuống chưa được bao lâu thì 06 giờ sáng phải thức dậy để bắt đầu một ngày
lao động khác. Có khi vừa ăn tối xong, phải “tranh thủ” làm cỏ mía...
Thôi thì đủ thứ «tranh thủ» không làm sao kể hết.
Chúng tôi vẫn nhớ, có những lần suốt ngày dầm mình dưới sình,
lầy, tới ngực, tới bụng làm mồi cho đỉa; Nhưng vẫn “không đạt chỉ tiêu”. Vì
vậy, đến chiều về trại, chúng tôi đã bị phạt, bằng cách không cho tắm rửa.
Những lần như thế, chúng tôi cứ khóc như mưa, chẳng làm sao nuốt nổi chén sắn
độn cơm, cũng không sao ngủ được vì trên người còn dây dính những bùn lầy, hôi
hám!!!
Chúng tôi cũng không bao giờ quên những năm tháng lao động bên
các vị Quân, cán, chính VNCH, thuộc nhà 08 và nhà 10. Tôi vẫn nhớ mãi những ánh
mắt đầy thương cảm và lo lắng của các anh, khi nhìn chúng tôi với những tấm
thân yếu đuối, mà các anh chỉ nhìn thấy từ bụng, từ ngực nổi trên sình lầy,
trong những ngày đông buốt giá, đến những ngày hạ nắng như thiêu đốt. Đôi chân
của chúng tôi lúc nào cũng phải lần bước theo những cây đà, do chính các anh
đốn từ trên rừng đem bỏ xuống ruộng. Các anh luôn luôn lưu ý đến chúng tôi, để
khi nào nữ tù có ai lỡ trượt chân khỏi cây đà, thì các anh kịp thời nối cuốc,
nối tay, kéo chúng tôi lên. Vì thế, có nhiều người rơi xuống ruộng, nhưng không
hề có một ai bị chết vùi thân dưới sình lầy cả.
Nhưng với tôi, mặc dù bị tù đày. Tôi vẫn thấy mình có cái
“may mắn”
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
No comments:
Post a Comment